Đó là một buổi sáng yên tĩnh, ấm áp, và chuyện ngày hôm qua có vẻ như điều gì xa vời và mơ hồ không có thật. Nhưng khi tôi ra tới vườn thì bà Eagleton đã không còn đấy nữa để dọn các luống hoa, và dải băng vàng của cảnh sát vẫn bao quanh hàng giậu. Trên đường đến Viện, tôi dừng lại ở một sạp báo để mua tờ báo và bánh doughnut. Tại văn phòng, tôi bật máy pha cà phê và trải rộng tờ báo trên mặt bàn. Tin về cái chết của bà Eagleton là câu chuyện nổi bật nhất trên tờ báo địa phương, với hàng tít chạy ngang tờ báo “Cựu nữ anh hùng thời chiến bị sát hại”. Có một tấm hình của bà Eagleton lúc còn trẻ, khó nhận mặt, và tấm hình khác chụp cảnh trước cửa nhà, với rào chắn và xe của cảnh sát ở ngoài. Bài tường thuật cho biết thi hài đã được phát hiện do người ở trọ, một sinh viên toán người Argentina, và người cuối cùng gặp nạn nhân lúc còn sống là cháu nội duy nhất của bà, Elizabeth.
Trong bài không có gì tôi chưa được biết, xét nghiệm tử thi đêm qua không tìm ra thêm điều gì mới. Trong một cột khác có chi tiết về cuộc điều tra của cảnh sát. Bài viết không ký tên, nhưng đằng sau phong cách có vẻ vô tư tôi nhận ngay ra giọng điệu xỏ lá của gã phóng viên đã phỏng vấn tôi. Hắn tuyên bố rằng cảnh sát đã loại trừ khả năng có kẻ đột nhập tấn công, dù rằng lúc bấy giờ cửa trước không khóa. Trong nhà không có thứ gì bị đụng chạm hay lấy cắp. Có vẻ như cảnh sát đã có một đầu mối nào đó mà thanh tra Petersen không muốn vội tiết lộ. Người phóng viên đã có căn cứ để gợi ý rằng đầu mối có thể đi đến kết tội “những thành viên gần gũi trong gia đình bà Eagleton”. Và hắn nói thẳng luôn rằng Beth là người có huyết thống trực hệ duy nhất còn sót lại, và sẽ thừa kế một “gia tài khiêm nhường”. Trong mọi trường hợp, bài báo kết luận, cho đến khi có những biến chuyển mới, Thời báo Oxford xin nhắc lại khuyến cáo của thanh tra Petersen là các cư dân nên quên đi những thời kỳ xa xưa tốt đẹp, và luôn luôn khóa cửa nhà mình.
Tôi lật giở các trang báo, tìm mục cáo phó. Ở đây có một danh sách dài bên dưới cáo phó của bà Eagleton, bao gồm Hội Chơi Scrabble Anh quốc và Viện Toán học, trong đó có nhắc tên cả Emily Bronson lẫn Seldom. Tôi xé trang báo ra và đút vào ngăn kéo, rồi rót một cốc cà phê và chìm đắm vào công trình của vị phụ trách nghiên cứu của tôi trong vài tiếng đồng hồ. Đến một giờ chiều, tôi xuống văn phòng bà ở tầng dưới và thấy bà đang ăn một bánh mì kẹp, với chiếc khăn giấy trải ra phủ trên đám sách. Bà reo khẽ một tiếng vui mừng khi thấy tôi mở cửa, làm như tôi vừa trở về từ một cuộc viễn du nguy hiểm nào. Chúng tôi nói chuyện về vụ án mạng khoảng vài phút, và tôi kể cho bà tất cả những gì có thể kể, nhưng không nhắc gì đến Seldom. Bà có vẻ mất tinh thần và thành thật quan tâm về tôi. Bà hy vọng cảnh sát không làm phiền tôi quá mức. Họ có thể làm cho người ngoại quốc rất khó chịu, bà cho biết. Bà gần như sắp đi đến chỗ xin lỗi tôi vì đã gợi ý cho tôi thuê phòng ở chỗ bà Eagleton. Chúng tôi nói chuyện thêm một lúc nữa, trong khi bà kết thúc chiếc bánh kẹp. Bà đưa nó lên bằng hai tay, mổ nhấm nháp một cách rất gọn ghẽ như một con chim nhỏ.
“Em không biết là Arthur Seldom đang ở Oxford đấy.” Tôi nói một lúc nào đấy giữa câu chuyện.
“Tôi lại không nghĩ là có khi nào ông ấy đi khỏi!” Emily mỉm cười đáp. “Cũng giống như tôi, Arthur tin là cứ đợi một thời gian đủ lâu, sẽ gặp tất cả các nhà toán học hành hương về Oxford. Ông ấy có một chức vụ vĩnh viễn ở bên Merton. Nhưng không thấy ông ấy chường mặt ra nhiều lắm đâu. Em thấy ông ấy ở đâu thế?”
“Em nhìn thấy tên ông trong bản báo tử của Viện,” tôi đáp, thận trọng.
“Nếu em muốn, tôi có thể thu xếp cho em gặp ông ấy. Tôi nghĩ ông ấy nói tiếng Tây ban Nha rất giỏi. Vợ đầu của ông ấy là người Argentina,” bà cho biết. “Bà ấy là chuyên gia phục chế ở bảo tàng Ashmolean, lo về cây xà ngang Assyria lớn.”
Bà vội ngừng lại, như thể vừa vô ý nói lỡ lời.
“Bà ấy... mất rồi ạ?” tôi ướm thử.
“Phải,” Emily đáp. “Nhiều năm rồi. Bà ấy mất trong cùng một tai nạn với cha mẹ của Beth. Cả bốn người khi ấy cùng ngồi trong một chiếc xe. Họ là bạn thân lắm. Họ đang trên đường đi tới Clovelly chơi vào dịp cuối tuần. Chỉ còn một mình Arthur sống sót thôi.”
Bà gấp tấm khăn giấy lại rồi thảy vào trong sọt rác, chú ý không để vung vãi mảnh vụn nào. Bà nhấp một ngụm nước từ cái chai nước khoáng nhỏ, rồi sửa lại cặp kính trên sống mũi:
“Còn bây giờ,” bà vừa hỏi, vừa ngó tôi bằng cặp mắt xanh bạc màu, gần như ngả sang màu trắng: “em đã có thì giờ đọc mấy bài viết của tôi chưa?”
Lúc tôi rời khỏi Viện, tay mang theo vợt thì đã hai giờ chiều. Đó là một ngày nóng nực thực sự, và đường phố có vẻ như đang nằm say ngủ dưới mặt trời hè. Một chiếc xe bus hai tầng của công ty hướng dẫn du lịch Oxford rẽ vào góc phố trước mặt tôi, chậm chạp và nặng nề như một con sên. Trên xe chất đầy du khách người Đức đeo kính râm và đội mũ lưỡi trai, chỉ trỏ tòa nhà đỏ của phân viện Keble đầy vẻ ngưỡng mộ. Trong khu Công viên Đại học, nhiều sinh viên đang hưởng chuyến picnic trên thảm cỏ. Tôi hoàn toàn bị bao trùm bởi một cảm giác ngỡ ngàng không thể tin, y như cái chết của bà Eagleton đã hoàn toàn tan biến mất. Những án mạng không thể nhận ra, Seldom từng nói. Nhưng thực sự vụ giết người nào, cái chết nào cũng chỉ làm mặt nước khẽ rung, rồi nhanh chóng biến thành không nhận ra được. Chưa hết hai mươi bốn giờ, mà mọi việc đã hệt như không hề có sự xáo trộn nào xảy ra. Không phải ngay chính tôi giờ cũng đang đi chơi quần vợt, giống như mỗi ngày thứ Năm khác? Tuy nhiên, bước đi trên lối mòn cong cong dẫn đến sân quần vợt, tôi nhận thấy một sự thinh lặng khác thường, như thể những thay đổi nhỏ đã bí mật xảy ra. Chỉ có mỗi tiếng động nhịp nhàng của một trái banh lẻ loi đập vào tường, với âm vang kỳ diệu mỗi lúc một lớn dần.
Không thấy cả xe của John lẫn Sammy trong bãi đậu, nhưng chiếc Volvo đỏ của Lorna đậu ngay trên cỏ bên cạnh hàng rào dây thép của một trong mấy mảnh sân chơi. Tôi đi vòng quanh tòa nhà đến phòng thay quần áo, và thấy cô đang luyện cú tạt trái vào tường với sự tập trung cao độ. Ngay từ xa, tôi đã có thể thưởng thức đường nét tuyệt mỹ của cặp chân thon, rắn chắc bên dưới chiếc váy rất ngắn, cũng như nhìn thấy bộ ngực cô căng lên và ra mỗi lần vung vợt. Cô ngừng lại khi thấy tôi và mỉm cười, giống như cười một mình.
“Tôi còn tưởng anh sẽ không đến chứ,” cô nói. Cô lấy mu bàn tay gạt mồ hôi trán, rồi hôn lướt qua trên má tôi. Cô nhìn tôi với nụ cười tò mò thích thú, như thể cô muốn hỏi tôi điều gì, hay chúng tôi đang cùng nhau tham gia một âm mưu nhưng cô còn chưa rõ vai trò của mình.
“John và Sammy có chuyện gì vậy?” Tôi hỏi.
“Tôi biết đâu,” cô đáp, cặp mắt xanh lục mở to một cách ngây thơ. “Có ai gọi tôi đâu. Tôi đang nghĩ hay các anh cùng quyết định bỏ rơi tôi kia đấy.”
Tôi vào phòng thay quần áo và thay đồ rất nhanh, trong lòng ngạc nhiên một cách sung sướng vì sự may mắn bất ngờ này. Mảnh sân nào giờ cũng vắng. Lorna đứng đợi tôi bên cánh cổng. Tôi nhấc then cổng lên và nàng đi vào trước. Trên quãng đường ngắn đi tới chỗ băng ghế, nàng quay sang nhìn tôi một lần nữa, ngần ngừ. Cuối cùng, làm như không kìm nổi, nàng lên tiếng:
“Tôi đọc tin về vụ giết người trên báo.” Mắt cô sáng lên, gần như háo hức. “Lạy Chúa, tôi biết bà cụ ấy mà,” cô nói, hệt như vẫn còn kinh ngạc, hay làm như điều đó lẽ ra đã phải bảo vệ bà Eagleton đáng thương. “Tôi cũng có gặp cháu gái vài lần ở bệnh viện. Anh đã phát hiện ra thi thể, thật thế à?”
Tôi gật đầu, tay lo tháo cái bọc ra khỏi cây vợt.
“Hứa đi, là anh sẽ kể hết mọi chuyện cho tôi.”
“Tôi đã phải hứa là sẽ không nói gì hết rồi,” tôi đáp.
“Thật à? Nghe vậy còn làm câu chuyện hấp dẫn thêm nữa. Tôi biết còn có chuyện gì đó nữa!” cô reo lên. “Không phải là cô cháu gái chứ, phải không? Tôi cảnh cáo anh đấy,” cô nói, ấn ngón tay vào ngực tôi, “anh không được quyền giấu giếm gì người bạn chơi cặp đôi ưa thích nhất của anh nhé. Anh phải kể cho tôi mới được.”
Tôi bật cười và trao banh cho nàng qua lưới. Trong sự yên lặng vắng vẻ của câu lạc bộ, chúng tôi đập banh cho nhau từ tận cuối sân. Trong quần vợt có một niềm thích thú còn hơn là giành giật vất vả để ghi được một điểm, và đó là bài dợt khởi động từ vạch kẻ cuối, trong đó ngược lại với luật chơi, ta cố giữ cho banh được chuyền qua lại không gián đoạn càng lâu càng tốt. Lorna tự tin một cách tuyệt vời với cả cú tạt phải lẫn tạt trái, và nàng giữ vững vị trí, áp sát đường vạch cho đến khi tìm ra một chỗ hở cho một quả bạt, phản công từ góc sân với cú đập chéo.
Chúng tôi tiếp tục nhắm vào quả banh mỗi khi lọt vào tầm với, càng lúc càng gia tăng nhịp độ di chuyển. Lorna chống cự rất quả cảm, vạch những dấu trượt sâu trên mặt đất khi nàng chồm từ bên này sân qua bên kia, càng lúc sự cố gắng của nàng càng mãnh liệt. Sau mỗi điểm nàng lại trở về tuyến giữa, thở hổn hển, hất đuôi tóc ra sau vai bằng một cử chỉ duyên dáng. Nàng đang quay mặt về phía mặt trời, nên cặp chân dài, rám nắng bóng loáng lên dưới tà váy. Chúng tôi chơi trong yên lặng, tập trung tinh thần, hệt như một điều gì đó quan trọng đang được dàn xếp bằng cuộc chơi này. Trong một đường bóng dài, nàng đang chạy ngược trở lại giữa sân sau một cú vụt bóng ở góc xa thì lại phải xoay mình một cách bất tiện để với tới cú trả banh của tôi bằng đòn tạt trái. Giữa lúc xoay mình, một chân của nàng bước hụt, và nàng nghiêng một cú rất nặng. Nàng nằm yên, ngửa mặt lên trời, vợt văng ra xa.
Lo lắng, tôi chạy bổ tới bên lưới, nhưng hóa ra nàng không bị thương tích gì, chỉ kiệt sức. Nàng thở không ra hơi, hai tay chìa ra, giống như không còn sức để đứng dậy. Tôi nhảy qua lưới và quỳ xuống bên cạnh nàng. Nàng đưa mắt nhìn tôi, đôi mắt xanh lục lấp lánh lạ lùng dưới ánh nắng, vừa đùa cợt vừa chờ đợi. Tôi nâng đầu nàng lên và nàng tự nhấc mình dậy bằng một cùi chỏ, cánh tay kia luồn quanh cổ tôi. Miệng nàng đưa sát vào miệng tôi và tôi cảm thấy được hơi thở ấm áp, vẫn còn nặng nhọc của nàng. Tôi hôn nàng và nàng ngả mình lại xuống đất, kéo theo cả tôi. Chúng tôi tách ra khỏi nhau một khoảnh khắc, và nhìn nhau với cái nhìn đầu tiên, sâu thẳm, hạnh phúc, hơi bỡ ngỡ giữa hai người tình. Tôi hôn nàng thêm lần nữa và cảm thấy ngực nàng áp sát vào ngực mình. Tôi luồn tay vào dưới áo thun của nàng, và nàng để yên cho tôi mân mê núm vú mình một lúc, nhưng nàng hoảng hồn, khi tôi định luồn tay kia vào dưới váy.
“Khoan, khoan đã,” nàng thì thầm, đưa mắt liếc xung quanh. “Ở nước anh người ta làm tình trên sân quần vợt thế này à?” Nàng lồng các ngón tay vào ngón tay tôi để đẩy tay tôi ra một cách dịu dàng, rồi cho tôi thêm một cái hôn ngắn. “Tới nhà em đi.” Nàng đứng dậy, kéo lại quần áo, rồi giũ bụi đất sét khỏi thân mình. “Anh lấy đồ đạc xong rồi đừng tắm nhé.” Nàng thì thầm. “Em đợi ở ngoài xe.”
Nàng lái xe lặng lẽ, mỉm cười một mình và chốc chốc lại hơi xoay đầu sang nhìn tôi. Đến một chỗ đèn đỏ, nàng đưa tay ra và vuốt ve mặt tôi.
“Vậy là chuyện của John với Sammy...” tôi lên tiếng.
“Không liên quan gì đến em hết,” nàng cười, nhưng lần này nghe không thuyết phục bằng lần trước. “Không phải các nhà toán học tin ở sự trùng hợp à?”
Chúng tôi đậu trong một hẻm nhỏ ở Summertown, rồi trèo hai tầng lầu lên chỗ ở của Lorna, một căn hộ áp mái trong căn nhà lớn kiểu Victoria. Nàng mở cửa và chúng tôi lại hôn nhau tiếp ngay sau khi bước chân vào nhà
“Em đi tắm một lúc, nhé,” nàng nói và bước theo lối đi về phía một cánh cửa có khung kính mờ.
Tôi ngồi đợi trong căn phòng khách nhỏ, nhìn quanh quất. Nó bừa bộn một cách duyên dáng, chất đầy những thứ lặt vặt đủ kiểu - ảnh ngày lễ, đồ chơi chất dẻo, poster phim và một đống sách nhồi vào một cái tủ nhỏ. Tôi nhoài người tới đọc một vài tên sách. Toàn là loại tiểu thuyết trinh thám. Tôi nhìn vào phòng ngủ. Giường ngủ được dọn gọn ghẽ, khăn trải giường rủ ngang mặt sàn, và một cuốn sách đang mở úp mặt xuống chiếc bàn nhỏ bên cạnh giường. Tôi bèn sang xem thử nhan đề, và cứng người lại vì kinh ngạc: đó chính là cuốn sách của Seldom về các liên chuỗi logic, đầy những gạch dưới có vẻ giận dữ và ghi chú bên lề không đọc được. Tôi nghe thấy âm thanh từ vòi hoa sen và một lát sau, tiếng Lorna đi chân trần đang giẫm trên lối đi và tiếng nàng gọi tôi. Tôi đặt trả cuốn sách lại chỗ cũ, rồi đi trở vào phòng khách.
“Rồi,” nàng nói từ bên cửa, phô bày cho tôi thấy nàng đã hoàn toàn khỏa thân, “anh vẫn còn mặc quần à?”