Về Miền Đất Hứa

Chương 28

Docsach24.com
ai mươi bốn giờ trước ngày N của “Chiến dịch Gédéon”, một buổi hội họp sau cùng của Mossad được tổ chức ở nhà Mandria.

David Ben Ami mang tới những giấy di chuyển Dov vừa làm xong. Ari xem xét một cách thỏa mãn: những giấy tờ giả này sẽ đánh lừa viên sĩ quan nào đa nghi nhất, sau đó là phần báo cáo:

Báo cáo của David về cả ngàn chi tiết tân trang tàu: tiếp tế thực phẩm.

Báo cáo của Joab Marconi, phụ trách vụ di chuyển trên bộ. Các cam-nhông của anh sẵn sàng khởi hành bất cứ lúc nào có lệnh, và sẽ đi lộ trình từ nơi để xe đến trại Caraolos đúng hai mươi phút. Còn về lộ trình Caraolos Cyrénia, anh đã tính giờ sẵn cho nhiều lộ trình khác nhau.

Báo cáo của Zev Gilboa phải đưa ba trăm trẻ lên xe trong khoảng thời gian vài phút. Anh định sẽ cắt nghĩa cho các trẻ việc gì sẽ xảy ra, ngay trước khi chúng rời trại.

Báo cáo của Hank Schlosberg, thuyền trưởng người Hoa Kỳ của chiếc Exodus. Ông này trình bày rằng sẽ nhổ neo từ Larnaca vào lúc hoàng hôn như thế nào để có thể đến Cyrénia ít nhất một giờ trước khi đoàn xe chở trẻ tới.

Sau cùng là báo cáo của Mandria. Ông này đã bố trí dọc lộ trình đào thoát cả một hệ thống quan sát viên để báo động ngay cho chiếc xe đầu mọi hoạt động khả nghi của quân Anh. Ông cũng đặt các đài quan sát trên năm hay sáu lộ trình phòng hờ khác. Còn chính ông sẽ đợi trong văn phòng của mình ở Famagouste. Ngay khi đoàn xe chạy qua dưới cửa sổ văn phòng ông, ông sẽ điện thoại lại Cyrénia để báo cho Mark Parker biết.

Ari đứng dậy và nhìn các phụ tá của mình. Rõ ràng là tất cả những người này đều hồi họp bồi hồi, ngay cả Marconi bình thường lạnh lùng, cũng nhìn chăm chú xuống sàn. Ari không hề nghĩ đến chuyện khen họ, cũng như không có chúc họ may mắn. Các lời khen ngợi để về sau, còn về may mắn, thì chính họ phải tạo ra và nắm lấy.

- Lúc đầu, tôi định đợi chính người Anh bắt đầu cho di chuyển các trẻ con sang trại mới. Tuy nhiên, các tin tức giờ chót đã làm tôi phải quyết định thực hiện chiến dịch sớm hơn. Chúng ta được biết là thiếu tá Allistair nghi ngờ chúng ta làm một vụ gì lớn và hình như thiếu tá này đã vượt qua thượng cấp là thiếu tướng Sutherland để xin chỉ thị mới trực tiếp từ Luân Đôn. Vậy chúng ta phải hành động ngay. Sau đây là thời dụng biểu của chiến dịch: Vào lúc 9 giờ, các xe cam-nhông của chúng ta tới cổng trại Caraolos. Vào lúc 10 giờ các trẻ đã lên xe xong và đoàn xe đã đi qua nhà này. Kể từ lúc đoàn xe rời con đường Larnaca, sẽ có hai giờ gay go. Chúng ta không có lý do nào để giả đoán rằng đoàn xe bị chận lại dọc đường, ít nhất cũng vì lý do tất cả mọi người ở Chypre đều biết Đại đội 23 Vận tải HMJFC. Nhưng... chúng ta phải xét tới sự kiện thiên hạ nghi ngờ chúng ta. Có ai thắc mắc gì không?

Không ai trả lời. Mỉm cười, Ari tiến về phía Mandria, ôm lấy ông này theo cách thế thân ái của các palmachnik. Chàng nói:

- Ông đã tỏ ra là một trong những người bạn tốt nhất chúng tôi có thể gặp trên đời. Thôi bây giờ tôi phải tạm biệt các bạn. Tôi phải tới gặp Parker.

Một nửa giờ sau, sau khi đã ngụy trang dưới quân phục đại úy Caleb Moore quân lực Anh, Ari gặp Mark Parker ở nhà hàng sân thượng khách sạn “Vua George”. Nhà ký giả rõ ràng chỉ còn là một bộ dây thần kinh căng thẳng. Ari ngồi xuống bàn từ chối điếu thuốc Mark mời và gọi một ly scotch.

- Mọi sự vào ngày mai đây. Chúng tôi sẽ tới Caraolos vào lúc 9 giờ sáng. Thật không may là chúng ta không thể chần chừ lâu hơn được nữa. Một người bạn làm ở An ninh Quân đội đã cho biết là ông bạn Allistair thân mến của chúng ta đang âm mưu một cái gì đó. Nhưng kìa, tôi xin ông bạn, hãy ngồi cho thoải mái ra nào. Quân Anh đang tìm kiếm, nhưng họ chưa biết gì cả. Trong khi anh, anh lại biết rõ tất cả.

Mark đồng ý trong im lặng. Chàng sẽ gởi một điện tín yêu cầu cho gia hạn nghỉ phép ở Luân Đôn, Bradbury khi nhận được điện tín ký tên “Mark”, sẽ biết là “Chiến dịch Gédéon” đã thành công và cho đăng tải ngay bài phóng sự Mark đã viết sẵn và gởi về một tuần lễ trước đây. Mark nói:

- Nếu Mandria không gọi tôi vào lúc 10 giờ như đã thỏa thuận thì sao?

Ari nở một nụ cười nhạt nhẽo:

- Trong trường hợp đó, anh nên chuồn gấp bằng chuyến phi cơ đầu tiên cất cánh rời đảo này. Ngoại trừ khi anh muốn ở lại để dự lễ xử giảo tôi.

Mark đưa ly lên uống một hơi cạn, nhận xét:

- Chắc vụ đó sẽ là một bài báo hay.

Ari nói:

- Tiện đây nói luôn. Kitty không trở lại trại làm việc kể từ khi anh chàng nhãi Dov ấy bắt chúng ta phải ghi tên Karen vào danh sách đi tàu Exodus.

- Tôi biết chuyện đó. Nàng đang ở với tôi ở Khách sạn Dôme.

- Nàng khỏe mạnh?

Mark nổi giận:

- Thế anh tưởng nàng ra sao nữa? Kitty rất khổ, hết sức khổ sở. Kitty sẵn lòng đổi bất cứ cái gì để Karen đừng lên Exodus. Có lẽ anh trách cứ Kitty về chuyện đó?

- Chắc chắn là không rồi. Tôi chỉ thương cho nàng thôi.

- Quý hóa quá! Tôi không được biết là anh lại có thể thương được cái gì trên đời...

- Tôi thương nàng bởi vì nàng đã để tình cảm khống chế lương tri.

- Đúng đấy... tôi quên phăng mất là anh không hề biết tình cảm là gì hết.

Ari nhìn Mark với một vẻ bình tĩnh đượm thích thú.

- Anh Mark, thần kinh anh căng thẳng quá rồi đấy.

Mark cố gắng mới kìm được cơn giận.

- Điều đó làm anh ngạc nhiên sao? Kitty, trong đời nàng, nàng đã phải chịu nhiều đau khổ ngoài sức chịu đựng của con người.

Ari nhắc lại:

- Đau khổ? Tôi tự hỏi liệu Kitty Fremont có biết tới nghĩa của chữ này nữa không?

Mark lớn tiếng:

- Tôi muốn bẻ gãy cổ anh quá! Cái gì đã làm anh tưởng rằng dân Do Thái các anh giữ độc quyền về đau khổ?

- May mắn thay là các ông chủ báo không có trả lương anh để anh thương tôi. Dẫu sao, anh ưa hay ghét tôi, điều đó đối với tôi hoàn toàn không quan trọng.

- Chắc chắn thế rồi. Nhưng làm sao được... Tôi ưa những ai có những sự yếu đuối thông thường của con người.

- Chắc chắn là tôi không có những yếu đuối loại đó trong những giờ tôi làm việc.

Tức giận, Mark đứng dậy toan đi chỗ khác. Bàn tay mạnh mẽ của Ari nắm chặt lấy cánh tay chàng. Lần đầu tiên Mark thấy Ari ở trạng thái suýt mất bình tĩnh.

- Thưa ông ký giả, ông tưởng ông đang ở đâu đây! Ở một buổi dạ hội phù hoa trong hoa viên một quận chúa chăng? Ông quên mất rằng sáng ngày mai đây chúng tôi phải đụng độ với cả đế quốc Anh.

Buông cánh tay của Mark, Ari quay đi, ngượng ngùng rõ rệt là đã để lộ cơn giận ra ngoài. Mark không thể không cảm thấy một sự thương sót mơ hồ. Chắc chắn là Ari tự chủ hơn chàng rồi, nhưng với thần kinh căng thẳng với tình hình hiện tại cũng đã gây một cái gì cho con người “khổng lồ” xem bề ngoài như không bao giờ biết cảm giác là gì.

Vài giờ sau, Mark trở về Cyrénia, vào khách sạn Dôme, tới gõ cửa phòng Kitty. Nàng còn đủ sức mỉm cười nhẹ đón chàng, nhưng đôi mắt đỏ nhiều vì khóc chứng tỏ nàng rất buồn khổ. Mark loan báo:

- Vào ngày mai đấy.

Nàng cứng người lại.

- Nhanh đến thể sao? Em tưởng...

- Họ e ngại quân Anh đã nghi ngờ điều gì rồi.

Kitty đi lùi đến tận cửa sổ và giả vờ ngắm quang cảnh bên ngoài: trong không gian trong suốt như pha lê, như đoán thấy được bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ ở chân trời. Nàng nói khe khẽ:

- Em đã cố tìm đủ can đảm để thu xếp hành lý. Để rời Chypre...

- Nghe đây em yêu.. ngày khi câu chuyện này chấm dứt, cả hai chúng ta sẽ cùng ra đi. Một vài tuần lễ ở Côte d’Azur sẽ hữu ích cho em.

- Anh tưởng chỉ cần bấy nhiêu là đủ cho em trở lại như cũ được sao? Vả lại, anh phải đi Palestine, phải không?

- Anh không cho rằng người Anh sẽ cho phép anh nhập nội xứ đó, sau vố mà anh đã chơi họ. Em biết không... Anh rất tiếc đã lôi kéo em vào chuyện phiêu lưu này.

- Không phải lỗi tại anh đâu, anh Mark.

- Có chứ - ít nhất trong một mức độ nào đó. Bây giờ anh đang tự hỏi em làm sao qua khỏi nỗi khổ này đây. Em liệu có đủ sức chống trả được không?

Nàng trả lời bằng giọng thiếu tin tưởng:

- Phải có đủ chứ, anh. Anh Mark... sẽ có nguy hiểm cho những kẻ sẽ lên tàu Exodus phải không?

- Đến đây thì có giấu em cũng vô ích. Chiếc tàu đáng thương này là cả một trái bom nổi.

Nàng loạng choạng như bị ai đánh mạnh.

- Nói thật hết đi anh, anh Mark, anh có tin các trẻ em sẽ có may mắn ra thoát khỏi không?

- Nói cho thực, anh tin là có một may mắn. Một may mắn lớn là khác với một tay làm trò như Ben Canaan, thông minh, đa mưu túc kế và không tình cảm.

Mặt trời lặn. Mark và Kitty, trong căn phòng bóng tối xâm chiếm dần dần, im lặng theo dõi tư tưởng riêng của mình. Sau cùng Mark nói:

- Đứng suốt đêm cũng chẳng ích gì.

Kitty thì thào:

- Anh đừng để em một mình anh Mark.

Lấy trong ngăn kéo bàn ngủ hai viên thuốc, nàng uống trước khi nằm dài. Ngồi gần cửa sổ, Mark lắng nghe điệu ca trầm của sóng vỗ vào kẽ đá. Sau chừng hai mươi phút, chàng biết là nàng đã ngủ, một giấc ngủ không yên. Chàng đứng dậy, quấn mình trong một chiếc chăn rồi trở lại ghế bành.

Ở Caraolos, Karen và Dov cùng ngồi trên giường của Dov, nói chuyện thì thào. Là hai người duy nhất trong khu nhi đồng được biết cái gì sẽ xảy ra ngày mai, họ quá xốn xang không có thể đi ngủ.

Dov, có lẽ đã đến lần thứ mười, trình bày dự định vĩ đại của mình: ngay khi tới Palestine, chàng sẽ tìm gia nhập một nhóm đặc công để có dịp giết chết thật nhiều lính Anh. Sau cùng Karen cũng thành công trong việc làm Dov dịu bớt cơn hăng hái.

- Nằm ra đi Dov. Hãy cố gắng ngủ đi.

Dov nghe lời và nhắm mắt lại. Dịu dàng, nàng đứng dậy. Một cảm giác kỳ lạ chạy khắp châu thân nàng, một rung động vừa thú vị vừa đáng e ngại. Mãi cho tới giờ, nàng mới hiểu Dov đối với nàng có một giá trị như thế nào. Sự thương hại lúc đầu... Bây giờ, Dov đã không chê nàng không phải vì xác thịt, thật khó nói... Thật khó hiểu. Nàng muốn nói với Kitty về vấn đề này, nhưng Kitty đã không trở lại trại từ nhiều ngày rồi.

- Karen?

- Ngủ đi anh, Karen không về đâu.

Chậm chạp, các thời khắc trong đêm qua dần.

Trong doanh trại của Đại đội 23 Vận tải, có ba người cũng không sao ngủ được.

Đây là lần đầu tiên từ gần một năm nay, Zev mới dám mơ đến mùa xuân trên những đồi vùng Galilée. Anh nghĩ tới vợ con và trang trại. Anh đã tuân lệnh Palmach sang Chypre khi đứa con mới được có vài tháng.

Joab Yaiconi cũng nghĩ tới trang trại của mình ở ven biển, chếch về phía bắc đồng bằng Sharon. Một trang trại đẹp đẽ, được gọi là Sdot Yam, Cánh đồng Biển, vì mỗi năm thu thập toàn là cá. Yarconi thích lang thang hàng giờ trong các di tích hoang tàn của đô thị Césarée cổ xưa, tìm kiếm vài cổ vật. Anh hy vọng Palmach sẽ cho phép anh về đó sống một hay hai tuần, để có thì giờ đi câu, đến thăm viếng các anh chị, đào bớ dưới chân các bức tường của Césarée...

David Ben Ami nghĩ tới Jérusalem, đô thị anh yêu quý gần bằng anh yêu Jordana, em gái của Ari. Anh sắp được gặp lại cả hai, anh sẽ chạy chơi trên các mỏm đá lởm chởm của vùng Judée, nơi sáu anh em trai của anh đang sống...

Tì cầm lên tay, anh đọc lại bức thư đã do Ari chuyển hộ, Jordana, Jordana... Anh có cảm tưởng tim anh sắp nổ tung lên, Jordana yêu dấu!

Thiếu tướng Bruce Sutherland giật mình thức giấc. Một lần nữa ông lại bị cơn ác mộng gần đây thường gần như ám ảnh ông mỗi đêm. Ông mặc quần áo ra khỏi nhà, băng qua Famagouste đang ngủ yên, đi dọc theo các bức tường thành cũ. Đến mỗi vòm cổng, ông ngừng, đưa mắt nhìn đô thị trung cổ với rất nhiều nhà thờ, cung điện đổ nát cùng hàng nghìn kỷ niệm của một triều đại huy hoàng đã mất. Sau cùng, ông đến tháp Othello. Ông chậm chạp leo lên cầu thang xoay tròn. Đứng trên sân thượng, ông ngắm nhìn hải cảng, lo âu tự hỏi không biết tới bao giờ ông mới được biết tới hạnh phúc được ngủ yên một đêm trọn vẹn.

Thiếu tá J.J. Allistair ngủ gục ngay tại bàn làm việc, mũi chúi vào tập hồ sơ dầy cộm đã nghiên cứu từ nhiều giờ nhưng vô vọng để ước tính xem dân Do Thái đang chuẩn bị cái gì ở Caraolos.

Trong khi đó có một người ngủ lương tâm thanh thản: Ari Ben Canaan ngủ ngon lành như một đứa bé no sữa chưa hề biết đến các phiền lụy của cuộc đời.

Lúc 8g40, đại úy Caleb Moore, tức Ari Ben Canaan lên chiếc jeep dẫn đầu mười hai chiếc cam-nhông của Đại đội 23 Vận tải HMJFC. Mỗi xe do một Palmachnik mặc quân phục Anh cầm lái. Đoàn xe khởi hành, tăng tốc độ, để rồi hai mươi phút sau ngừng lại trước tòa nhà hành chánh của trại Caraolos ở bên ngoài rào kẽm gai.

Ari xuống xe và tới gõ cửa văn phòng chỉ huy trại. Ari hoàn toàn bình thản: từ ba tuần rồi, chàng đã thu xếp để làm quen với sĩ quan Anh, một sự giao thiệp hết sức hữu ích.

- Chào thiếu tá.

- Chào đại úy Moore. Tôi liệu có thể giúp gì cho anh đây!

- Thưa thiếu tá chúng tôi vừa nhận được công điện khẩn của Bộ tư lệnh. Hình như việc xây cất mới ở Larcana đã hoàn tất hơn dự trù. Thượng cấp giao cho chúng tôi nhiệm vụ di chuyển ngay một số trẻ em kể từ sáng nay.

Ari đặt xấp giấy tờ giả xuống bàn. Chỉ huy trại lãnh đạm đọc lướt qua, nhận xét:

- Vụ này không nằm trong kế hoạch di chuyển của chúng tôi. Theo dự trù thì đợt trẻ con đầu chỉ chuyển khỏi trại trong ba ngày nữa là sớm nhất.

- Quân đội mà... Thiếu tá biết đấy.

Viên thiếu tá cắn môi, do dự, nhìn đại úy Moore rồi cúi xuống nghiên cứu xấp giấy tờ. Sau cùng ông cầm điện thoại lên.

- Allôl Đây là thiếu tá Potter. Trong phòng tôi hiện có đại úy Moore xuất trình lệnh di chuyển cho ba trăm trẻ ở khu 50. Yêu cầu đặt dưới quyền của đại úy đó một toán binh sĩ để giúp đỡ ông đưa trẻ lên xe.

Buông máy, thiếu tá cầm bút ký vào các giấy tờ.

- Đây xong rồi anh Moore. Anh cố gắng lẹ lên cho: chúng tôi đang đợi một đoàn xe tiếp tế đến đây trong khoảng một giờ nữa các đường trong trại sắp sửa kẹt xe.

- Tôi hiểu, thiếu tá.

- À! Suýt nữa tôi quên mất... Cám ơn anh lần nữa là đã gửi whisky cho câu lạc bộ chúng tôi.

- Có gì đâu thiếu tá.

Khi Ari lấy lại giấy tờ, viên thiếu tá thở dài một cái.

- Những dân Do Thái lang thang ấy... Họ đi, họ trở lại.

Ari tán đồng:

- Thưa thiếu tá đúng vậy. Họ đến rồi họ lại ra đi...

Người hầu trong khách sạn đã dọn bữa ăn sáng trong phòng Mark, trước cửa sổ. Kitty không muốn ăn. Nét mặt căng thẳng, Mark dụi hết điếu thuốc này đến điếu khác vào cái đựng tàn đã đầy ngập đến tận miệng. Kitty hỏi:

- Mấy giờ rồi anh?

- Đây ít nhất là lần thứ hai mươi rồi em hỏi giờ anh, gần chín rưỡi.

- Theo ý anh bây giờ đang xảy ra cái gì?

- Nếu họ giữ đúng được thời biểu thì lúc này trẻ con đang lên xe. Nhìn kìa!

Mark chỉ ra biển. Một chiếc tàu kéo cũ kỹ đang đổi hướng tiến vào hải cảng. Kitty sợ hãi kêu lên:

- Trờ ơi! Đó là tàu Exodus sao? Nó cũ đến muốn long ra từng mảnh!

- Đúng đấy em! Tàu Exodus đó.

- Họ sẽ làm thế nào để nhét được ba trăm trẻ lên cái tàu nhỏ xíu này anh?

Để tránh trả lời, Mark châm một điếu thuốc khác, giả vờ như gặp trục trặc với chiếc bật lửa.

9 giờ ba mươi...

9 giờ bốn mươi...

Tàu Exodus tiến giữa hải đăng và tòa lâu đài, vượt qua lối đi tạo bở hai con đê hình bán nguyệt, vào hải cảng Cyrénia.

9 giờ năm mươi...

- Trời ơi anh Mark! Anh làm ơn ngồi dùm xuống đi. Anh sắp làm em loạn thần kinh lên bây giờ.

- Bây giờ Mandria sắp sửa gọi điện thoại tới. Một phút hay một vài phút nữa...

10 giờ.

10 giờ năm...

10 giờ sáu...

10 giờ bảy phút...

Mark không kèm giữ được nữa, la lớn:

- Mẹ kiếp! Ly cà phê tôi gọi, họ phải mang lên chứ! Kitty, em làm ơn vào phòng em gọi nhà hàng ăn bảo mang lên lẹ. Bảo họ mang lên ngay lập tức, nếu không, họ sẽ biết anh!

10 giờ mười lăm. Người hầu mang ly cà phê lên.

10 giờ mươi bảy phút. Giới hạn gay go đã tới. Nếu Mandria không gọi lại trong mười lăm phút sắp tới, sẽ có nghĩa là đã có biến cố bất ngờ, hay tai hại hơn nữa.

Vào lúc 10g20, điện thoại reo. Mark và Kitty nhìn nhau. Mark cầm máy lên.

- Allô?

- Ông Parker?

- Chính tôi đây.

- Xin đừng rời máy. Có người gọi từ Famagouste.

Sau một vài giây âm thanh rối loạn, một giọng chính xác cất lên:

- Allô, Parker?

- Tôi đang nghe đây.

- Mandria đây. Họ vừa đi qua dưới đường.

Mark chậm chạp đặt điện thoại xuống, loan báo:

- Mọi việc trôi chảy. Ari đã đưa được bọn trẻ ra khỏi Caraolos. Lúc này đây chắc họ đang đi trên đường đến Larnaca. Chừng mười lăm phút nữa họ sẽ quẹo về hướng bắc. Một lộ trình dài chừng 80 cây số đường bằng phẳng, chỉ có một đèo duy nhất phải vượt qua, ngoại trừ trường hợp họ bắt buộc phải mượn một lộ trình khác. Nghĩa là họ phải tới đây vào lúc 12g 15, 12g rưỡi... Nếu mọi sự xảy ra đúng như đã dự trù.

Kitty nói nho nhỏ:

- Tôi hy vọng tất cả mọi sự sẽ diễn ra đúng như đã dự trù.

- Thôi, bọn mình xuống đi. Đợi ở đây vô ích.

Mark đứng dậy.

Trước khi rời phòng, chàng cầm theo ống nhòm.

Kenneth Bradbury.

Giám đốc American News Syndicate.

London.

Du hí quá độ - STOP - Xin cho nghỉ thêm hai tuần nữa - STOP - Xin trả lời.

MARK

- Xin gửi khẩn cho. Theo ý ông, chừng bao lâu thì điện tín tới nơi?

Người phụ trách đọc qua bản văn.

- Điện tín sẽ tới Luân Đôn trong vài giờ nữa.

- Tốt lắm.

Mark nắm lấy cánh tay Kitty, kéo nàng về phía các cầu tàu. Nàng hỏi:

- Điện tín có nghĩa thế nào hả anh?

- Một mật hiệu ước định trước. Ngay tối nay, hãng thông tấn ở Luân Đôn sẽ cho đăng tải bài phóng sự của anh.

Họ đi qua chỗ tàu Exodus bỏ neo, leo lên các tường lũy lâu đài Thánh nữ Đồng Trinh. Từ vọng lâu này, hai người vừa nhìn rõ hải cảng vừa thấy rõ con đường ven biển mà đoàn xe sẽ phải đi qua.

Lúc 11 giờ mười lăm, Mark chiếu ống nhòm về con đường trải nhựa, nhận thấy phía xa một đám mây bụi nhỏ bay trên một dãy vết thẫm nhìn từ khoảng xa này không lớn hơn con kiến. Lấy khuỷu tay hích Kitty, chàng đưa ống nhòm cho nàng. Nàng giữ lấy, lo âu theo dõi mức tiến của đoàn xe xuất hiện, và biến đi tùy theo khúc đường cao thấp. Mark nhận xét:

- Họ phải mất chừng nửa giờ nữa mới tới đây. Chúng ta xuống đi.

Họ lại đi dọc cảng để dừng lại ở đầu ke. Chừng bốn mươi phút sau, họ thấy đoàn xe chạy qua bệnh viện ở đầu thị trấn. Mark cầm lấy Kitty.

- Bây giờ chúng ta có thể về rồi.

Tới khách sạn Dôme, Mark vào phòng điện thoại đóng kín cửa lại và yêu cầu được gặp An ninh Quân đội Anh ở Famagouste với ưu tiên tuyệt đối. Chàng nói qua khăn tay che miệng và cố gắng bắt chước giọng Oxford:

- Cho tôi được gặp thiếu tá Allsstair.

- Về vấn đề gì? Ai đang ở đầu dây đó?

- Nghe đây bồ, ba trăm người Do Thái vừa trốn khỏi trại Caraolos. Tin tức này liệu có đủ để bồ thôi đừng đặt những câu hỏi ngốc ngếch nữa, và cho tôi nói chuyện với thiếu tá ngay chưa?

Chàng nghe thấy một tiếng chuông reo, rồi một giọng nói khác:

- Thiếu tá Allistair...

- Đây là một người bạn. Tôi xin báo cho thiếu tá biết là hàng mấy trăm người Do Thái đã trốn khỏi Caraolos và ngay lúc này đây họ đang lên một chiếc tàu bỏ neo trong hải cảng Cyrénia.

Allistair hối hả lắc điện thoại:

- Allô.. Allô... Ai đang nói đó? Tôi yêu cầu ông... allô...

Sau cùng viên thiếu tá cắt liên lạc để quay một số khác:

- Allistair đây. Mọi người cho tôi biết là có một vụ đào thoát lớn của các dân Do Thái. Hình như lúc này họ đang lên tàu ở Cyrénia. Hãy cho báo động toàn diện ngay, ra lệnh cho chỉ huy hải cảng kiểm soát tại chỗ ngay lập tức. Nếu ông ta xác nhận tin tức của tôi đúng, hãy điều động nhiều chiến hạm tới cảng Cyrénia ngay.

Không đợi trả lời, Allistair gác máy và vội vã chạy ra ngoài, nhào vào phòng thiếu tướng Sutherland.

Đoàn xe dừng tại trên cầu tàu. Ari xuống xe và tài xế lái xe đi ngay. Các cam nhông hết chiếc này đến chiếc khác chạy đến tận thang dẫn lên tàu Exodus. Đã được huấn luyện từ nhiều tháng tuân lời trong im lặng và thực hiện nhanh chóng các mệnh lệnh của các Palmachnik, các trẻ em chỉ mất một vài phút để lên tàu. Trên boong, Zev, Joab và Hank Schlosberg thuyền trưởng Exodus, chỉ dẫn cho các nhóm tới các chỗ đã định sẵn. Tất cả diễn tiến trong một thời gian tối thiểu không một lời nói vô ích.

Trên ke vài kẻ nhàn rỗi đang ngồi nhìn ra phân vân và hơi tò mò. Hai hay ba lính Anh hiện diện tỏ ra lãnh đạm hoàn toàn. Mỗi khi trút xong người, các cam nhông rồ máy chạy ngay về ngọn Saint-Hilarion và các tài xế sẽ bỏ xe ngay sau khúc rẽ đầu tiên che khuất tầm mắt của các kẻ tò mò. Đại đội 23 Vận tải, sau khi đã hoàn tất nhiệm vụ, không còn tồn tại nữa. Joab không cưỡng nổi với ước muốn để lại trên băng xe một mình một mẩu giấy cám ơn quân Anh đã có nhã ý cho mượn xe cộ.

Sau chừng hai mươi phút, các đứa trẻ sau chót đi lên tàu. Ari lên tàu và leo thang dẫn tới đài chỉ huy để gặp Zev, Joab, David và Schlosberg.

- Thuyền trưởng, ông có thể nhổ neo và cho máy chạy, Zev, Joab và David, các anh hãy cắt nghĩa cho các em hiểu chúng ta đang làm gì và chờ đợi gì ở các em. Em nào thấy không đủ can đảm có thể báo cho tôi biết trong phòng lái: tôi sẽ cho em đó trở lại Caraolos. Cũng báo cho các em biết chúng có thể mất mạng trong cuộc phiêu lưu này. Các anh không được gây áp lực nào để giữ những kẻ muốn rút lui.

Tàu Exodus đã rời ke, chạy lui một cách thận trọng, ra thả neo ở giữa cảng.

Đột nhiên nhiều tiếng còi hụ rú lên phá tan không khí im lặng. Dùng ống nhòm, Ari quan sát tìm kiếm các đường dẫn tới cảng và trông thấy rất nhiều xe jeep và cam nhông của quân đội chạy hết tốc độ đổ dồn về hải cảng Cyrénie. Chàng phá lên cười khi nhận thấy trên sườn dốc ngọn Saint-Hilarion, các xe vận tải của Đại đội 23 Vận tải giao nhau với một đoàn xe sơn màu kaki đang lao nhanh xuống cầu tàu. Các người lính đầu tiên đã chạy tới. Các sĩ quan chỉ huy Exodus, la lớn mệnh lệnh. Nhiều quân sĩ chạy trên các đê bán nguyệt để đặt ở hai đầu các đại liên và súng cối ngăn chặn chiếc Exodus vượt eo ở giữa.

Sau chừng một tiếng, năm trăm quân sĩ võ trang hùng hậu chiếm cứ vững chắc hải cảng, các dây đã được chăng ngang các đường phố ngăn đôi hải cảng với thị trấn. Hai phóng ngư lôi hạm chặn đứng lối ra biển. Rồi các thiết giáp nhào xuống các ke, cùng với trọng pháo thay thế cho các đại liên và súng cối. Các còi hụ lại “rú” lên để chào chiếc xe chở thiếu tướng Sutherland, đại úy tùy viên Caldwell và thiếu tá Allistair. Thiếu tá Cook, chỉ huy vùng Cyrénia, chạy bổ tới để báo cáo:

- Chiếc tàu đó, thưa thiếu tướng. Các tin tức đã cho rất đúng: có hàng mấy trăm Do Thái trên tàu. Nhưng họ sẽ không bao giờ ra thoát khỏi đây.

Sutherland công nhận:

- Đúng thế. Với các lực lượng tập trung tại đây, thiếu tá đủ sức đánh trả với cả một sư đoàn thiết giáp của Wehrmacht. Những kẻ trên tàu này hẳn phải vô ý thức lắm. Phiền thiếu tá cho lệnh đặt ngay cho tôi một hệ thống phóng thanh.

- Xin tuân lệnh.

Caldwell nói:

- Nếu thượng cấp cho phép tôi trình bày ý kiến, tôi cho rằng chỉ việc đánh đắm luôn tàu này cho rảnh. Vài viên đạn trọng pháo...

Sutherland gắt gỏng ngắt lời:

- Tôi không hỏi ý kiến của đại úy. Thiếu tá Cook, chỉ định ngay một toán xung kích chiếm tàu: hơi cay, vũ khí cá nhân phòng trường hợp những tên điên rồ kia không chịu lên bờ. Caldwell, đại úy chạy lẹ đến khách sạn Dôme và báo cho Bộ tư lệnh biết: tin tức cấm phổ biến ra ngoài cho tới khi có lệnh mới. Không được hở một câu với các ký giả, kiểm duyệt các điện tín cùng các biện pháp tương ứng.

Allistair vẫn chưa hé môi từ lúc đến tới giờ. Mặt tái xanh, môi mím chặt, chàng quan sát chiếc tàu.

- Allistair, anh nghĩ sao về vụ này?

- Thành thật ra mà nói thưa thiếu tướng, câu chuyện này làm tôi lo lắm. Các kẻ này đây có điên gì: họ đâu dám tổ chức đào thoát như vậy, thanh thiên bạch nhật, nếu họ không có một hậu ý.

- Thôi, xin anh. Quả thực chỗ nào lúc nào anh cũng thấy có âm mưu hết.

Mark Parker đã vượt qua được hàng rào quân sĩ, uể oải tiến lại gần hai sĩ quan, hỏi bằng một giọng vô tội:

- Tại sao lại có nhộn nhịp vậy thưa quý vị?

Trông thấy người ký giả Hoa Kỳ, Allistair cảm thấy những nghi ngờ của mình biến thành tin tưởng chắc chắn.

- Ông Parker, tử tế cắt nghĩa dùm chúng tôi vụ này nghĩa là thế nào. Nhân tiện đây, tôi cũng xin nhắc ông bạn một lời khuyến cáo: Lần sau ông bạn điện thoại cho tôi hãy coi chừng nói cho đúng giọng người Anh hơn.

Mark làm ra điệu ngạc nhiên không hiểu gì:

- Tôi hoàn toàn không hiểu thiếu tá định nói cái gì.

Nhưng thiếu tường Sutherland thì ông đã bắt đầu hiểu. Ông nhìn chiếc tàu rồi nhìn Parker, nhìn Parker rồi nhìn Allistair và ông cảm thấy cơn giận bốc lên bừng mặt. Bây giờ ông biết chắc rằng Mossad đã tổ chức một chiến dịch quan trọng ngay trước mũi quân lực Anh trên đảo cùng vị chỉ huy ở đây, nghĩa là trước mũi thiếu tướng Sutherland.

Thiếu tá Cook trở lại, dáng điệu hài lòng.

- Thưa thiếu tường. Đoàn xung kích sẽ sẵn sàng trong mười phút nữa. Tổng cộng quân số hai trăm người. Chúng tôi sẽ cho trưng dụng vài tàu đánh cá để chở họ đến tận tàu kia.

Sutherland không buồn nghe nữa:

- Máy phóng thanh khốn kiếp nó đâu! Tôi đứng đợi cả giờ rồi!

Năm phút sau, ông nắm lấy micro do một trung sĩ đưa tới. Một im lặng bao trùm hải cảng.

- Tôi muốn nói với các người trên tàu đang bỏ neo ngoài kia. Đây là thiếu tướng Bruce Sutherland, tư lệnh các lực lượng Anh quốc đồn trú tại Chypre. Các ông có nghe thấy tôi không?

Trong phòng lái của Exodus, Ari bật hệ thống phóng thanh của mình:

- Allô. Sutherland? Đây là đại úy Caleb Moore thuộc Đại đội 23 Vận tải Lực lượng Do thái của Đức vua tại Chypre. Quý ông sẽ tìm thấy các xe của quý ông trên con đường đi lên đỉnh Saint Hilarion, sau khúc quanh thứ nhất.

Đứng trên ke, há hốc miệng, thiếu tá Allistair là hiện thân của sự ngạc nhiên. Giọng tức giận của Sutherland vang lên giận dữ:

- Nghe rõ những điều tôi nói đây. Chúng tôi cho các ông mười phút để trở lại ke. Hết thời hạn này, đoàn quan võ trang mạnh sẽ lên tàu để đưa các ông trở lại bờ bằng võ lực.

- Allo, Sutherland! Đây là Exodus. Chúng tôi có ba trăm trẻ em ở trên tàu. Phòng máy của chúng tôi chứa đầy thuốc nổ. Chỉ một người của ông thôi, đặt chân lên boong, chỉ một khẩu súng của các ông bắn thôi, chúng tôi sẽ cho nổ tung lên hết!

Cùng lúc đó, như để nhấn mạnh thêm cho lời thách thức trên, một lá cờ được kéo lên cột buồm của Exodus. Đó là Union Jack, lá cờ của Anh quốc nhưng ở giữa có vẽ thêm hình một chữ vạn to tướng.

Trận đánh của Exodus bắt đầu!