“Tất cả kiến thức của tôi được học bằng cách đứng trên vai những thiên tài”.
– Bác sĩ Albert Schweitzer
Lý do tôi bắt đầu chương này với trích dẫn trên là vì tôi muốn làm rõ rằng những liệu pháp điều trị này, về thực chất, không phải là “của tôi”. Chúng được các chuyên gia y tế hành nghề tự do tạo ra, thử nghiệm và đã được chứng minh có hiệu quả trong điều trị ung thư. Tôi chỉ tổng kết giúp bạn những thông tin tiện dùng và dễ hiểu, vì gần như không thể tìm ra được trong hàng triệu trang web về ung thư, phải lội qua những tuyên truyền dối trá của mafia y tế, và nhận ra sự thật về liệu pháp điều trị ung thư thay thế.
Toàn bộ chương này được dành cho các liệu pháp điều trị ung thư thay thế không độc hại đã được chứng minh có hiệu quả nhất trong điều trị ung thư cấp (giai đoạn III và IV). Tiêu đề của chương này làm nổi bật sự khác biệt chính giữa liệu pháp điều trị ung thư chính thống và liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Không có ngoại lệ, tất cả các liệu pháp điều trị ung thư chính thống đều độc hại, trong khi tất cả các liệu pháp điều trị ung thư thay thế thành công đều không độc hại.
Trở lại năm 2006, báo chí dường như choáng váng thực sự khi Coretta Scott King (góa phụ của mục sư Martin Luther King, Jr.) chết vì ung thư tại một cơ sở điều trị ung thư thay thế ở Mexico. Những gì báo chí không nêu ra là y học chính thống đã đầu hàng không chữa được cho bà và để bà chết. Không có gì ngạc nhiên khi bà ấy muốn tìm kiếm thông tin về các phương pháp thay thế. Thật đáng buồn, bà ấy đã quá muộn.
Sự thật là nhiều bệnh nhân chỉ tìm kiếm phương pháp thay thế sau khi họ đã bị cắt bỏ, đầu độc và đốt cháy bởi Big 3. Đổ lỗi cho một phòng khám ung thư thay thế cho cái chết của một bệnh nhân giai đoạn cuối khi họ bước chân vào phòng khám cũng giống như đổ lỗi cho một nhân viên cửa hàng ô tô làm tổn hại chiếc xe bạn kéo đến sau khi nó đã tan tành trong một vụ va chạm nghiêm trọng. Nhưng thật không may, đây lại là thời điểm mà hầu hết bệnh nhân ung thư mới quyết định thử liệu pháp điều trị ung thư thay thế.
Nếu bạn bị ung thư, tin vui là có hy vọng với liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Hy vọng thật sự. Không phải hy vọng dối trá mà bác sĩ cung cấp cho bạn khi cố gắng thuyết phục bạn điều trị bằng Big 3. Hãy nhớ rằng, đó là những gì họ đã được dạy ở trường y, nên đó là tất cả những gì họ biết. Khi bác sĩ của bạn tỏ ra nghi ngờ về một liệu pháp chữa trị tự nhiên mới, bạn có thể đặt cược là ông ấy chỉ nhai lại những điều dối trá mà ông ấy đã đọc trên tạp chí y khoa mới nhất được Big Pharma tài trợ.
Sự thật đau lòng là mafia y tế hoàn toàn không quan tâm đến việc cứu người. Theo Walter Last: “Có sự đàn áp quy mô lớn đối với các liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên, và bức hại các nhà trị liệu tự nhiên thành công. Cái cớ cho việc đàn áp này là sự khẳng định liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên chưa được khoa học chứng minh là có hiệu quả, và điều trị như thế thì dù vô hại cũng có thể trì hoãn điều trị ung thư chính thống đạt hiệu quả cao hơn. Lập luận này thật nực cười nếu không phải là quá bi thảm cho hàng triệu người phải chịu thiệt hại.”
Sao lại “không có bằng chứng khoa học chính thức” cho liệu pháp điều trị thay thế? Điều quan trọng này cần được hiểu rõ. Theo Webster Kehr, “lý do không có ‘bằng chứng khoa học chính thức cho liệu pháp điều trị ung thư thay thế là vì chúng không đem lại lợi nhuận cao cho Big Pharma. Theo luật, một chất chỉ được xem là có ‘bằng chứng khoa học’ nếu Big Pharma trình lên FDA, và họ sẽ chỉ trình nộp những thứ rất sinh lời cho họ. Thế nên, hàng ngàn nghiên cứu về các chất tự nhiên đã chữa hoặc điều trị khỏi ung thư không có ‘bằng chứng khoa học’ và bị chính phủ phớt lờ, bởi chúng không được thực hiện dưới sự kiểm soát của Big Pharma”.
Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của mafia y tế nhằm ngăn chặn và chà đạp hoàn toàn sự thật về những liệu pháp điều trị ung thư thay thế, đôi khi thông tin về một liệu pháp điều trị hiệu quả vẫn thoát ra là nhờ phần lớn vào Internet. Nhưng mafia đã chuẩn bị cho trường hợp như vậy và có hẳn quy trình hoạt động tiêu chuẩn đối với những “rò rỉ” này.
Thông thường, họ xử lý theo một trong những cách sau đây:
· Các bản giám định kết luận “không đáng tin” hay “hoang đường”.
· Các liệu pháp điều trị ung thư thay thế bị bỏ qua và bị đàn áp.
· Các bệnh nhân được cho là đã trải qua “thuyên giảm tự phát” không liên quan gì đến liệu pháp điều trị ung thư thay thế.
· Các bệnh nhân được cho là được chữa khỏi bởi những tác động chậm của liệu pháp điều trị ung thư chính thống.
· Các bác sĩ thực hiện liệu pháp điều trị ung thư thay thế bị bức hại.
Đừng tin vào những lời nói dối của mafia y tế! Có một số liệu pháp điều trị ung thư thay thế không độc hại hiệu quả với bệnh nhân ung thư cấp. Tuy nhiên, do thực tế là Big Pharma bơm hàng tỷ đô la vào quảng cáo mỗi năm, bạn có lẽ chỉ quen thấy liệu pháp điều trị ung thư Big 3. Hầu hết các liệu pháp điều trị ung thư thay thế đều không tốn kém và không thể cấp độc quyền nhãn hiệu, không cung cấp cho công nghiệp ung thư một xu lợi tức nào; do đó, chúng gần như không có chút tiếng tăm.
Hãy nhớ rằng, các liệu pháp điều trị thay thế thành công nhắm đến các tế bào ung thư và không làm tổn hại các tế bào khỏe mạnh. Đây là sự khác biệt cốt lõi giữa các phác đồ điều trị ung thư thay thế và các phác đồ ung thư chính thống, dùng chất độc không chọn lọc (tức là tiêu diệt tất cả mọi tế bào, kể cả tế bào khỏe mạnh). Liệu pháp điều trị ung thư thay thế tập trung vào việc làm sạch cơ thể và kích thích hệ miễn dịch tự nhiên với các chế độ ăn đặc biệt, thực phẩm bổ sung cũng như việc giải độc và tăng cường ô-xy.
Các bác sĩ sử dụng liệu pháp thay thế coi ung thư là bệnh hệ thống (liên quan đến toàn bộ cơ thể); họ tập trung vào việc điều trị gốc rễ của bệnh, chứ không phải khối u, thứ chỉ đơn thuần là triệu chứng. Vậy tại sao toàn bộ các bác sĩ không gia nhập trào lưu này và bắt đầu điều trị ung thư bằng những liệu pháp thực sự hiệu quả?
Tôi đã nghiên cứu hơn 300 liệu pháp điều trị ung thư thay thế không độc hại. Chương này tập trung vào các liệu pháp điều trị hiệu quả nhất trong số đó. Nếu bị ung thư cấp tính, bạn bị coi là “giai đoạn cuối”. Bạn không có thời gian để lãng phí với những liệu pháp điều trị ung thư chưa được chứng minh. Thời gian đang dần cạn! Sau khi xem xét cẩn thận và nghiên cứu rất nhiều, tôi trình bày chi tiết các liệu pháp điều trị ung thư không độc hại hiệu quả nhất trong chương này. Một số là những liệu pháp điều trị độc lập trong khi những liệu pháp khác có thể kết hợp.
Những liệu pháp điều trị trong chương này được liệt kê theo thứ tự bảng chữ cái (tiếng Anh), chứ không phải theo tỷ lệ thành công của chúng. Thành thật mà nói, đây là những liệu pháp điều trị mà nếu tôi bị ung thư cấp, tôi sẽ nghĩ đến. Có chắc chắn thành công không? Không thể chắc chắn được. Nhưng nếu bị ung thư cấp, gần như bạn đã được kết “án tử hình” từ bác sĩ và cơ bản là bạn có 0% cơ hội sống sót nếu theo liệu pháp điều trị ung thư chính thống.
Trừ khi có quy định khác, các liệu pháp điều trị ung thư không độc hại tiên tiến này không bao giờ được kết hợp, ngoại trừ trong thử nghiệm lâm sàng. Đây là do liều lượng cho các liệu pháp điều trị này được thiết lập dựa trên khả năng cơ thể loại bỏ các tế bào ung thư chết. Bằng cách kết hợp các liệu pháp điều trị tại nhà, số lượng tế bào ung thư chết có thể là quá cao và có thể xảy ra độc tính.
Nếu bạn quyết định điều trị với một (hoặc nhiều hơn) trong các liệu pháp điều trị này tại nhà, điều quan trọng là bạn phải làm xét nghiệm chính thức (trước, trong, và sau) để đảm bảo hết ung thư hoàn toàn trước khi ngừng điều trị. Tôi khuyên bạn nên xét nghiệm AMAS2. Không giống như các xét nghiệm CEA3 và PSA4, xét nghiệm AMAS đo một kháng thể được xác định rõ.
Aloe Arborescens
Năm 1988, trong khi đứng đầu chủ trì khu phố ổ chuột của Rio Grande do Sul, Brazil, Cha Romano Zago (học giả và tu sĩ dòng Phanxicô) đã học được từ người bản xứ địa phương một công thức hoàn toàn tự nhiên và hiệu nghiệm bắt nguồn từ cây Aloe Arborescens, mà họ sử dụng để tăng cường sức khỏe miễn dịch. Ông bắt đầu giới thiệu cho bạn bè và nhà thờ, và đây là nơi ông lần đầu quan sát thấy những kết quả tích cực từ Aloe Arborescens.
Zago được cử đến Jerusalem và Ý, tại đó ông tiếp tục chứng kiến thành công to lớn trong việc cải thiện hệ miễn dịch của những người sử dụng công thức làm từ toàn bộ lá của cây Aloe Arborescens mọc tự nhiên ở các vùng đó. Điều này khích lệ ông cống hiến cuộc đời mình cho nghiên cứu và giáo dục về Aloe Arborescens vì lợi ích của nhân loại trên toàn thế giới. Cuối cùng, Zago đã xuất bản hai cuốn sách về công thức Aloe Arborescens Brazil như sau:
1. Nửa kg mật ong nguyên chất (không phải mật ong tổng hợp hoặc tinh chế)
2. 350 gam lá Aloe Arborescens (khoảng 3 hoặc 4 lá, tùy thuộc vào kích thước của lá).
3. 40-50 ml (6-8 thìa cà phê) sản phẩm chưng cất cồn (uýt-ki, rượu cô-nhắc, hoặc cồn nguyên chất khác) để bảo quản sản phẩm và có tác dụng làm giãn mạch máu. Các sản phẩm chưng cất chỉ chiếm 1% trong công thức, nhưng rất quan trọng.
Liều lượng tính bằng thìa canh, một thìa canh là một liều. Dùng mỗi lần một liều, ba lần một ngày (tức là, ba thìa canh mỗi ngày). Uống khi bụng đói, 10 đến 20 phút trước bữa ăn. Lắc chai thật kỹ trước khi rót ra thìa. Và nhớ rằng thuốc không bao giờ được tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời. Trong thực tế, khi sử dụng thuốc phải cố gắng tránh tối đa mọi loại ánh sáng. Uống ngay lập tức sau khi rót thuốc ra thìa.
Nói chung, thuốc phải được bảo quản ở chỗ tối và mát mẻ. Liệu pháp điều trị này sẽ làm sạch cơ thể của bạn. Giống như với mọi phác đồ thải độc, có thể sẽ có một số trải nghiệm khó chịu. Có thể phải trải qua một loạt các triệu chứng giải độc. Điều quan trọng là bệnh nhân không được ngừng phác đồ điều trị cho đến khi ung thư thuyên giảm hoàn toàn. Nếu không, ung thư sẽ có khả năng tái phát.
Vì là sản phẩm thực vật nguyên chất (gồm mật ong và một sản phẩm chưng cất), nên nó có thể được bổ sung vào bất kỳ điều trị không độc hại nào khác. Trong thực tế, đây là một điều trị “bổ sung” tuyệt vời để sử dụng kết hợp với các phác đồ khác. Mặc dù tôi ghét đề cập đến hóa trị liệu, nhưng phác đồ này có thể kết hợp với hóa trị và làm giảm đáng kể các tác dụng phụ. Liệu pháp này cũng đã được chứng minh là làm nhẹ bớt ảnh hưởng của xạ trị.
Công thức có vẻ khá đơn giản, nhưng nếu bạn thực sự muốn làm ở nhà thì có nhiều quy tắc quan trọng về việc khi nào cắt lá, xử lý lá ra sao, v.v.. Nếu quyết định làm ở nhà, bạn cần đọc cuốn sách của Zago mang tên Cancer Can Be Cured! (Có thể chữa khỏi ung thư!). Cuốn sách cũng đưa ra một thư mục bách khoa thông tin hiện đại về các nghiên cứu khoa học và các chứng thực đặc tính chữa bệnh của Aloe arborescens.
Đã có nhiều công bố nghiên cứu khoa học và tài liệu về lợi ích tổng hợp của 300 liệu pháp thảo dược hóa sinh và thành phần dinh dưỡng của nha đam trong việc tăng sức đề kháng của cơ thể và thúc đẩy hệ miễn dịch cũng chống lại bệnh tật. Tuy nhiên, đây là cuốn sách đầu tiên tiết lộ tiềm năng được tìm thấy trong thành phần của “cây họ hàng” là Aloe Arborescens, trong đó có chứa nhiều hơn 200% các chất dược liệu so với cây nha đam và gần như nhiều hơn đến 100% đặc tính chống ung thư.
Zago cũng đã viết một cuốn sách khác (về các bệnh khác không phải ung thư) mang tên Aloe Isn’t Medicine, and Yet… It Cure (Aloe không phải là thuốc, thế nhưng… chữa khỏi bệnh).
Các liệu pháp ô-xy hóa sinh học
Cơ thể có thể tồn tại vài tuần không thức ăn, vài ngày không nước uống, nhưng chỉ vài phút nếu không có ô-xy. Cơ thể chúng ta được cấu tạo chủ yếu là nước, trong đó hơn 90% là ô-xy. Mỗi tế bào của cơ thể đòi hỏi được cung cấp ô-xy không ngừng để nuôi các phản ứng hóa học tạo ra năng lượng, giải độc chất thải, và duy trì sản sinh các thành phần cấu trúc tế bào. Bạn có nhớ giải Nobel của Otto Warburg không? Nó được dựa trên nghiên cứu của ông về các sắc tố tế bào trong hô hấp tế bào. Ông tin tưởng chắc chắn rằng tất cả các bệnh thoái hóa là kết quả của sự thiếu ô-xy ở cấp độ tế bào. Câu nói của ông thường được trích dẫn là: “Ung thư chỉ có một nguyên nhân chính. Đó là sự thay thế hô hấp ô-xy bình thường của các tế bào trong cơ thể bằng hô hấp kị khí của tế bào.”
Bác sĩ Warburg chỉ ra rằng chất nào lấy đi ô-xy của tế bào là chất gây ung thư. Năm 1966, ông tuyên bố rằng việc đi tìm các chất gây ung thư mới là vô ích, bởi vì kết quả cuối cùng của mỗi lần tìm là như nhau, tế bào bị tước đi ô-xy. Ông cũng nói thêm rằng việc tìm kiếm không ngừng các chất gây ung thư mới là phản tác dụng vì nó che khuất nguyên nhân chính, thiếu ô-xy, và do đó ngăn cản điều trị thích hợp. Một khi mức độ ô-xy có sẵn cho một tế bào giảm xuống dưới 40% so với bình thường, tế bào buộc phải chuyển sang phương pháp kém hơn để sản xuất năng lượng gọi là lên men. Khi đó tế bào mất đi sự điều chỉnh sao chép vì tự kích thích với các yếu tố tăng trưởng (như IGF) để đáp ứng tình trạng thiếu ô-xy.
Định nghĩa đơn giản, “ô-xy hóa” là sự tương tác giữa ô-xy và bất kỳ chất nào nó tiếp xúc. Thở ô-xy là một quá trình “ô-xy hóa”. Không thể có cuộc sống nếu không có quá trình ô-xy hóa. Cơ thể sử dụng ô-xy hóa như tuyến đầu tiên bảo vệ chống lại vi khuẩn, vi-rút, nấm men và ký sinh trùng. Khi chúng ta sử dụng những nguyên lý chính của ô-xy hóa để mang lại những cải thiện trong cơ thể, việc đó được gọi là “liệu pháp ô-xy hóa”.
Hầu hết các phản ứng sinh hóa trong cơ thể là “cân bằng” thông qua các cơ chế khử. Khử có nghĩa là giảm ô-xy hóa. Bất cứ khi nào một chất bị “giảm” (thu electron), thì thứ khác phải bị “ô-xy hóa” (tức là mất đi electron) để các phản ứng giữ “cân bằng”. Một ví dụ, ô-xy hóa là quá trình gây gỉ kim loại (ô-xy hóa chậm) hoặc cháy (ô-xy hóa nhanh).
Có hai chất tự nhiên đơn giản sử dụng trong lâm sàng đã được ghi nhận trong các tài liệu y tế kể từ năm 1920 và đã được chứng minh hiệu quả trong điều trị một số bệnh nguy hiểm phổ biến nhất, gồm cả bệnh tim, ung thư và AIDS. Đó là hydrogen peroxide và ô-zôn (O3), được sử dụng trong chữa bệnh gọi chung là “các liệu pháp ô-xy hóa sinh học”. Nhà nghiên cứu hàng đầu về các liệu pháp ô-xy hóa sinh học là bác sĩ Charles H. Farr, người được đề cử giải Nobel Y học năm 1993 cho công trình của mình.
Triết lý đằng sau liệu pháp ô-xy hóa sinh học rất đơn giản. Nếu hệ thống ô-xy của cơ thể bị yếu hoặc thiếu (do không tập thể dục, chế độ ăn uống không lành mạnh, ô nhiễm môi trường, hút thuốc lá, hoặc thở không đúng), cơ thể không thể loại bỏ thỏa đáng các độc tố. Các liệu pháp ô-xy hóa sinh học được sử dụng để cung cấp cho cơ thể ô-xy dạng tích cực (uống, tiêm tĩnh mạch, hoặc qua da) để loại bỏ độc tố và chống lại bệnh tật.
Khi peroxide hydrogen hoặc ô-zôn trong cơ thể tách nhỏ thành vô số gốc ô-xy hóa phụ khác nhau, chúng tiếp xúc với vi sinh vật kị khí (vi sinh vật có khả năng sống không cần có không khí), cũng như các tế bào mô thiếu hụt hoặc bị bệnh. Nó chỉ ô-xy hóa các tế bào này trong khi không đụng đến các tế bào khỏe mạnh nguyên vẹn. Khi cơ thể trở nên bão hòa với những hình thức đặc biệt này của ô-xy, nó đạt đến trạng thái tinh khiết trong đó các vi sinh vật gây bệnh bị tiêu diệt, trong khi độc tính cơ bản bị ô-xy hóa và loại bỏ. Kết quả là tạo ra một hệ miễn dịch mạnh hơn và cải thiện toàn bộ đáp ứng miễn dịch.
Ô-zôn được Fridereich Schonbein phát hiện vào năm 1840. Nó là ô-xy trong “mối quan hệ tay ba”, một hình thức kích hoạt ô-xy với ba nguyên tử. Ban đầu, ô-zôn được sử dụng để khử trùng vết thương trong Thế chiến thứ nhất. Liệu pháp ô-zôn làm tăng tốc độ chuyển hóa ô-xy và kích thích giải phóng các nguyên tử ô-xy trong máu. Trong khoảng thời gian 20-30 phút, ô-zôn tách ra thành hai nguyên tử ô-xy bình thường và một nguyên tử ô-xy đơn có tính ô-xy hóa. Chính ô-xy đơn này nhắm vào các tế bào bị bệnh.
Điều đã được minh chứng là ô-zôn có thể “làm nổ tung” các lỗ xuyên qua màng của các vi-rút (HIV), nấm, men, vi khuẩn và các tế bào mô bất thường (tế bào ung thư) trước khi tiêu diệt chúng, mà không làm tổn hại các mô bình thường. Ô-zôn là trọng tâm của nhiều nghiên cứu trong những năm 1930 ở Đức, tại đó ô-zôn đã được sử dụng thành công để điều trị cho bệnh nhân bị viêm ruột, viêm loét đại tràng, bệnh Crone, và tiêu chảy mãn do vi khuẩn.
Ô-zôn y tế được làm từ ô-xy tinh khiết kết hợp với năng lượng điện (sử dụng một máy phát ô-zôn) để tạo thành ô-zôn. Ô-zôn có thêm một phân tử ô-xy (ô-xy đơn) mà nó không muốn ở đó, vì vậy nó tách ra và cố gắng liên kết với các phần tử khác như carbon monoxide (rất nguy hiểm) và biến nó thành carbon dioxide (cơ thể biết phải làm gì với nó). Cơ thể chúng ta thích ô-xy, cho nên ô-xy đơn đó bị ăn ngấu nghiến bởi mọi thứ tốt trong cơ thể và tiêu hủy mọi thứ xấu, vì tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, vi-rút, nấm mốc, nấm, ký sinh trùng, và ung thư rất ghét ô-zôn. Sau khi ô-xy đơn biến mất, thì còn lại ô-xy.
Vậy, làm thế nào đưa được ô-zôn vào cơ thể? Một phương pháp tuyệt vời là thông qua ô-zôn IV (tiêm một chất lỏng bão hòa ô-zôn vào máu). Một phương pháp hiệu quả là liệu pháp autohemotherapy (qua chai truyền dịch), 10-15 ml máu được lấy ra khỏi cơ thể, bão hòa với ô-zôn, và sau đó đưa trở lại vào cơ thể. Có lẽ liệu pháp ô-zôn hiệu quả nhất trong tất cả là tắm hơi ô-zôn, với ứng dụng kép của ô-zôn và thân nhiệt cao. Tiêm trực tiếp thì mạnh, nhưng gần như không có sẵn như tắm hơi ô-zôn, thứ mà hầu như người nào cũng có thể sử dụng tại nhà cho bản thân và gia đình rất tuyệt vời.
Hãy nhớ rằng, năng lượng của ô-zôn thực hiện công việc này. Do đó, ô-zôn luôn được coi là liệu pháp điện (electrotherapy). Như Tesla nói, ô-xy chỉ là vật dẫn điện vào cơ thể. Ô-zôn kích thích sự sản xuất các cytokine. Cytokine là các “tế bào sứ giả” như các protein kháng vi-rút và chất sát khuẩn trong bạch cầu, kích hoạt phản ứng của những thay đổi tích cực trong toàn hệ miễn dịch. Việc tăng cường sự có mặt của ô-xy lần lượt hỗ trợ các chức năng trao đổi chất và giải độc của tất cả các cơ quan trong cơ thể.
Như tôi đã đề cập, không giống như phần lớn các vi khuẩn, nấm và vi-rút, Chúa đã thiết kế cơ thể chúng ta để tự bảo vệ đối với phản ứng của ô-xy đơn. Đó là nhờ việc sản xuất tế bào của enzyme phòng thủ [superoxide dismutase (SOD), glutathione peroxidase (GPx), glutathione reductase (GR), và catalase]. Để tạo ra các enzyme này cần một lượng năng lượng thích hợp, nhưng tế bào ung thư yếu ớt sẽ không có năng lượng để tạo ra chúng. Thế nên, nó bị ô-xy đơn tấn công.
Theo đó ô-zôn không làm hại các tế bào khỏe mạnh, nhưng có “tính diệt khuẩn, diệt nấm và diệt vi-rút rất rõ rệt và vì thế được sử dụng rộng rãi trong khử trùng vết thương, cũng như vi khuẩn và vi-rút gây bệnh” (R. Viebahn Haensler, The Use of Ozone in Medicine ‒ Sử dụng Ô-zôn trong y học). Ô-zôn chọn lọc chất độc, thế nên kết quả cuối cùng là liệu pháp ô-zôn diệt vi khuẩn, vi-rút, nấm, và men có hại nhưng không đụng đến các tế bào khỏe mạnh.
Tạp chí Science ngày 22 tháng 8 năm 1980, có một báo cáo do một số bác sĩ y khoa viết (Sweet, Kao, Hagar, và Lee) tựa đề Ozone Selectively Inhibits Growth of Human Cancer Cells (Ô-zôn chọn lọc ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư ở người). Báo cáo nói: “Sự phát triển của các tế bào ung thư ở người đến từ ung thư phổi, vú và tử cung đã được ngăn chặn một cách chọn lọc với liều phụ thuộc ô-zôn ở 0,3 đến 0,8 phần triệu ô-zôn trong không khí xung quanh trong tám ngày nuôi cấy. Nhị bội nguyên bào sợi phổi người hoạt động như những tế bào kiểm soát không ung thư. Sự hiện diện của ô-zôn ở 0,3 đến 0,5 phần triệu đã ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư tương ứng 40% và 60%. Các tế bào phổi không ung thư không bị tác động ở những mức này. Tiếp xúc với ô-zôn tại 0,8 phần triệu ức chế sự tăng trưởng tế bào ung thư hơn 90% và kiểm soát sự tăng trưởng của tế bào nhỏ hơn 50%. Rõ ràng cơ chế phòng vệ chống lại ô-zôn gây tổn hại đang bị suy giảm trong các tế bào ung thư ở người.” Bằng chứng từ những nghiên cứu này của các bác sĩ là không thể chối cãi.
Cả EPA (Cục bảo vệ môi trường Mỹ) và FDA thừa nhận khả năng ô-xy hóa của ô-zôn là hơn 99,99% cho tất cả tác nhân gây bệnh qua đường nước.
Ô-zôn đã được sử dụng vào mục đích sức khỏe từ năm 1860, và hiện đang được sử dụng tại hơn 16 quốc gia. Sử dụng rộng rãi nhất là ở Đức, nơi có hơn 7.000 bác sĩ đã điều trị cho hơn 12 triệu người kể từ Thế chiến thứ hai. Tuy nhiên, bạn cũng có thể đoán được, FDA không cho phép thử nghiệm ô-zôn, và đã ngược đãi các bác sĩ sử dụng nó.
Theo bác sĩ Hans Nieper, người đã sử dụng ô-zôn ở Hanover, Đức: “Bạn sẽ không tin có bao nhiêu quan chức FDA hay họ hàng người quen của các quan chức FDA đến chỗ tôi khám ở Hanover đâu. Bạn sẽ không tin điều này, họ hoặc là các giám đốc của AMA hoặc ACA, hoặc các chủ tịch của các viện ung thư chính thống. Đó là một thực tế.” Ngoài ra, nhiều người nổi tiếng đến Đức để được bác sĩ Nieper điều trị, có cả Tổng thống Ronald Reagan, Sir Anthony Quinn, William Holden, John Wayne, Yul Brynner.
Hydrogen peroxide (H2O2) tham gia tất cả các quá trình quan trọng của cuộc sống và phải có mặt trong hệ miễn dịch giúp hệ này hoạt động bình thường. Sữa non (trong sữa mẹ) có nồng độ H2O2 rất cao. Các tế bào trong cơ thể làm nhiệm vụ chống nhiễm trùng sản xuất H2O2 tự nhiên như tuyến đầu bảo vệ chống lại sự xâm nhập của sinh vật (như ký sinh trùng, vi rút, vi khuẩn, và men). Bác sĩ Charles Farr đã chỉ ra rằng H2O2 kích thích hệ thống enzyme ô-xy hóa trong cơ thể, gia tăng mức độ trao đổi chất, làm các động mạch nhỏ giãn ra và tăng lưu lượng máu, tẩy sạch độc tố, tăng nhiệt độ cơ thể, và tăng cường phân phối và tiêu thụ ô-xy của cơ thể. H2O2 cũng kích thích sản xuất các tế bào bạch cầu rất cần thiết để chống nhiễm trùng.
Vào những năm 1950, bác sĩ Reginald Holman đã tiến hành các thí nghiệm liên quan đến việc sử dụng H2O2 bổ sung vào nước uống của những con chuột có khối u ung thư. Các khối u đã biến mất hoàn toàn trong vòng 15 đến 60 ngày. Vào những năm 1960, các bác sĩ châu Âu bắt đầu kê H2O2 cho bệnh nhân. Ngay lập tức, việc sử dụng H2O2 đã trở thành một phần được chấp nhận của y tế chủ đạo ở Đức, Nga và Cuba. Trong một bài báo, bác sĩ Kurt Donsbach viết: “30 gam 35% hydrogen peroxide (cho mỗi 3,785 lít nước) trong bình phun hơi mỗi đêm trong phòng ngủ khí thũng sẽ giúp người ta hít thở thoải mái hơn! Tôi làm điều này cho bệnh nhân ung thư phổi của mình.”
Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao H2O2 sùi bọt khi bạn đổ nó vào vết thương? Lý do nó sùi bọt là vì máu và các tế bào chứa một loại enzyme gọi là “catalase”. Vì vết cắt hoặc vết xước có chứa cả máu và các tế bào bị tổn thương, nên có rất nhiều catalase trôi nổi xung quanh. Khi catalase tiếp xúc với hydrogen peroxide, nó sẽ biến hydrogen peroxide (H2O2) thành nước (H2O) và khí ô-xy (O2). Catalase làm việc này cực kỳ hiệu quả, lên tới 200.000 phản ứng trong một giây! Những bong bóng bạn nhìn thấy trong bọt là bong bóng ô-xy tinh khiết được catalase tạo ra.
Một phương pháp tuyệt vời để cung cấp H2O2 là cho H2O2 yếu, rất tinh khiết (0,0375% hoặc nồng độ thấp hơn) vào dung dịch nước đường hoặc muối, giống như sử dụng truyền tĩnh mạch ở bệnh viện. Truyền liều 50 đến 500 ml từ từ vào tĩnh mạch lớn, thường ở cánh tay, trong khoảng thời gian 1 đến 3 giờ tùy thuộc vào lượng ấn định và điều kiện của bệnh nhân. Thường điều trị khoảng một lần một tuần cho bệnh mạn tính, nhưng có thể sử dụng hằng ngày đối với bệnh nhân HIV và ung thư. Bác sĩ sẽ xác định tổng số lần xử lý cần thiết để điều trị tình trạng cụ thể của bạn. Hơn nửa thế kỷ qua, hàng chục ngàn bệnh nhân đã được điều trị H2O2 mà không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng hydrogen peroxide mua ở cửa hàng tạp hóa chứa hóa chất độc hại. Nó chỉ dành để sử dụng ngoài da. Bệnh nhân ung thư nên tránh xa dạng này của H2O2. Ngoài ra, bệnh nhân ung thư sử dụng H2O2 bên trong cơ thể cũng nên sử dụng một enzyme phân hủy protein chất lượng (như Vitälzym), nó sẽ cắt qua lớp phủ protein trên tế bào ung thư và cho phép H2O2 thâm nhập xuyên qua thành tế bào. Nếu đang theo chế độ ăn Budwig, bạn nên tránh ăn thực phẩm cung cấp H2O2 vì sự tương tác của các chất béo với H2O2 có thể gây tổn hại dạ dày.
Gần 200 năm trước, dưới thời trị vì của Nữ hoàng Victoria, người dân Ấn Độ (thuộc địa của Anh khi đó) nhận thấy cho thêm lượng nhỏ H2O2 vào nước uống có thể chữa khỏi nhiều bệnh như cảm lạnh, cúm, tả và sốt rét. Sự hiểu biết này đe dọa việc bán thuốc của “Big Pharma Anh”, vì vậy nước Anh đã gửi một nhân viên “đặc vụ” đóng giả bác sĩ và tuyên bố rằng H2O2 gây tổn thương não do vi-rút. Ông ta thậm chí còn dựng lên câu chuyện về một em bé (không tồn tại) đã chết vì tổn thương não sau khi uống H2O2. Do xuất phát từ một “bác sĩ”, nên câu chuyện bịa đặt đó đã được chấp nhận là “thật”, và người dân Ấn Độ đã bắt đầu mua các loại thuốc của Anh.
Nghe quen quen, phải không? Kỹ thuật tương tự như thế vẫn đang được mafia y tế sử dụng ngày nay. Bất chấp số lượng lớn các dữ liệu khoa học xác nhận những hiệu ứng sinh học và hóa học tuyệt vời của ô-zôn và hydrogen peroxide, một mảng lớn trong ngành y tế vẫn tiếp tục bỏ qua hoặc cố tình phớt lờ những liệu pháp điều trị cực kỳ đơn giản và không tốn kém.
Một phòng khám có sử dụng các liệu pháp ô-xy hóa sinh học là Trung tâm điều trị y tế thay thế và chống lão hóa Nevada của bác sĩ Frank Shallenberger, ở thành phố Carson, Nevada. Theo bác sĩ Shallenberger, ô-zôn và hydrogen peroxide thực sự làm tăng hiệu quả của hệ enzyme chống ô-xy hóa, dọn sạch các gốc tự do dư thừa trong cơ thể. Ngoài ra còn tăng cường miễn dịch tế bào. Trang web của họ là www.antiagingmedicine.com. Một phòng khám tuyệt vời khác là Chăm sóc Y tế và Phục hồi, do bác sĩ Ross Hauser điều hành, ở Illinois. Trang web của họ là www.CaringMedical.com.
Cuối cùng, nếu quyết định sử dụng liệu pháp ô-zôn, bạn phải liên hệ với bác sĩ Saul Pressman, người mà tôi gọi là “bậc thầy ô-zôn”. Ông điều hành nhóm thư điện tử: ozonetherapy@yahoogroups.com. Chỉ cần tham gia nhóm và gửi email cho bác sĩ Pressman với bất kỳ câu hỏi nào. Ông cực kỳ nhiệt tình và luôn sẵn sàng giúp đỡ. Ông cũng đã giúp tôi về các thông tin trong phần này của cuốn sách.
Phác đồ Bob Beck
Phác đồ Bob Beck khởi đầu là liệu pháp điều trị điện y cho bệnh AIDS; tuy nhiên, nó có tiềm năng đáng kinh ngạc để trở thành liệu pháp điều trị xuất sắc đối với ung thư cấp.
Trở lại năm 1990, hai bác sĩ William D. Lyman và Steven Kaali đã khám phá ra rằng một dòng điện nhỏ có thể vô hiệu hóa các vi sinh sinh sôi nảy nở, theo đó làm cho chúng bị trơ hoặc vô hại. Đây là một trong những khám phá vĩ đại nhất trong lịch sử y học bởi vì hầu như tất cả các bệnh đều do một loại vi sinh gây ra hoặc làm nặng thêm. Phát hiện này là phép chữa bệnh cho gần như tất cả các bệnh được biết đến ở loài người.
Song, mặc dù công nghệ của họ được dẫn chứng rõ ràng bằng tài liệu, nhưng y học chính thống không quan tâm đến khám phá này. Y học chính thống quan tâm đến “điều trị” chứ không phải là “chữa bệnh” bởi “điều trị” một người mang lại nhiều lợi nhuận hơn là “chữa bệnh” cho họ.
Beck qua đời năm 2002, ông là Tiến sĩ vật lý và đã có 30 năm nghiên cứu điện y. Ông đã nghiên cứu khám phá của Lyman và Kaali và tìm ra phương pháp không xâm lấn để sử dụng.
Theo Beck, “Tôi đọc được một bài báo trên Science News công bố ngày 30 tháng 3 năm 1991. Trang 207 mô tả phương pháp xử lý “gây sốc” cho bệnh AIDS được Cao đẳng Y Albert Einstein tại New York đề xuất, trong đó vô tình phát hiện ra cách chữa trị tất cả các chủng loại AIDS. Vì vậy, tôi quan tâm vấn đề này, và tôi thấy bài viết về chữa AIDS đã được trình bày tại Hội nghị chung về các liệu pháp kết hợp ở Washington DC, vào ngày 14 tháng 3 năm 1991, tại Hội nghị chuyên đề quốc tế đầu tiên về liệu pháp kết hợp.
Khi cố tìm một bản sao bài viết này để xem nội dung, tôi thấy họ đã thủ tiêu toàn bộ hoặc đã cắt xén. Chúng tôi đã thuê một thám tử tư và có được bản tóm tắt cá nhân của một người tham dự hội nghị. Tôi cũng tiến hành tìm kiếm trên máy tính và chỉ có duy nhất một kết quả đề cập đến công nghệ này là bài báo “Vượt ngoài giới hạn” trong tạp chí Longevity, số ra tháng 12 năm 1992. Họ nói rằng bác sĩ Steven Kaali thuộc Cao đẳng Y Albert Einstein đã tìm ra cách ức chế AIDS trong máu, nhưng cần nhiều năm thử nghiệm trước khi có thể sử dụng thiết bị diệt vi-rút. Nói cách khác, họ phát hiện ra và sau đó cố che đậy ngay lập tức.
Nhưng đã xảy ra một điều rất khôi hài. Hai năm sau, một bằng sáng chế bất ngờ xuất hiện. Cục sáng chế Mỹ đã mô tả toàn bộ quá trình. Bạn có thể xem bằng sáng chế số #5188738 trong đó bác sĩ Kaali mô tả quá trình làm suy yếu bất kỳ vi khuẩn hoặc vi-rút nào (bao gồm cả AIDS/HIV), ký sinh trùng và tất cả các loại nấm chứa trong máu, khiến chúng bị vô hiệu khi lây nhiễm tế bào của người khỏe mạnh bình thường. Đây là tài liệu chính phủ! Đó là năm 1990! Tại sao họ không nói với công chúng về điều đó? Tôi quyết định nếu có một ca chắc chắn chữa khỏi AIDS, tôi phải tìm hiểu về nó.
Khi nghiên cứu công trình của bác sĩ Kaali, tôi quyết định xúc tiến và tài trợ công trình này. Chúng tôi nhận thấy nó luôn hoạt động hiệu quả. Sau đó, tôi phát hiện ra rằng công nghệ này có một lịch sử lâu dài. Chúng tôi lần ngược 107 năm theo dấu vết của bằng sáng chế này! Chúng tôi tìm thấy một bằng sáng chế, số 4665898, sáng chế này chữa khỏi tất cả các loại ung thư, đề ngày 19 tháng 5 năm 1987.
Tại sao việc này bị ỉm đi? Tại sao bác sĩ không nói cho bạn biết về một phương pháp chữa ung thư đã được kiểm chứng? Câu trả lời là các bác sĩ thu về 375.000 đô-la từ mỗi bệnh nhân phẫu thuật, sử dụng hóa trị, chụp X-quang, nhập viện. Đây là số liệu thống kê chính thức từ Bộ Thương mại Mỹ. Thật không may, chữa khỏi cho bệnh nhân đồng nghĩa mất khách hàng”.
Ban đầu, nghiên cứu của bác sĩ Beck đã phải thực hiện bên ngoài nước Mỹ. Máy điện y đầu tiên của ông gọi là máy lọc máu hay máy kích điện máu. Máy kích điện máu tạo ra một dòng điện xoay chiều rất nhỏ phá hủy enzyme chính trên bề mặt vi sinh và ngăn ngừa nó sinh sôi nảy nở. Cơ thể đào thải vi sinh vô hiệu một cách an toàn.
Thế nhưng, bác sĩ Beck phát hiện ra trong một số trường hợp, vi-rút ẩn náu trong cơ thể và không hoạt động, do đó không lưu thông cùng với máu. Sau đó, ông đã phát triển máy điện y thứ hai (máy xung điện từ) để vô hiệu hóa các vi sinh không lưu thông trong máu. Phác đồ của bác sĩ Beck cũng bao gồm chất keo bạc và nước ô-zôn. Vì phác đồ này có khả năng tiêu diệt cả các vi khuẩn “thân thiện” trong đường tiêu hóa, nên bạn phải xem xét bổ sung thêm một số chế phẩm sinh học mạnh vào chế độ ăn.
Có ít nhất một người đã bị tống giam vì bán máy theo phác đồ Bob Beck và hai người khác đã chết một cách bí ẩn. Bob Beck tin rằng liệu pháp điều trị của ông loại bỏ hẳn các loại vi sinh từ cơ thể của một người cũng là phương pháp hiệu nghiệm để khôi phục lại hệ miễn dịch của người đó. Ông cảm nhận rằng đó là lý do quan trọng khiến phương pháp này cực kỳ thành công trên bệnh nhân ung thư.
QUAN TRỌNG: Không liệu pháp điều trị ung thư thay thế nào hoặc điều trị ung thư chính thống nào có thể được sử dụng cùng với phác đồ Bob Beck. Tất cả các liệu pháp điều trị ung thư khác phải được dừng lại ít nhất hai ngày trước khi bắt đầu phác đồ Bob Beck. Phác đồ Bob Beck phải được sử dụng riêng. Không thuốc kê đơn, không thảo mộc, v.v.. Nếu bạn quyết định sử dụng phác đồ Bob Beck, vui lòng truy cập www.cancertutor.com/Cancer02/BobBeck.html. Hãy xem kỹ danh sách các “chất cấm” cũng như đọc toàn bộ bài viết.
Phương thuốc nho Brandt/Kehr
Trong những năm 1920, Johanna Brandt ở Nam Phi cho biết bà đã chữa khỏi ung thư dạ dày bằng thứ bà gọi là phương thuốc nho. Một vài năm sau đó, bà viết một cuốn sách hấp dẫn tiết lộ các chi tiết cụ thể về việc làm thế nào bà tự thoát khỏi ung thư. Về cơ bản, Brandt ăn nho, rất nhiều nho, ăn cả vỏ và hạt. Thì ra, nho có chứa một chất gọi là resveratrol.
Theo nhà nghiên cứu nổi tiếng, bác sĩ John Pezzuto của Đại học Illinois tại Chicago, chất phenol tự nhiên được tìm thấy này “có nhiều cách tác động, ức chế sự phát triển ung thư ở nhiều giai đoạn khác nhau, đó là điều đáng chú ý”. Người ta cũng tin rằng resveratrol kích hoạt gen p53 gây ra quá trình chết tự nhiên ở tế bào. Ngoài resveratrol, nho (đặc biệt là nho Concord tía) còn chứa nhiều chất dinh dưỡng khác có tác dụng diệt tế bào ung thư, chẳng hạn như axit ellagic, lycopene, selenium, catechin, quercetin, axit gallic, và vitamin B17. Thật là một kho vũ khí tuyệt vời để chống ung thư!
Nhiều thứ đã thay đổi kể từ khi Brandt công bố chế độ ăn với phương thuốc nho của bà vào những năm 1920, tôi đã theo chế độ ăn này dựa trên khuyến nghị của Webster Kehr; do vậy, tôi gọi là Phương thuốc nho Brandt/Kehr. Ví dụ, một lượng nhỏ khoáng chất trong đất hầu như đã bị cạn kiệt trong vòng nửa thế kỷ qua, còn clo và flo thì được bổ sung vào hệ thống cấp nước. Tôi đề cập đến chuyện này vì toàn bộ nước ép nho, gồm cả nho sạch, có thể đã được pha trộn với nước có clo. Ngoài ra, theo luật thì toàn bộ nước ép nho đều phải được tiệt trùng, do đó phá hủy các enzyme rất quan trọng cho quá trình tiêu hóa nước ép nho. Vì thế, phương thuốc nho Brandt/Kehr đòi hỏi một lượng nho nhất định.
Một ngày điển hình của chế độ ăn Brandt/Kehr gồm 12 giờ nhịn ăn sau 12 giờ ăn nho. Trong thời gian ăn đó, bạn tuyệt đối không ăn gì khác ngoại trừ nho, nho đặc và nước ép nho tươi, ăn từ từ trong suốt thời gian 12 giờ, không chỉ vào bữa ăn. Trong thời gian này, bạn nên ăn từ 2 lít đến 4 lít “nước nho đặc” tinh khiết được làm từ máy chế biến nho. Để tránh buồn nôn và tối đa hóa hiệu quả của nho đặc, hãy chia thành tám phần bằng nhau ăn từ từ mỗi tiếng rưỡi một lần trong thời gian 12 giờ.
Phải đảm bảo uống mỗi ngày ít nhất 4 lít nước suối tinh khiết hoặc nước giếng phun, phân đều ra cho cả hai giai đoạn 12 giờ, và uống cùng nho đặc trong thời gian ăn. Phải đảm bảo nước của bạn không qua xử lý clo hoặc flo. Nước ép nho đặc phải có cả hạt và vỏ nho nghiền nát và nho thì nên là nho Concord tía. Không mua nho không hạt hoặc nho xanh, vì chúng không có những “chất tốt” mà nho Concord tía có. Và mua nho hữu cơ nếu được, vì nho bị tưới rất nhiều phun thuốc trừ sâu. Nếu không thể có được nho hữu cơ, hãy ngâm nho thật đảm bảo trong nước suối ấm ít nhất 15 phút và rửa tráng thật sạch.
Trong khi nhịn uống, các tế bào ung thư rất đói. Sau đó, khi có thức ăn, những gì chúng nhận được là nho, chúng nuốt ngấu nghiến vì nho chứa nồng độ đường tự nhiên cao. Và các tế bào ung thư lại thích đường! Tuy nhiên, những loại nho này cũng chứa một số chất dinh dưỡng quan trọng tiêu diệt ung thư như liệt kê ở trên. Vì vậy, thực chất là chúng ta “đánh lừa” các tế bào ung thư nuốt tất cả các chất dinh dưỡng chống ung thư. Nó giống như việc cho chất độc vào kẹo và sau đó đưa cho đứa trẻ đang chết đói. Và vì các tế bào ung thư cực kỳ kém hiệu quả trong việc sản xuất năng lượng, chúng đòi hỏi nhiều đường hơn các tế bào khỏe mạnh bình thường, nên chúng nuốt nhiều nho hơn! Và như chúng ta đã biết, các tế bào ung thư tiêu thụ nhiều đường gấp 18 lần (và tiêu thụ các chất dinh dưỡng chống ung thư trong nho nhiều gấp 18 lần) so với các tế bào khỏe mạnh bình thường. Do đó, chế độ ăn uống Brandt/Kehr là một trong những cách tốt nhất để tiêu diệt tế bào ung thư!
Cần phải dùng những thực phẩm bổ sung gì với phương thuốc nho Brandt/Kehr?
1. Chiết xuất hạt nho – kiểm tra thành phần để nhận được nhiều OPC nhất.
2. Chiết xuất vỏ nho – kiểm tra thành phần để có được nhiều resveratrol nhất.
3. Quercetin – tương đương thực phẩm bổ sung mà không cần qua kê đơn.
4. Vitamin C – 12 đến 15 gam chia ra trong ngày (tăng dần đến lượng này trong hai tuần, không bắt đầu ở mức 12-15 gam).
5. Ớt cayenne – càng cay và càng tươi càng tốt.
6. Niacin – 1 gam mỗi ngày.
Cả ớt cayenne và niacin đều tăng lưu lượng máu, điều này giúp đem nước nho đến các tế bào ung thư. Tế bào ung thư thường phát triển mạnh ở khu vực lưu thông kém. Bạn có thể sử dụng những liệu pháp điều trị gì cùng với phương thuốc nho? Không sử dụng cesium chloride, vì cesium ngăn cản glucose đến với các tế bào ung thư, và phương thuốc nho Brandt/Kehr sử dụng glucose như một nhân tố vận chuyển các chất dinh dưỡng chống ung thư.
Một chu kỳ điều trị này dài sáu tuần. Năm tuần đầu tiên chỉ có nho Brandt/Kehr. Không ăn hoặc uống bất cứ thứ gì khác nho. Tuần thứ sáu sẽ cho phép ăn một số thực phẩm khác. Lặp lại chu kỳ sáu tuần nhiều lần nếu cần thiết để chữa ung thư.
Chế độ ăn Budwig
Một liệu pháp điều trị ung thư thay thế nổi bật được đưa ra bởi một nhà hóa sinh người Đức, bác sĩ Johanna Budwig, bà cũng là người bảy lần được đề cử giải Nobel. Đóng góp y tế quan trọng nhất của bà liên quan đến nghiên cứu vai trò của các axit béo thiết yếu (EFA). Để sản xuất đại trà và phân phối thực phẩm giàu tinh dầu, các nhà sản xuất thực phẩm cố ý thay đổi thành phần hóa học của các loại dầu để có hạn sử dụng dài hơn. Vào những năm 1950, bà đã chứng minh rằng những thay đổi hóa học này, những chất béo hydro hóa (mà bà gọi là chất béo “giả tạo”) là chất béo cứng dính vào màng tế bào, khiến chúng làm sai chức năng.
Bác sĩ Budwig tin rằng những chất béo, dầu qua chế biến và hydro hóa này làm tắt điện trường của các tế bào và khiến chúng ta dễ mắc các bệnh mạn tính và không cứu chữa được, vì men oxidase có lợi bị phá hủy bởi nhiệt độ hoặc luộc chín. Bà cũng chứng minh rằng sự vắng mặt của các chất béo thiết yếu không bão hòa chịu là tác nhân sản sinh ra oxidase, dẫn đến ung thư tăng trưởng và nhiều rối loạn mạn tính khác. Bà tin rằng ung thư không phải là do quá nhiều tế bào tăng trưởng, mà là do sự tăng trưởng tế bào bị lỗi (như phân chia tế bào), gây ra bởi sự kết hợp quá nhiều chất béo “giả tạo” và quá ít chất béo lành mạnh ở màng tế bào.
Nhưng chính xác điều gì xảy ra với chất béo khi xử lý chúng? Trong chất béo lành mạnh có một đám mây electron quan trọng cho phép các chất béo liên kết với ô-xy. Những chất béo ô-xy hóa lành mạnh có khả năng liên kết với protein và trong quá trình xử lý trở nên hòa tan được trong nước. Tính hòa tan được vào nước này rất cần thiết cho tất cả các quá trình tăng trưởng, phục hồi tổn thương tế bào, tái tạo tế bào, các chức năng thần kinh và não bộ, chức năng thần kinh cảm giác, và phát triển năng lượng. Thực tế, toàn bộ nền tảng sản xuất năng lượng của chúng ta dựa trên sự chuyển hóa lipid. Hydro hóa phá hủy đám mây electron quan trọng và kết quả là những chất béo “giả tạo” có thể không còn liên kết được với ô-xy hoặc protein. Rốt cuộc, những chất béo này ngăn chặn lưu thông, gây tổn hại tim, ức chế tái tạo tế bào, và cản trở dòng chảy tự do của máu và bạch huyết. Phải sáng suốt ghi nhớ thực tế này khi lần sau bạn muốn mua bơ chế biến hoặc các loại thức ăn chiên, vì cả hai đều chứa các chất béo có hại điển hình này.
Bác sĩ Budwig bắt đầu nghiên cứu chất béo vào những năm 1950, và nhanh chóng phát hiện ra rất nhiều điều về các quá trình chuyển hóa của chất béo so với những gì đã được biết đến trước đó. Bà bắt đầu nghiên cứu bằng việc phân tích các mẫu máu của hàng ngàn bệnh nhân bị bệnh nặng, sau đó so sánh những mẫu này với máu của những người khỏe mạnh. Bà nhanh chóng phát hiện ra máu của bệnh nhân ung thư bị thiếu hụt một số thành phần thiết yếu quan trọng, bao gồm cả phosphatide và lipoprotein, trong khi máu của người khỏe mạnh luôn chứa đủ số lượng các thành phần này. Bà đưa ra giả thuyết rằng việc thiếu các thành phần này dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng các tế bào ung thư. Khi phân tích máu của bệnh nhân ung thư, thay vì tìm thấy hemoglobin giàu ô-xy, màu đỏ, khỏe mạnh, bà phát hiện ra một chất có màu xanh vàng. Bà nhận thấy khi những thành phần tự nhiên này được thay thế, các khối u ung thư bắt đầu co lại. Khi các yếu tố xanh lục kỳ lạ trong máu được thay thế bằng các tế bào hồng cầu khỏe mạnh thì các lipoprotein và phosphatide bất ngờ xuất hiện trở lại. Sau đó, bà phát hiện ra rằng ăn một hỗn hợp hai loại thực phẩm thay thế lipoprotein và phosphatide sẽ làm cho máu khỏe mạnh trở lại.
Hai EFA là axit linoleic (LA) – chất béo omega-6, và axit alphalinolenic (ALA) – chất béo omega-3. Sức khỏe tốt đòi hỏi tỷ lệ thích hợp của omega-6 và omega-3; tỷ lệ lý tưởng là khoảng 2:1. Rau quả và các loại hạt (ngô, hoa rum, hạt bông, đậu phộng, đậu nành) chứa chất béo omega-6 cao nhất. LA là chất béo omega-6 chính, mà một người khỏe mạnh sẽ chuyển đổi thành gamma linolenic axit (GLA). Các chất béo omega-6 khác gồm có liên hợp axit linoleic (CLA), dihomo-gamma-linolenic axit (DGLA), và axit arachidonic (AA). Cá biển (như cá hồi, cá ngừ và cá thu) và một số hạt (như hạt lanh) chứa chất béo omega-3 cao nhất. ALA là chất béo omega-3 chính, mà một người khỏe mạnh sẽ chuyển đổi thành axit eicosapentaenoic (EPA) và sau đó thành axit docosahexaenoic (DHA) và axit docosapentaenoic (DPA).
Budwig tin rằng bệnh mạn tính là do cơ thể thiếu EFA, trong đó có đầy đủ electron và liên kết với ô-xy và protein. Khi được hấp thụ vào thành tế bào, chúng kéo ô-xy vào trong tế bào. Và khi liên kết với protein gốc lưu huỳnh, chúng trở nên hòa tan trong nước. Đây là lý thuyết đằng sau chế độ ăn Budwig: Tính hữu ích của ô-xy trong cơ thể có thể được kích thích bởi các lipoprotein (protein giàu lưu huỳnh và axit linoleic).
Trong cuốn sách Oxygen Therapies (Liệu pháp ô-xy), Ed McCabe bày tỏ quan điểm của ông về EFA: “Các tế bào hồng cầu trong phổi thải bỏ carbon dioxide và hấp thụ ô-xy. Sau đó, chúng được vận chuyển đến vị trí tế bào thông qua các mạch máu, tại đó chúng giải phóng ô-xy vào huyết tương. Ô-xy giải phóng này được ‘hút’ vào các tế bào bởi ‘cộng hưởng’ của các axit béo. Nếu không, ô-xy không thể tự nó vào trong tế bào. ‘Electron giàu axit béo’ đóng vai trò quyết định trong hô hấp enzyme, đó là nền tảng của quá trình ô-xy hóa tế bào”. EFA kết hợp với các protein giàu lưu huỳnh (chẳng hạn như trong pho-mát làm từ sữa đã gạn kem) tăng sự ô-xy hóa của cơ thể, vì các electron vốn được bảo vệ cho đến khi cơ thể đòi hỏi năng lượng.
Tất nhiên, như bạn có thể đoán được, bác sĩ Budwig bị khủng bố vì công trình của bà. Chỉ cần nghĩ về khoản tiền lợi nhuận mỗi năm của ngành công nghiệp chất béo và dầu. Quá trình hydro hóa là trọng tâm của cả hai ngành công nghiệp này, và lý thuyết của bác sĩ Budwig dựa trên nền tảng rằng chất béo hydro hóa đóng góp vào sự hình thành các tế bào ung thư! Rốt cuộc, bà bị cản trở tiếp tục nghiên cứu và bị ngăn chặn công bố các kết quả khám phá. Chính bà đã nói, “Tôi có lời giải đáp cho bệnh ung thư, nhưng các bác sĩ Mỹ không lắng nghe. Họ đến đây quan sát các phương pháp của tôi và cảm thấy ấn tượng. Sau đó, họ muốn ra một thỏa thuận đặc biệt để có thể sở hữu phương pháp này và kiếm thật nhiều tiền. Tôi không làm điều đó, vì vậy tôi bị tẩy chay ở mọi quốc gia.”
Một số nguồn cung cấp protein giàu lưu huỳnh là các loại hạt, hành, hẹ, tỏi, đặc biệt là pho-mát không kem và sữa chua. Dầu hạt lanh tốt nhất phải mới nguyên, ép nguội, sạch, lỏng, ướp lạnh và chưa tinh chế. Một trong những thương hiệu tốt nhất là dầu hạt lanh Barlean. Hỗn hợp pha trộn dầu hạt lanh và pho-mát không kem nên là một phần trong chế độ ăn của bệnh nhân ung thư. Bạn chỉ cần trộn một cốc pho-mát không kem sạch với 2–3 muỗng canh dầu hạt lanh. Trộn chúng với nhau và để hỗn hợp trong vài phút. Điều này sẽ chuyển đổi omega-3 tan trong dầu thành omega-3 tan trong nước. Cũng là một ý tưởng hay nếu xay hạt lanh tươi rồi cho thêm vào hỗn hợp. Điều quan trọng cần lưu ý là không phải riêng các loại thực phẩm giàu EFAs hay các protein giàu lưu huỳnh có thể mang lại hiệu quả. Đấy là vì các loại dầu phải liên kết với các protein trước khi ô-xy được liên kết và cơ thể có thể tiêu hóa hỗn hợp này.
Nhờ nỗ lực không biết mệt mỏi của bác sĩ Budwig mà bây giờ chúng ta biết được chất béo giàu điện electron tương tác với các protein giàu lưu huỳnh để liên kết ô-xy và thúc đẩy chuyển hóa hiếu khí dẫn đến khôi phục sức khỏe. Theo bác sĩ chuyên khoa u bướu và cựu chuyên gia tim mạch, bác sĩ Dan C. Roehm: “Bà ấy (bác sĩ Budwig) đã xua tan sự hoài nghi ban đầu của tôi. UNG THƯ CÓ THỂ DỄ DÀNG CHỮA KHỎI, liệu pháp điều trị có kết quả ngay lập tức; các tế bào ung thư yếu ớt và dễ bị tổn thương. Điểm phân giải sinh hóa chính xác được bà xác định vào năm 1951 và đặc biệt chính xác, trong thí nghiệm cũng như trên cơ thể sống… Chế độ ăn này không còn nghi ngờ gì nữa là chế độ ăn chống ung thư thành công nhất trên thế giới.”
Bill Henderson đã điều trị hơn một nghìn bệnh nhân ung thư “giai đoạn cuối”. Yếu tố quyết định trong phác đồ điều trị của ông là chế độ ăn Budwig. Ông là tác giả của hai cuốn sách xuất sắc là Beating Cancer Gently (Nhẹ nhàng đánh bại ung thư) và Cancer-Free (Thoát khỏi ung thư)5. Bill là một người tuyệt vời và sẽ “huấn luyện” bạn qua điện thoại. Phác đồ của ông gồm một số đặc tính rất tiên tiến khiến nó trở thành một trong những liệu pháp điều trị ung thư hiệu nghiệm nhất hiện thời. Ông tập trung vào chế độ ăn chống ung thư nghiêm ngặt, một trong những lý do mà rất nhiều người đã được chữa khỏi bằng cách sử dụng liệu pháp điều trị của ông. Và đúng như tên gọi, đó cũng là một trong số những liệu pháp điều trị “nhẹ nhàng” nhất. Bất cứ ai chọn phác đồ Budwig nên sử dụng phác đồ Bill Henderson. Cuốn sách của ông có thể được mua tại www.beating-cancer-gently.com.
Xin lưu ý rằng nếu đang theo phác đồ Budwig, bạn không được dùng Protocel, vì nó hoạt động theo cách ngược lại. Ngoài ra, không dùng bất kỳ sản phẩm nào từ chuối Paw Paw hoặc mãng cầu xiêm vì các quả này làm giảm ATP và có thể bù trừ vào chế độ Budwig.
Cellect-Budwig
Đây là một trong những liệu pháp điều trị ung thư thay thế mạnh nhất, không độc hại, và có hiệu quả cao.
Cốt lõi của liệu pháp điều trị này là Cellect, đa khoáng chất, đa amino axit, thực phẩm bổ sung đa vitamin, cộng thêm một số sản phẩm chống ung thư. Cellect được tạo nên bởi nhà hóa sinh học tên là Fred Eichhorn, ông bị ung thư tuyến tụy “giai đoạn cuối” năm 1976. Hiện ông vẫn còn sống và là chủ tịch Quỹ Nghiên cứu Ung thư Quốc gia (www.ncrf.org).
Cellect cho thấy những kết quả tuyệt vời trong điều trị ung thư cấp. Mike Vrentas, thành viên hội đồng quản trị của Quỹ Nghiên cứu Ung thư độc lập, đã bổ sung thực đơn Budwig, Vitamin B17 (hạt mơ), và nước ép vào Cellect, biến nó thành một liệu pháp điều trị rất mạnh.
Bột Cellect
Như đã đề cập, sản phẩm chủ chốt của phác đồ này là một loại bột gọi là Cellect, nó đã cho thấy kết quả tuyệt vời với tất cả các loại ung thư. Bệnh nhân ung thư nên bắt đầu bằng cách nhanh chóng tăng lên đến 4 muỗng mỗi ngày. Tất nhiên, trẻ em dùng liều nhỏ hơn. Bệnh nhân cấp tính cần tăng lên từ 6 đến 8 muỗng mỗi ngày. Cellect đôi khi gây táo bón, thế nên hãy dùng 3 viên nang dầu gan cá tuyết cùng với Cellect mỗi lần uống. Vỏ hạt mã đề và nước ép rau củ tươi cũng giúp làm giảm táo bón.
Cellect có thể được mua tại www.cellect.org. Kích vào “products” sau đó chọn một loại bột hỗn hợp pha trộn. Tôi khuyên bạn nên trộn nó với nước ép nho tía. Người ta cũng bán các sản phẩm này dạng viên nang.
Chế độ ăn Budwig
Phần trước của cuốn sách đã nêu chi tiết về chế độ ăn Budwig, vì vậy tôi sẽ không dành nhiều thời gian để nhắc lại ở đây. Tuy nhiên, tôi xin nhấn mạnh rằng bạn không nên dùng Cellect và chế độ ăn Budwig liền nhau trong vòng 1,5 giờ. Ngoài ra, phải dùng dầu gan cá tuyết, Cellect và dầu hạt lanh với chế độ ăn Budwig.
Vitamin B17
Tôi sẽ nói kỹ hơn về vitamin B17 ở những trang sau nên tôi chỉ trình bày ngắn gọn ở đây. Vitamin này là độc chất có khả năng chọn lọc các tế bào ung thư, vì vậy hoàn toàn thích hợp với phác đồ này. Khuyến cáo bạn nên ăn hạt quả mơ hơn là dùng các dạng thuốc của vitamin này. Theo bác sĩ Krebs, bệnh nhân ung thư nên bắt đầu với một vài hạt mơ mỗi ngày và tăng dần lên đến khoảng 30 hạt mơ mỗi ngày, tốt nhất ăn khi đói và ăn rải ra trong ngày giữa các bữa ăn, ăn khoảng 10 hạt giữa bữa sáng và bữa trưa, sau đó thêm 10 hạt giữa bữa trưa và bữa tối, rồi 10 hạt nữa trước khi đi ngủ.
Nước ép rau củ hữu cơ
Cũng như với thực đơn Budwig và vitamin B17, tôi sẽ giải thích về nước ép tươi trong một phần khác của cuốn sách, vì vậy tôi sẽ không đi vào chi tiết quá nhiều ở đây. Chỉ cần nhớ rằng nước ép rau hữu cơ rất quan trọng vì hai lý do chính. Trước hết, các loại rau chứa rất nhiều các chất dinh dưỡng chống ung thư điển hình và là hóa chất có nguồn gốc thực vật. Ngoài ra, với việc lấp đầy dạ dày bằng nước ép rau hữu cơ và tươi, bạn sẽ không có nhiều khoảng trống cho thực phẩm độc hại mà nhiều người thích ăn, chẳng hạn như sô-đa, bánh rán và khoai tây chiên. Không cần thiết phải kiêng nước ép, bệnh nhân ung thư phải uống hằng ngày khoảng 30 gam nước ép rau tươi cho mỗi 1,8 kg trọng lượng cơ thể. Vì vậy, người nặng 90 kg cần có 1,4 kg mỗi ngày, người 70 kg cần 1,1 kg, v.v.. Khuyến cáo bạn chia nước ép thành nhiều lượng nhỏ và uống trải ra trong ngày, không uống toàn bộ nước ép một lần.
Ánh nắng mặt trời (Vitamin D)
Xem các chương sau để biết thêm thông tin về vitamin D. Khuyến cáo bạn cần 30 phút ánh nắng mặt trời mỗi ngày, nếu có thể. Không sử dụng kem chống nắng, vì nó lọc bỏ ánh sáng hữu ích và còn gây ung thư.
Làm sạch gan
Khi dùng phác đồ Cellect-Budwig, chắc chắn bệnh nhân ung thư cấp sẽ cần phải kích thích gan để làm sạch các độc tố thu được từ các bộ phận khác của cơ thể. Theo liệu pháp Gerson và điều trị của bác sĩ Kelley, thải độc cà phê được khuyến nghị, vì cà phê sẽ mở các ống dẫn mật ra và kích thích sản xuất mật trong gan. Vậy mỗi ngày nên thực hiện bao nhiêu lần? Có người cần vài lần, có người chỉ cần một lần mỗi ngày. Tất cả phụ thuộc vào tình trạng gan của bạn. Hầu hết chúng ta đều có gan bị quá tải với các độc tố, vì vậy rất có thể mỗi ngày bạn sẽ cần thải độc cà phê ba lần hoặc nhiều hơn.
Bạn tôi, Mike Vrentas, là nhà nghiên cứu liệu pháp điều trị ung thư thay thế đã phát triển phác đồ này. Trang web của ông là www.CellectBudwig.com. Nếu quyết định theo phương pháp này, bạn phải truy cập vào trang web của Mike và nghe tất cả các đĩa CD ông ấy giải thích về phương pháp này. Ông ấy cũng sẵn sàng tư vấn qua điện thoại.
DMSO / MSM / Cesium Chloride (DMCC)
Dimethyl sulfoxide (DMSO) là sản phẩm không độc hại, 100% nguồn gốc tự nhiên từ gỗ. Methyl sulfonyl methane (MSM) là DMSO gắn thêm một nguyên tử ô-xy vào nguyên tử lưu huỳnh và tạo thành một phân tử có hai nguyên tử ô-xy đính kèm. MSM có trong trái cây tươi, rau củ, sữa tươi, nước ép lúa mì non và cây nha đam.
Cả DMSO và MSM đều có đặc tính khá dễ hòa tan trong cả dầu và nước. Trong cuốn sách này, tôi sử dụng thuật ngữ “DMSO” để chỉ cả hai chất này vì theo nhà hóa sinh bác sĩ David Gregg thì, “Trong cơ thể, DMSO và MSM tạo nên lẫn nhau, nên về cơ bản không thể phân biệt các hiệu ứng sinh hóa của chúng.”
DMSO được giới thiệu vào năm 1960 như một tác nhân chữa bệnh bởi một nhóm nghiên cứu do bác sĩ Stanley W. Jacob đứng đầu tại Trường Y khoa của Đại học Oregon. Trong nghiên cứu đó, DMSO được trộn với haematoxylon (một loại phẩm nhuộm màu tía) và tiêm cho các bệnh nhân ung thư. Mục đích của nghiên cứu này là xác định những tế bào nào sẽ hút DMSO.
Họ nhận thấy DMSO thu hút các tế bào ung thư. Thực tế là một số bệnh nhân ung thư đã được chữa khỏi trong quá trình nghiên cứu này, mặc dù DMSO chỉ được kết hợp với phẩm nhuộm! Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng DMSO không chỉ hòa tan, mà còn có thể xuyên qua da người và mang theo các chất hòa tan với nó!
Nó hoạt động như thế nào? Theo bác sĩ David Gregg: “Trong cơ thể, DMSO hình thành trạng thái cân bằng với MSM (dạng ô-xy hóa của DMSO), và sự kết hợp đó trở thành hệ thống vận chuyển ô-xy, tăng cường chuyển hóa hiếu khí.”
Trong bốn thập kỷ qua, hơn 10.000 bài báo về những tác động sinh học của DMSO đã xuất hiện trong các tài liệu khoa học và 30.000 bài viết về tính chất hóa học của DMSO cũng đã được công bố. Kết quả của những nghiên cứu này củng cố mạnh mẽ cho quan điểm rằng DMSO là một nguyên lý trị liệu mới đáng chú ý. Trong cuốn Cancer & Natural Medicine (Ung thư & Y học tự nhiên), John Boik trích dẫn một số công bố về dung dịch DMSO đã làm cho nhiều loại ung thư phân hóa trong ống nghiệm (bên ngoài cơ thể sống), trở lại thành các tế bào bình thường qua việc tái lập chuyển hóa hiếu khí.
Khi quá trình chuyển hóa hiếu khí được tái lập, các tế bào ung thư trước đó sẽ bị loại bỏ thông qua quá trình chết tự nhiên ở tế bào. Hãy nhớ rằng, quá trình này được lập trình xảy ra ở hầu hết các tế bào bình thường trong một vài tuần. Tái lập chuyển hóa hiếu khí với DMSO tuy không hiệu chỉnh tổn thương gen, nhưng giữ các tế bào ung thư trong trạng thái bình thường đủ lâu cho quá trình tự nhiên kết hợp với các tế bào khỏe mạnh (ví dụ như quá trình chết tự nhiên ở tế bào) để tiêu diệt các tế bào ung thư. Hơi nghịch lý một chút, nhưng cách DMSO tiêu diệt tế bào ung thư là làm cho những tế bào đó khỏe mạnh.
Tất nhiên, không lạ gì khi công nghiệp ung thư sờ đến liệu pháp điều trị thay thế hiệu quả này. Theo Webster Kehr: “FDA ghi nhận hiệu quả của DMSO trong điều trị cơn đau, nhưng cấm sử dụng nó cho mục đích y tế để bảo vệ lợi nhuận của các công ty sản xuất aspirin (thời gian đó aspirin được sử dụng để điều trị viêm khớp). Vì vậy, ngày nay nó được bán dưới danh nghĩa một ‘dung môi’. Rất ít người hiểu được rằng các cơ quan chính phủ được thành lập chỉ với một mục đích duy nhất là trở thành ‘lực lượng cảnh sát’ của các tập đoàn tham nhũng lớn. Mua linh hồn các chính trị gia thật dễ dàng như cho em bé ăn kẹo.”
Dù DMSO được gọi là “phương pháp chữa trị tiên tiến gây tranh cãi nhất trong kỷ nguyên hiện đại”, nhưng những tranh cãi dường như vẫn dựa trên chính trị và tiền bạc hơn là khoa học. Thú thật, tôi mong chúng ta được sống trong một thế giới mà các bác sĩ điều trị cho bệnh nhân ung thư với liệu pháp điều trị thích hợp hơn là bệnh nhân tự điều trị ở nhà. Đáng tiếc, do ảnh hưởng của Big Pharma, các bác sĩ đang sử dụng những liệu pháp điều trị được lựa chọn chỉ dựa trên cơ sở lợi nhuận chứ không phải là hiệu quả của điều trị. Khi xem xét thực tế rằng DMSO không phải là thuốc có thể được cấp giấy phép độc quyền nhãn hiệu, lại còn rẻ, an toàn, hiệu quả, và dựa trên những gì bạn biết về Công nghiệp ung thư, thì một chiến dịch bôi nhọ chống lại DMSO chẳng có gì đáng ngạc nhiên?
Một trong những đặc tính quan trọng nhất của DMSO và MSM là cả hai đều hoạt động hiệu quả khi kết hợp các liệu pháp điều trị khác, chẳng hạn như cesium chloride là khoáng chất có tính kiềm cao nhất. Thực tế là những nơi trên thế giới có nồng độ cao các khoáng chất kiềm tính mạnh trong nước đều có tỷ lệ ung thư rất thấp. Người Hunzakut ở Bắc Pakistan có nước với hàm lượng cesium cao và không bao giờ mắc ung thư, trừ khi họ rời khỏi quê hương. Người Hunzakut cũng thường xuyên ăn hạt mơ (có chứa vitamin B17).
Khi cesium được vận chuyển vào trong tế bào, nó có thể làm tăng triệt để độ pH nội bào. Khi ở bên trong tế bào, cesium bắt đầu lôi kéo kali từ trong máu; theo đó ngăn chặn tế bào tiếp nhận glucose, ngừng quá trình lên men, và bỏ đói tế bào. Cesium cũng trung hòa axit lactic được sản xuất bởi hô hấp kị khí, theo đó ngăn chặn tế bào sinh sôi và ngừng “chu kỳ suy kiệt” ở cấp độ tế bào.
Có lẽ bác sĩ nổi tiếng nhất sử dụng cesium để điều trị ung thư là bác sĩ H. E. Sartori. Ông bắt đầu chương trình điều trị ung thư bằng cesium hồi tháng 4 năm 1981 tại Life Sciences Universal Medical Clinics ở Rockville, Maryland, nơi 50 bệnh nhân ung thư “giai đoạn cuối” được điều trị. Nói cách khác, ung thư đã di căn đến các cơ quan khác, và họ được trả về nhà chờ chết. Công nghiệp ung thư dán nhãn cho tình trạng của họ là “vô phương cứu chữa” và “giai đoạn cuối”. Trong số 50 bệnh nhân, 3 người hôn mê và 47 người đã hoàn thành liều lượng tối đa của Big 3 trước khi điều trị bằng cesium.
Bệnh nhân được cho dùng cesium chloride cùng với vitamin A, vitamin C, vitamin B17, kẽm và selenium. Chế độ ăn gồm chủ yếu các loại ngũ cốc, rau củ, và thực phẩm giàu chất béo omega-6. Để tăng hiệu quả điều trị, cải thiện lưu thông và ô-xy hóa, các bệnh nhân được truyền các tác nhân giải độc EDTA và DMSO. Nghiên cứu bao gồm mười bệnh nhân ung thư vú, chín bệnh nhân ung thư đại tràng, sáu bệnh nhân ung thư tiền liệt tuyến, bốn bệnh nhân ung thư tuyến tụy, sáu bệnh nhân ung thư phổi, ba bệnh nhân ung thư gan, ba bệnh nhân ung thư hệ bạch huyết, một bệnh nhân ung thư vùng chậu, và tám bệnh nhân ung thư không rõ vị trí gốc.
Kết quả thật kinh ngạc. Khoảng 50% bệnh nhân ung thư vú, đại tràng, tuyến tiền liệt, tuyến tụy và thư phổi sống thêm ít nhất ba năm, mặc dù các bác sĩ chính thống kết luận họ chỉ còn sống được một vài tuần! Mười ba bệnh nhân đã chết trong hai tuần điều trị đầu tiên. Kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy có giảm kích thước khối u do liệu pháp cesium. Thật ngạc nhiên, cơn đau biến mất ở tất cả các bệnh nhân trong vòng một đến ba ngày sau khi bắt đầu liệu pháp cesium.
Trước thực tế liệu pháp cesium chloride chỉ được sử dụng cho bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối, tỷ lệ chữa khỏi 50% của bác sĩ Sartori là đáng kinh ngạc. Lý do là bởi tất cả các bệnh nhân đã được các bác sĩ chính thống trao “án tử hình”. Họ bị gán cho là “vô phương cứu chữa” và trả về nhà chờ chết. Các cơ quan trong cơ thể của họ dường như đã bị tổn hại bởi chính các liệu pháp điều trị hóa trị độc hại và/hoặc xạ trị. Tuy nhiên, một nửa trong số họ đã được cứu! Điều này thực sự đáng kể. Hãy nhớ rằng, tỷ lệ chữa khỏi cho bệnh nhân ung thư cấp tương tự của y học chính thống là gần bằng 0%.
Tiến sĩ Keith Brewer (một nhà vật lý) đã rất quan tâm đến ung thư vào những năm 1930. Ông phát hiện ra rằng các tế bào ung thư ham thích cesium. Đây là lý do mà đồng vị phóng xạ cesium thường được sử dụng như một “marker” để theo dõi sự di chuyển của các loại thuốc hóa trị chính thống vào một khối u. Ông lập luận, đưa một lượng đáng kể cesium vào cơ thể, có thể khiến tế bào ung thư hấp thụ đủ cesium để thay đổi độ pH và phá vỡ sự chuyển hóa kị khí cũng như quá trình lên men mà nó cần để tồn tại.
Sau khi thử nghiệm trên diện rộng, Brewer xác định rõ cesium hoặc rubidium có thể nâng cao độ pH của các tế bào ung thư. Cuối cùng ông tập trung vào cesium bởi nó có tính kiềm hơn trong hai chất. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để đưa được đủ cesium vào trong tế bào ung thư để thay đổi độ pH của nó. Brewer đã xác định một số vitamin và khoáng chất (bao gồm cả vitamin B17) tăng cường đáng kể sức hấp thụ các phần tử này của tế bào ung thư. Bằng cách dùng các chất này kết hợp với cesium, mức độ hấp thụ cesium đủ để tiêu diệt các tế bào ung thư.
Dưới đây là phương thức: cesium tiến hành kiềm hóa các tế bào ung thư, theo đó làm chúng tái lập chuyển hóa hiếu khí và ngưng sao chép tế bào. Nó cũng gây ra quá trình chết tự nhiên ở tế bào diễn ra trong vòng một vài ngày. Năm 1981, xét nghiệm được thực hiện trên 30 bệnh nhân ung thư, và trong tất cả 30 bệnh nhân, các khối u ung thư đều đã biến mất và chấm dứt đau đớn trong vòng một vài ngày. Phác đồ này trở thành cơ sở cho “liệu pháp pH cao”.
Còn nhớ câu chuyện của Neal Deoul? Ông tài trợ nghiên cứu về cesium và cây nha đam để chiến đấu với ung thư và AIDS. Ông đã bị kiện và tên tuổi bị bôi tro trát chấu trong cuộc chiến pháp lý kéo dài được công nghiệp ung thư khởi xướng. Trong quá trình cuộc chiến ở tòa án, Deoul được chẩn đoán bị ung thư và bắt đầu liệu pháp pH cao, cuối cùng ông đã chữa khỏi ung thư. Tin tuyệt vời cho liệu pháp điều trị ung thư thay thế; tin tồi tệ cho công nghiệp ung thư. Kể từ khi cuộc chiến pháp lý bắt đầu vào cuối năm 1990, Neal và toàn bộ gia đình ông đã bị công nghiệp ung thư bức hại khủng khiếp.
DMSO gắn với cesium chloride để xâm nhập các tế bào ung thư. Tuy nhiên, tác dụng chính của DMSO là đưa cesium chloride xuyên qua da vào dòng máu. Phác đồ DMCC đặc biệt hiệu quả với các bệnh nhân ung thư não vì rất nhanh chóng đi qua hàng rào máu não, nhưng cũng có thể được sử dụng hiệu quả với bất kỳ loại ung thư nào.
Trong một nghiên cứu tình huống, một bệnh nhân ung thư não bị khối u trong não chèn ép lên một trong các dây thần kinh thị giác. Khi được cho hỗn hợp DMSO với cesium chloride, ông có thể cảm nhận thực sự được cesium tràn vào các tế bào ung thư của khối u chỉ trong vài phút, do khối u chèn ép dây thần kinh thị giác của ông.
Theo bác sĩ Robert R. Barefoot trong cuốn sách của ông The Calcium Factor: The Scientific Secret of Health and Youth (Nhân tố can-xi: Bí quyết khoa học của sức khỏe và tuổi trẻ), “Cesium cloride là muối tự nhiên, và ở đâu có nó, ở đó không có ung thư. Đó là vì cesium là khoáng chất ăn mòn mạnh nhất và khi xâm nhập cơ thể, nó nhắm tìm tất cả các điểm nóng ung thư có tính axít, dập tắt ngọn lửa ung thư, qua đó chấm dứt ung thư trong vài ngày. Ngoài ra, khi xoa dimethyl sulfoxide (DMSO) gần chỗ đau do ung thư, thì sẽ hết đau và DMSO làm cho cesium thâm nhập khối u ung thư nhanh hơn nhiều, do đó chấm dứt ung thư cũng nhanh hơn”. Tuy nhiên, điều này cũng có thể gây sưng quá mức, nên trong một số trường hợp tốt hơn là không xoa cesium trực tiếp lên các khối u.
Có nhiều giả thuyết về nguyên nhân và cơ chế ngăn chặn ung thư của phác đồ DMCC. Giải thích hợp lý nhất là phác đồ DMCC vận chuyển đủ ô-xy cho các tế bào, điều kiện thiếu ô-xy được đảo ngược và các tế bào tái lập chuyển hóa hiếu khí.
Theo bác sĩ David Gregg, “cơ chế diệt ung thư” của cesium là do những điểm dưới đây:
1. Nó thay đổi áp suất thẩm thấu trong tế bào ung thư có liên quan đến môi trường xung quanh, khiến chúng bị sưng lên và vỡ tung. Do đó, những khối u sưng phồng có thể nguy hiểm trong một số trường hợp.
2. Nó tạo ra thang độ nồng độ đối lập giữa cesium và kali, hãm lại quá trình hoạt động liên tục của bơm natri-kali, cũng như hệ thống đồng vận chuyển natri-glucose cung cấp glucose vào trong tế bào ung thư, do đó bỏ đói các tế bào ung thư.
3. Nó dẫn đến tích tụ các ion âm trong các tế bào ung thư, xóa bỏ chênh lệch điện tích trong màng tế bào, điều cần thiết để vận hành hệ thống đồng vận chuyển natri-glucose, do đó bỏ đói tế bào.
4. Nó phá vỡ vỏ bọc “đánh lừa” hệ miễn dịch của ung thư, do đó, tế bào ung thư dễ bị hệ miễn dịch phát hiện và tấn công/phá hủy.
Tôi cho rằng có khả năng cả bốn cơ chế do bác sĩ Gregg mô tả đều đóng vai trò tiêu diệt các tế bào ung thư. Trong mọi trường hợp, không quan tâm chính xác cơ chế nào tiêu diệt ung thư, thực tế là phác đồ DMCC tiêu diệt được các tế bào ung thư (trực tiếp hay gián tiếp), chấm dứt ung thư di căn, co lại các khối u trong vài tuần và giảm đau đớn trong vòng một vài ngày, tùy thuộc vào cái gì gây ra đau đớn. Tuy nhiên, xin hiểu rằng mọi mức độ sưng, viêm và/hoặc tắc nghẽn đều có thể rất nguy hiểm; do đó, phác đồ DMCC không được khuyến cáo cho tất cả mọi người.
Liệu pháp chuyển hóa/Enzyme
Cơ sở chính của liệu pháp chuyển hóa/enzyme cho bệnh ung thư xuất phát từ việc thừa nhận hầu như không thể phân biệt được các tế bào ung thư và các tế bào nhau thai trong thời kỳ mang thai. Lý thuyết này gọi là lý thuyết “dưỡng mạc”, được nhà phôi học Scotland, bác sĩ John Beard đề xuất vào khoảng năm 1900. Đầu tiên, ông quan sát thấy các tế bào nhau thai lan tỏa (dưỡng mạc) giống đến kinh ngạc với các tế bào ung thư, và các quan sát khác đã khiến ông tin rằng có một mối tương quan mật thiết giữa các dưỡng mạc và tế bào ung thư.
Trong giai đoạn đầu phát triển của thai nhi, dưỡng mạc nhau thai sản sinh ra một môi trường bảo vệ (nhau thai) và nguồn dinh dưỡng (dây rốn), cũng tương tự cách thức các tế bào ung thư hình thành một môi trường bảo vệ (khối u) và một nguồn dinh dưỡng (cung cấp máu mới). Quan sát khác cho thấy dưỡng mạc nhau thai dường như suy giảm hoạt động khoảng tuần thứ 8 của thai kỳ. Điều đó trở nên rõ ràng đối với Beard khi sự suy giảm này trùng hợp với việc hoàn thiện hệ tiêu hóa và sự kích hoạt tuyến tụy của thai nhi.
Nghiên cứu y học hiện đại cũng đã chứng minh rằng các tế bào dưỡng mạc tiết ra một loại hormone gọi là human chronic gonadotropin (hCG), và số lượng các hormone này tăng đến khoảng tuần thứ 8 rồi sau đó bắt đầu giảm. Chính loại hormone này bao phủ lên các tế bào dưỡng mạc và tế bào ung thư rồi làm cho chúng vô nhiễm với hệ miễn dịch. hCG đã được chứng minh là tồn tại trong tất cả các loại ung thư.
Ngoài tế bào dưỡng mạc và ung thư, không có tế bào nào khác ở người sản sinh ra hCG. Vậy, nếu làm một xét nghiệm nước tiểu hCG và có kết quả dương tính, hoặc bạn là phụ nữ đang mang thai hoặc bạn bị ung thư. Theo nghiên cứu của tôi, xét nghiệm nước tiểu Navarro là xét nghiệm hCG chính xác nhất.
Dưỡng mạc cũng được bao quanh bởi lớp phủ glycoprotein gồm một phân tử làm cho chúng tích điện âm. Lớp phủ này cùng loại với lớp phủ âm tính thấy ở quanh tế bào ung thư; và thực tế, đây là một trong những lý do chính để xếp loại tất cả các tế bào ung thư giống như tế bào dưỡng mạc. Ngoài ra, các bạch cầu (tế bào máu trắng) của hệ miễn dịch được tích điện âm; và như chúng ta đã biết, cùng dấu đẩy ra, trái dấu hút vào. Thực vậy, cả dưỡng mạc và tế bào ung thư trở nên vô nhiễm với cơ chế bảo vệ tự nhiên của hệ miễn dịch.
Hãy nhớ rằng dưỡng mạc nhau thai sản xuất hCG cho đến tuần thứ 8 của thai kỳ, rồi giảm từ từ. Đây là kết quả trực tiếp từ việc tuyến tụy của thai nhi bắt đầu sản xuất các enzyme! Và khi một số enzyme nhất định như trypsin, chymotrypsin (men tiêu hóa do tuyến tụy sản xuất ra) và amylase (men phân giải tinh bột) gặp tế bào dưỡng mạc, chúng có thể phá vỡ lớp phủ protein điện tích âm của nó. Do đó, “ốm nghén” thường bắt đầu vào khoảng tuần thứ 8 của thai kỳ – tụy của thai nhi vẫn chưa được phát triển đầy đủ và chưa sản xuất amylase, là chất chịu trách nhiệm cho tiêu hóa glycogen (thành phần “glyco” của lớp phủ glycoprotein). Do đó, các glycoprotein không được chia nhỏ thành các đơn vị nhỏ nhất, thận và tuyến tụy của người mẹ buộc phải bù đắp và trở nên quá tải. Kết quả là buồn nôn, đau lưng dưới, và kém sinh lực. Do đó, người mẹ mang thai có thể bổ sung chế độ ăn với amylase để giảm thiểu tình trạng ốm nghén.
Thú vị là một trong những loại ung thư hiếm gặp nhất là ung thư tá tràng, đó là khu vực của ruột và là nơi có enzyme tuyến tụy nhiều nhất. Lý do chúng ta tìm thấy các trường hợp ung thư tuyến tụy là do các enzyme chưa được “kích hoạt” trong ruột non. Vì vậy, ung thư tuyến tụy có tỷ lệ tử vong cao – tụy mất khả năng sản xuất các enzyme, nên không có cơ chế kiểm soát đối với ung thư!
Năm 1911, bác sĩ Beard đã công bố một bài báo có tên The Enzyme Therapy of Cancer (Liệu pháp enzyme cho ung thư), trong đó tóm tắt liệu pháp điều trị của ông và các bằng chứng hỗ trợ. Sau khi ông qua đời vào năm 1923, liệu pháp enzyme đã bị quên lãng, đặc biệt là sau khi Marie Curie đưa ra những công trình về phóng xạ. Người tiên phong trong việc phát triển liệu pháp chuyển hóa/enzyme là bác sĩ William Donald Kelley (bác sĩ chỉnh hình răng hàm mặt ở Texas). Khoảng năm 1960, ở tuổi 35, sức khỏe của ông bắt đầu xấu đi. Năm 1964, một loạt các kết quả X-quang cho thấy dấu hiệu của ung thư tuyến tụy cấp, gồm cả tổn thương ở phổi, hông và gan. Bác sĩ phẫu thuật cho biết Kelley quá yếu để mổ và nói với bà Kelley (vợ ông và là mẹ của bốn đứa con ông) rằng ông chỉ sống thêm 4 đến 8 tuần nữa. Kelley đã chấp nhận buông xuôi, nhưng mẹ ông thì không! Bà vứt hết các đồ ăn nhanh, thịt và bắt ông chỉ được ăn hoa quả tươi sống, rau củ, các loại hạt. Sau vài tháng, Kelley bắt đầu cảm thấy khá hơn, thậm chí còn có thể trở lại làm việc.
Tuy nhiên, sau 6 hoặc 7 tháng, tiến triển chấm dứt và lại phát triển các vấn đề về tiêu hóa trầm trọng, có khả năng là do ung thư cấp. Thế là ông bắt đầu dùng các enzyme tụy để hỗ trợ tiêu hoá, và cuối cùng ông tăng liều tới 50 viên nang enzyme mỗi ngày. Đúng vào thời điểm này, ông phát hiện ra công trình của bác sĩ John Beard liên quan đến mối quan hệ của các enzyme tụy với ung thư. Ông cũng tình cờ đọc các bài viết của bác sĩ Edward Howell, người sớm ủng hộ chế độ ăn thực vật. Đúng lúc đó, Kelley hoàn toàn thoát khỏi ung thư. Trước thực tế công nghiệp ung thư luôn coi ung thư tuyến tụy là vô phương cứu chữa, điều này quả nhiên cực kỳ ấn tượng!
Kelley đưa ra giả thuyết ung thư hình thành là do dư thừa hormone nữ, đó là nguyên nhân làm thay đổi tế bào gốc thành tế bào dưỡng mạc. Nghĩa là ung thư là sự tăng trưởng của mô bình thường, nhưng sai địa điểm và thời gian. Ông tin rằng ung thư phát triển do thiếu các enzyme tuyến tụy để tiêu hóa các tế bào ung thư. Sau cùng, Kelley đã tiếp tục chữa trị cho hơn 33 nghìn bệnh nhân ung thư. Bác sĩ Kelly có tỷ lệ chữa khỏi đến 93% ở những bệnh nhân còn sống ít nhất 18 tháng sau khi bắt đầu điều trị với ông. Nói cách khác, những người chưa “sức cùng lực kiệt” thường thành công với phác đồ điều trị của ông, vì đây không hẳn là một liệu pháp điều trị có tác dụng nhanh chóng.
Tất nhiên, phác đồ điều trị của ông được xây dựng dựa trên enzyme tụy. Ông cũng hướng dẫn bệnh nhân không dùng sữa tươi tiệt trùng, đậu phộng, bột mì trắng, đường và tất cả các loại thực phẩm chế biến. Bác sĩ Kelley đã phát triển một tập hợp hơn 50 công thức dinh dưỡng cho các loại ung thư khác nhau và lên kế hoạch cho từng bệnh nhân tùy theo cơ chế chuyển hóa của mỗi người. Chế độ ăn hạn chế protein điển hình của Kelley là 70% đến 80% đồ thô và tập trung vào ngũ cốc nguyên cám, trái cây, rau củ, nước ép trái cây tươi, giá mầm và các enzyme tuyến tụy. Thải độc cà phê để giúp cơ thể loại bỏ các độc tố tiết ra từ các khối u khi chúng phân hủy.
Với sự ngạo mạn kém hiểu biết và tham lam tàn nhẫn, mafia y tế không thích thú gì khi bác sĩ Kelley chữa trị ung thư bằng enzyme rẻ tiền! Vì vậy, họ gửi đến bác sĩ thực tập trẻ Nicholas Gonzalez để điều tra những phát biểu của Kelly và hạ uy tín của ông. Bác sĩ Gonzalez đến Dallas vào năm 1981 để phỏng vấn và điều tra bác sĩ Kelley. Anh rất ngạc nhiên khi thấy hết trường hợp này đến trường hợp khác, các bệnh nhân ung thư cấp đều khỏe mạnh và lanh lợi từ 10 đến 15 năm sau khi được chẩn đoán ung thư. Kelley hoàn thiện tất cả hồ sơ (hơn 10.000 bệnh nhân) và khuyến khích Gonzales liên hệ với bất kỳ ai trong số họ. Cuối cùng, mẫu nghiên cứu thu hẹp còn 50 trường hợp đại diện cho 25 loại ung thư khác nhau. Tất cả 50 bệnh nhân được chẩn đoán ban đầu là ung thư cấp. Thời gian sống trung bình của nhóm này là 10 năm!
Dường như không thể tin nổi những kết quả này, bác sĩ Gonzalez quyết định tiến xa thêm một bước. Anh tập trung vào ung thư tuyến tụy, vì tỷ lệ sống sót sau 5 năm với liệu pháp điều trị chính thống gần như là 0%. Anh tìm thấy 22 bệnh nhân ung thư tuyến tụy đã được bác sĩ Kelley điều trị trong khoảng 1974 và 1982.
Hai mươi hai bệnh nhân này rơi vào ba loại:
1. Mười bệnh nhân đã tham vấn với Kelley chỉ một lần và không bao giờ dùng phác đồ của ông – Tất cả đã chết.
2. Bảy bệnh nhân chỉ dùng một phần phác đồ và không thường xuyên (xác định qua các cuộc phỏng vấn các thành viên trong gia đình, bác sĩ, và hồ sơ) – Tất cả đã chết.
3. Tuy nhiên, năm bệnh nhân theo phác đồ đầy đủ – Tất cả đều thuyên giảm dài hạn (mặc dù có một người chết do bệnh Alzheimer sau 11,5 năm sống). Tỷ lệ sống trung bình của năm bệnh nhân ung thư tuyến tụy này là 9 năm!
Tất nhiên, như các nhà y tế hành nghề tự do khác, bác sĩ Kelley cũng phải chịu bức hại từ mafia y tế và những kẻ ngáng đường. Ông bị ban hành lệnh cấm điều trị bất cứ thứ gì kể cả răng miệng. Khi vi phạm lệnh này, ông đã bị tống giam. Tòa án Texas cũng cáo buộc ông phân phối bất hợp pháp tập sách tự xuất bản của mình, có tựa đề One Answer To Cancer (Một giải pháp cho ung thư). Điều này khiến bác sĩ Kelley là bác sĩ đầu tiên (và duy nhất) bị cấm xuất bản theo quyết định của tòa án!
Mặc dù ông đã yêu cầu phúc thẩm lên Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, cho rằng quyền của ông đã bị vi phạm trắng trợn, nhưng phán quyết không thay đổi. Cuối cùng, ông phải chuyển phòng khám đến Mexico. Chẳng ngạc nhiên, phác đồ liệu pháp chuyển hóa/enzyme của ông bị Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ liệt vào danh sách đen “liệu pháp chưa được kiểm chứng” vào năm 1971 và vẫn duy trì đến ngày nay. Bác sĩ Kelley mất năm 2005, trước khi qua đời, ông đã viết một cuốn sách nhan đề Cancer: Curing the Incurable Without Surgery, Chemotherapy or Radiation (Ung thư: Chữa bệnh nan y không phẫu thuật, hóa trị hoặc xạ trị). Cuốn sách này thậm chí còn hay hơn cuốn đầu tiên của ông và có trên Amazon.com. Công trình của ông hiện được bác sĩ Nicholas Gonzalez tiếp tục, ông điều hành một bệnh viện ở New York. Trang web của ông là www.dr-gonzalez.com. Cá nhân tôi quen biết bác sĩ Gonzalez và rất muốn giới thiệu phòng khám của ông.
Trà Essiac
Bà tôi, Helen Cade, tất cả chúng tôi trìu mến gọi bà là Mama Helen, được chẩn đoán bị ung thư giai đoạn cuối vào năm 1988. Tôi không chắc bà tìm hiểu ở đâu, nhưng gần như ngay lập tức, bà bắt đầu pha trà Essiac. Tôi nhớ những lần đến nhà bà ở San Antonio và giúp bà pha trà, đổ đầy những chai nước màu hổ phách và bỏ vào tủ lạnh. Bà uống đều đặn. Dù sao, Mama Helen sống thêm 10 năm nữa với ung thư giai đoạn cuối, theo tôi, chủ yếu là nhờ kết quả của việc dùng trà Essiac. Tôi không biết nguyên do, nhưng bà đã ngừng uống trà khoảng hai năm trước khi qua đời.
Trở lại năm 1922, một y tá người Canada tên là Rene Caisse nhận thấy một số vết sẹo trên ngực của một phụ nữ lớn tuổi. Người phụ nữ nói với y tá rằng mấy năm trước các bác sĩ đã chẩn đoán bà bị ung thư vú. Tuy nhiên, người phụ nữ không muốn mạo hiểm phẫu thuật, và cũng không có tiền chi trả. May mắn thay, bà gặp được một thầy thuốc già Ấn Độ nói với bà rằng có thể chữa khỏi bệnh ung thư cho bà bằng trà thảo dược. Người phụ nữ kể với Caisse về các thành phần trong trà. Khoảng một năm sau, Caisse đang tản bộ cùng một vị bác sĩ đã về hưu, ông chỉ một loài cỏ dại phổ biến và nói: “Y tá Caisse, nếu mọi người sử dụng thứ cỏ dại này, sẽ rất ít hoặc không có bệnh ung thư trên thế giới”. Thứ “cỏ dại” này (cây me chua) là một trong các thảo dược trong công thức của vị thầy thuốc đó. Bác sĩ đã theo dõi con ngựa của ông tự chữa ung thư bằng cách liên tục chăn thả ở một khu riêng biệt của đồng cỏ nơi mọc cây me chua.
Năm 1924, Caisse muốn thử nghiệm trà với người dì được chẩn đoán mắc ung thư dạ dày giai đoạn cuối có tiên lượng sống không quá sáu tháng. Caisse xin phép bác sĩ R.O. Fisher thử trà với dì bà và ông đồng ý. Dì bà uống trà thảo dược hằng ngày trong hai tháng và đã phục hồi. Thật ngạc nhiên, dì bà sống thêm 20 năm nữa! Caisse cũng đã thử nghiệm trà cho mẹ bà được chẩn đoán mắc bệnh ung thư gan giai đoạn cuối với tiên lượng sống không quá hai tháng. Đáng ngạc nhiên là mẹ bà sống thêm 18 năm nữa!
Bác sĩ Fisher và y tá Caisse ngay lập tức bắt đầu điều trị bệnh nhân ung thư bằng thứ trà thần diệu ấy, sau này được bà đặt tên là “Essiac”, đảo ngược từ “Caisse”. Bà chữa khỏi cho hàng ngàn bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối bằng trà Essiac trong khoảng giữa những năm 1920 đến cuối những năm 1930. Lúc cao điểm, Caisse thăm khám đến 600 bệnh nhân một tuần. Đa số những người bà điều trị khi đến đều có thư của các bác sĩ xác nhận họ bị ung thư nan y hoặc giai đoạn cuối và y học chính thống không thể chữa được. Thông thường, y tá Caisse cho bệnh nhân điều trị Essiac miễn phí.
Sau khi tin đồn về kết quả ấn tượng của bà lan sang Hoa Kỳ, một thầy thuốc chẩn đoán hàng đầu tại Chicago giới thiệu Caisse với bác sĩ John Wolfer, trưởng khoa ung thư tại Trường Đại học Y khoa Northwestern. Năm 1937, Wolfer sắp xếp cho Caisse điều trị 30 bệnh nhân ung giai đoạn cuối theo chỉ đạo của năm bác sĩ. Bà đi lại từ Canada qua biên giới tới Chicago, mang theo những chai nước thảo dược mới chuẩn bị. Sau 18 tháng giám sát điều trị liệu pháp Essiac, các bác sĩ Chicago kết luận hỗn hợp thảo dược “kéo dài cuộc sống, co rút khối u, và giảm bớt đau”. Vì liệu pháp điều trị miễn phí của bà rất hiệu quả, vào năm 1938, những người ủng hộ bà đã thu thập được 55.000 chữ ký cho một kiến nghị trình lên cơ quan lập pháp Ontario để trà Essiac trở thành liệu pháp điều trị ung thư chính thức. Bà đã thất bại vì thiếu ba phiếu.
Caisse đã không nhận thức được ảnh hưởng rộng lớn của Big Pharma và Big Medicine, những kẻ đã (và vẫn đang) quan tâm đến kiếm tiền hơn là giúp đỡ mọi người. Essiac rẻ và không độc hại. Nó có thể ảnh hưởng đến lợi nhuận béo bở khổng lồ tạo ra từ Big 3. Caisse liên tục chơi trò mèo vờn chuột với các quan chức y tế liên bang Canada. Họ đòi hỏi các xét nghiệm lâm sàng, nhưng bà kiên quyết từ chối tiết lộ công thức, trừ khi nhận được bảo đảm chính thức rằng Essiac sẽ không bị tước khỏi những người cần đến, vì lòng trung thành của bà dành cho những người cậy nhờ mình. Các nhà chức trách không đưa ra được sự đảm bảo đó; vì vậy, bà không bao giờ tiết lộ công thức.
Ngay cả trung tâm nghiên cứu ung thư lớn nhất thế giới, Trung tâm Ung thư Tưởng nhớ Sloan-Kettering ở New York, cũng không thể thuyết phục Caisse tiết lộ công thức. Một đoàn các bác sĩ đến thăm bà tại Canada, xem xét hồ sơ các ca bệnh và nói chuyện với bệnh nhân, gây sức ép buộc bà bán công thức cho họ. Bà được đề nghị những khoản tiền lớn để thương mại hóa Essiac nhưng lại từ chối tất cả ngoại trừ các thanh toán tối thiểu cho dịch vụ của mình. Không hề ngạc nhiên, Caisse bị bức hại nặng nề và liên tục bị đe dọa bắt giữ. Cuối cùng, do sợ bị truy tố, bà đóng cửa phòng khám năm 1942 và sống ẩn dật.
Rene Caisse mất năm 1978, ở tuổi 90. Trước khi mất, bà đã ký chuyển quyền sử dụng công thức Essiac cho hai nơi: Công ty Cổ phần Resperin ở Toronto, để thử nghiệm, sản xuất và phân phối, và người bạn thân lâu năm là bác sĩ Charles Brusch ở Cambridge, Massachusetts, giám đốc Phòng khám Brusch và bác sĩ riêng của cựu Tổng thống John F. Kennedy. Bác sĩ Brusch bị ung thư ruột già và khỏi hoàn toàn sau khi điều trị Essiac. Brusch đã có lần nói: “Tôi biết Essiac có tiềm năng. Nó có thể giảm nhẹ, kiểm soát và chữa khỏi bệnh.”
Rene Caisse chưa bao giờ công bố công thức của bà. Người duy nhất bà tin cậy để hỗ trợ làm Essiac là người bạn tốt nhất của bà, Mary McPherson, người thuộc lòng công thức. Bất cứ ai truy cập Internet cũng có thể kiểm tra công thức Essiac mà Caisse giao cho Mary McPherson. Chỉ cần truy cập “The Rene M. Caisse Memorial Room” tại www.octagonalhouse.com và chọn “Essiac”.
Bạn sẽ thấy công thức sau:
» 6 ½ cốc rễ cây ngưu bàng (thái thành miếng)
° Trong nhiều thế kỷ, rễ cây ngưu bàng đã được coi như một máy lọc máu hiệu quả làm trung hòa và loại bỏ chất độc ra khỏi cơ thể. Các nghiên cứu đã cho thấy hoạt tính chống khối u trong cây ngưu bàng. Các nhà khoa học Nhật Bản đã cô lập thuộc tính chống đột biến trong cây ngưu bàng, mà họ gọi là “yếu tố B”. Một thông báo nội bộ của WHO tiết lộ cây ngưu bàng có tác dụng chống HIV.
» 450 gam lá cây me chua (cả rễ)
° Caisse tách lá cây me chua làm thảo dược chính của Essiac, nó hòa tan các khối u ung thư. Lá cây me chua chứa aloe emodin, một chất tự nhiên có hoạt tính quan trọng chống bệnh bạch cầu. Ngoài ra, nó còn chứa chất chống ô-xy hóa, là thuốc lợi tiểu. Nhớ lấy cả rễ cây me chua, chúng tốt và rất cần thiết.
» 1/4 cốc bột vỏ cây du trơn
° Cây du trơn nổi tiếng với đặc tính làm dịu. Nó giảm viêm như viêm họng, tiêu chảy, và các vấn đề về tiết niệu. Nó chứa beta-sitosterol có hoạt tính chống ung thư.
» 28,35 gam bột rễ đại hoàng thổ
° Đại hoàng thổ đã được chứng minh là có hoạt tính chống khối u. Nó là thuốc lợi tiểu, chống viêm, và kháng khuẩn.
Cách chuẩn bị trà Essiac cũng vô cùng quan trọng. Essiac là trà sắc, không phải trà pha nhúng. Pha nhúng là thả túi trà vào một cốc nước nóng. Nói chung, pha nhúng thường trích xuất các vitamin và các loại dầu dễ bay hơi. Sắc được sử dụng để trích xuất các khoáng chất từ rễ, vỏ cây hoặc hạt bằng cách đun sôi trong vài phút và sau đó ngâm cho thảo mộc tiết ra trong vài giờ. Các doanh nghiệp thường bán hàng giả Essiac ở dạng rượu ngâm (thảo dược trong rượu) hoặc viên nang gelatin; đó đều không phải là Essiac vì Essiac là trà sắc.
1. Sử dụng một ấm thép không gỉ, đậy chặt nắp và đun sôi ½ cốc hỗn hợp thảo mộc với 3,78 lít nước tinh khiết không bị clo hóa trong 10 phút.
2. Tắt lửa, ngâm cho thảo dược tiết ra trong 12 giờ.
3. Gia nhiệt để trà bốc hơi, nhưng không sôi. Để dược thảo nguội đi trong một vài phút.
4. Chắt trà nóng vào bình chứa vô trùng. Bã có thể sử dụng làm thuốc đắp chữa bệnh.
5. Cho trà vào tủ lạnh. Để trữ dùng lâu dài, sử dụng phương pháp đóng hộp rồi đun sôi cả hộp và cất giữ ở nơi tối, mát mẻ, khô ráo.
Để phòng ngừa, uống 30 đến 60 gam mỗi ngày pha loãng với ½ cốc nước nóng. Phải uống thật nhiều nước (ít nhất là hai lít) mỗi ngày để giúp đẩy sạch độc tố ra khỏi cơ thể bạn. Nếu bị ung thư, bạn nên dùng Essiac 3 lần mỗi ngày. Không ăn hoặc uống bất cứ thứ gì (trừ nước) một tiếng trước và sau khi uống. Trà Essiac tương thích với các liệu pháp điều trị ung thư thay thế khác, ngoại trừ Cancell. Không dùng ProtocelTM với trà Essiac, vì chúng thường trung hòa lẫn nhau.
Thông tin đáng tin cậy nhất trên Internet về trà Essiac có thể tìm thấy tại www.healthfreedom.info/Cancer Essiac.htm. Tôi khuyên bạn vào phần Những câu hỏi thường gặp. Có lẽ cuốn sách hay nhất viết về chủ đề này là The Essiac Book (Sách Essiac) và có thể tìm thấy tại www.ReneCaisseTea.com. Nếu có ý định sử dụng liệu pháp điều trị này, bạn thực sự nên mua sách.
Máy phát tần số
Phần lớn mục này trích dẫn (được phép) từ trang www.cancertutor.com của Kehr, do đó đa phần diễn giải và giả thuyết liên quan đến lý thuyết vi sinh của ung thư. Thuật ngữ “điện y” có nghĩa rất đặc thù trong điều trị ung thư thay thế. Tức là cường độ dòng điện ampe rất thấp hoặc sóng điện từ đi khắp cơ thể. Có rất nhiều loại thiết bị “điện y”. “Máy phát tần số” là các thiết bị điện y có thể tạo ra một số lượng lớn các dòng điện khác nhau trong cơ thể và có khả năng làm cho tế bào ung thư trở lại thành tế bào bình thường.
Ung thư là do sự mất cân bằng giữa hệ miễn dịch và số lượng các tế bào ung thư hình thành. Chúng ta đều có tế bào ung thư, nhưng khi hệ miễn dịch suy yếu, các tế bào ung thư có thể áp đảo hệ miễn dịch và người đó được cho là “bị ung thư”. Tuy nhiên, dù sự cân bằng giữa hệ miễn dịch và số lượng các tế bào ung thư hình thành có thể gây ra ung thư, nhưng sự mất cân bằng này không điển hình cho những gì làm cho một tế bào bình thường trở thành ung thư! Nhiều nhà nghiên cứu tin rằng một tế bào bình thường sẽ trở thành ung thư khi vi khuẩn đa hình “có thành tế bào suy giảm” thâm nhập được vào trong tế bào.
Vi khuẩn này sẽ ngăn chặn hình thành các phân tử ATP. Tế bào trở lại quá trình lên men để tạo ra các phân tử ATP, và khi đó tế bào được định nghĩa là “ung thư”. Lưu ý rằng sự tổn hại ADN không làm cho một tế bào trở thành ung thư, đúng hơn, sự tổn hại ADN là kết quả của sự tương tác giữa ADN của vi khuẩn với ADN của tế bào. Nghĩa là nếu bạn có thể tiêu diệt các vi sinh bên trong tế bào ung thư, tế bào có thể khôi phục lại sự chuyển hóa bình thường và trở thành tế bào bình thường. Thực ra, đây là cách lý tưởng để chữa ung thư bởi không có các tế bào ung thư chết và thực tế là chẳng có tế bào ung thư nào cả (vì các tế bào ung thư đã chuyển thành các tế bào bình thường).
Bác sĩ Royal Raymond Rife, nhà vi sinh học đã làm nhiều nghiên cứu trong những năm 1930, hiểu rõ tất cả những điều này. Với sự hiểu biết ấy ông đã thiết kế một máy phát tần số (gọi là “Máy Rife”) rung lắc các vi khuẩn (bên trong các tế bào ung thư) đến chết. Máy phát tần số có mặt từ những năm 1930, thế hệ mới của máy phát tần số nay đã được phát triển phù hợp và vượt trội hơn thiết kế ban đầu của bác sĩ Rife.
Điều trị ung thư là một cuộc đua. Đó là cuộc đua giữa các tế bào ung thư phá hủy các tế bào bình thường so với việc loại bỏ tế bào ung thư một cách nhanh chóng để bảo vệ các tế bào bình thường. Loại bỏ các tế bào ung thư càng nhanh thì tỷ lệ sống sót càng cao. Để hiểu được tầm quan trọng của máy điện y, giả sử bạn đang ở chiến trường và trong một cuộc đấu súng với kẻ thù. Dù hỏa lực chính của bạn là súng máy, xe tăng, nhưng tôi đảm bảo bạn sẽ rất vui lòng khi nghe tiếng gầm rú của máy bay đồng minh trên không. Tương tự, khi máy phát tần số được sử dụng phụ trợ điều trị ung thư, liệu pháp điều trị ung thư chính có thể ví như súng và xe tăng của bạn. Tiếng gầm rú của động cơ phản lực là các hoạt động thầm lặng của máy phát tần số.
Thật không may, bạn sẽ không tìm thấy bất kỳ nhà sản xuất máy phát tần số hay nhà cung cấp dịch vụ nào quảng cáo sản phẩm của họ điều trị bệnh (kể cả ung thư), hay sử dụng thuật ngữ “điện y” trong tài liệu, hay trả lời các câu hỏi về cách sử dụng thiết bị của họ để điều trị bất kỳ bệnh nào! Điều này là do mối lo khủng bố từ FDA và mafia y tế.
Việc các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ không được phép làm các công bố y tế về thiết bị của mình (dù là chính xác và đầy đủ tài liệu) là bằng chứng FDA và FTC đã đạt được mục đích trong việc loại bỏ thông tin thực ra khỏi các sản phẩm. Nói cách khác, thông tin thực về sản phẩm và bản thân sản phẩm không được phép kết hợp trên cùng một trang web hoặc tài liệu tiếp thị hay thậm chí trong việc bán hàng! Theo tôi, điều này là hoàn toàn vô lý. Nhưng điều này là lý do bạn sẽ không bao giờ thấy bất kì thông tin như thế này được hiển thị trên trang web của nhà sản xuất hoặc trang web của nhà cung cấp dịch vụ.
Khi sử dụng máy phát tần số hợp lý thì việc điều trị ung thư là cực kỳ hiệu quả.
Dù mọi bệnh nhân ung thư đều có thể hưởng lợi từ máy phát tần số, nhưng máy phát tần số đóng vai trò quan trọng nhất trong bảy trường hợp sau:
1. Bệnh nhân không thể tiêu hóa thức ăn
2. Bệnh nhân không thể hấp thụ các chất dinh dưỡng từ thức ăn (thường do hóa trị)
3. Bệnh nhân có ung thư phát triển quá nhanh
4. Ung thư đã di căn khắp cơ thể
5. Bệnh nhân có ung thư trong xương hoặc tủy xương
6. Loại ung thư liên quan đến nhiễm trùng nặng
7. Bệnh nhân suy kiệt đáng kể
Đây là những trường hợp mà chế độ ăn uống và thực phẩm bổ sung có thể không đủ để đối phó với ung thư. Điều máy điện y cung cấp cho bệnh nhân trong các trường hợp này là nguồn bên ngoài để loại bỏ một cách an toàn các tế bào ung thư mà không gây ra bất kỳ sưng tấy hoặc viêm nào. Các máy phát tần số cũng rất hữu ích cho những bệnh nhân mới được chẩn đoán và có thể là thiết bị cần thiết duy nhất đối với các bệnh nhân ung thư mới được chẩn đoán.
Xin lưu ý do các phác đồ điện y chỉ tập trung loại bỏ nhanh chóng các tế bào ung thư chứ không xây dựng lại hệ miễn dịch bằng dinh dưỡng, nên bệnh nhân ung thư cần sử dụng một phác đồ điện y kết hợp với một chế độ dinh dưỡng. Đối với những bệnh nhân đã làm rất nhiều hóa trị, không chỉ nên sử dụng một phác đồ điện y, mà còn phải sử dụng thêm một số thực phẩm bổ sung.
Có một quy tắc cốt lõi khi phối hợp dùng điện y với các liệu pháp điều trị thay thế khác hoặc với thuốc kê đơn. Đó là không sử dụng điện y và liệu pháp điều trị ung thư khác hoặc thuốc kê đơn cùng một lúc. Cụ thể là bắt đầu 120 phút trước khi làm điện y đến 60 phút sau khi hoàn tất điện y (quy tắc 120/60), bệnh nhân không được sử dụng bất cứ điều trị ung thư hoặc thuốc nào khác.
Nguyên nhân của quy tắc này là do hiện tượng điện di, trong đó dòng điện sẽ “mở” các tế bào tiếp xúc với nó, như vậy hầu như bất cứ thứ gì trong máu đều có thể thâm nhập được vào bên trong tế bào. Hiện tượng điện di về cơ bản sẽ mở cửa tế bào cho bất cứ cái gì đi qua. Hiện tượng điện di có thể tốt hoặc xấu, tùy thuộc vào chất gì có trong máu bạn.
Ví dụ, vì hiện tượng điện di “mở” tất cả các tế bào trong một khu vực của cơ thể (không chỉ các tế bào ung thư), nên không được sử dụng máy phát tần số trong vòng bốn ngày sau hóa trị, vì có nhiều tế bào không ung thư sẽ bị tiêu diệt. Lý do là: phải mất 35 giờ để hóa trị liệu làm việc với cơ thể (chừng một ngày rưỡi), và một ngày nữa để làm tổn hại tế bào khi hóa trị tác động lên cơ thể. Sau đó phải mất hai tuần để cơ thể phục hồi từ những tổn hại lên cấu trúc tế bào và hệ miễn dịch (thực sự là cơ thể không bao giờ hồi phục hoàn toàn sau hóa trị). Không nhất thiết phải chờ đợi hai tuần, nhưng tốt nhất là bắt đầu liệu pháp máy phát tần số sau khi truyền hóa chất bốn ngày. Nếu bệnh nhân uống hóa chất hàng tuần, thì nghỉ một hoặc hai ngày, rồi sau đó dùng máy tần số. Ngoài ra, do hóa trị thực sự phá hủy hệ miễn dịch, nên khả năng nhiễm trùng rất cao. Việc theo dõi bệnh nhân cẩn thận là cực kỳ quan trọng để sớm phát hiện các dấu hiệu của nhiễm trùng.
Hiện tượng điện di có thể là xấu, cũng có thể là tốt. Một ví dụ là máy điện y có tiềm năng giúp bệnh nhân ung thư cấp bị suy kiệt. Do các tế bào ung thư “đánh cắp” chất dinh dưỡng và glucose từ các tế bào không ung thư (và các axit lactic tạo ra bởi các tế bào ung thư cũng có thể ngăn chặn các chất dinh dưỡng đến được với các tế bào không ung thư), nên các tế bào không ung thư thường rất, rất yếu. Máy điện y cũng có tiềm năng tạo ra hiện tượng điện di đảo ngược có thể mở tất cả các tế bào (không chỉ tế bào ung thư) trong một khu vực của cơ thể. Nếu cơ thể sau đó được cấp đầy chất siêu dinh dưỡng (như nho Brandt/Kehr với Cellect và keo bạc trộn lẫn), các tế bào khỏe mạnh sẽ có thể được bổ sung thêm chất siêu dinh dưỡng mà thông thường bị các tế bào ung thư “đánh cắp”. Đồng thời các tế bào ung thư cũng được bổ sung thêm Cellect, resveratrol, axit ellagic, lycopene, selenium, catechin, quercetin, axit gallic, vitamin B17, và keo bạc, tất cả đều sẽ tiêu diệt các vi sinh bên trong tế bào.
Do đó, trong quá trình điều trị điện y bệnh nhân được phép dùng keo bạc tinh khiết (như MesoSilver®) và/hoặc nước ép nho nguyên chất. Bệnh nhân nên trộn keo bạc và nước nho keo với nhau. Lý do được phép dùng keo bạc và nước ép nho là vì chúng tốt cho tế bào không ung thư và gây bất lợi cho các vi sinh vật bên trong tế bào ung thư.
Nếu cần hỗ trợ cho việc sử dụng phác đồ máy phát tần số, tôi khuyên bạn nên truy cập trang web của Quỹ Nghiên cứu Ung thư Độc lập (Independent Cancer Research Foundation ‒ www.new-cancer-treatments.org). Các thành viên hội đồng của ICRF có kinh nghiệm về các máy phát tần số và sẽ là nguồn tham khảo giá trị nếu bạn theo đuổi hướng điều trị này. Họ xác thực máy tần số GB- 4000 vì hai lý do. Thứ nhất, nó được thiết kế đặc biệt để đáp ứng được hoặc hơn các thông số kỹ thuật của máy Rife gốc. Thứ hai, phác đồ chính xác từng bước đã được phổ biến rộng rãi để sử dụng GB-4000 điều trị ung thư. Để biết thêm thông tin về các máy GB-4000 và giao thức, vui lòng truy cập trang web sau đây: www.cancertutor.com/Cancer03/Spec01_GB4000.pdf.
Liệu pháp Gerson
Liệu pháp Gerson là liệu pháp chuyển hóa trong đó sử dụng một chế độ ăn uống đặc biệt, cùng với các thực phẩm bổ sung và thải độc cà phê. Không nghi ngờ gì, đây là phương pháp cơ bản nhất, được nhiều người công nhận nhất, hoàn chỉnh nhất, và điều trị ung thư hiệu quả nhất hiện nay. Nó cũng rất nghiêm ngặt và đòi hỏi bệnh nhân tuân theo một phác đồ rất khắt khe để thành công.
Bác sĩ Max Gerson là bác sĩ tị nạn người Đức đến New York và rao giảng phúc âm về thực phẩm hữu cơ tinh khiết và nuôi trồng. Trước khi di cư sang Mỹ, khi là bác sỹ nội trú ở Đức, Gerson đã có thể chữa trị chứng đau nửa đầu của mình qua việc thay đổi chế độ ăn. Gerson thận trọng đưa vào rất nhiều các thức ăn chủ yếu của các sinh viên y khoa Đức trẻ (món cá kem, xúc xích cay, rượu, muối, và thịt mỡ). Sau này, khi khám chữa tư nhân, ông bắt đầu quy định chế độ ăn cho bệnh nhân nhức nửa đầu của mình và thành công tốt đẹp.
Một bệnh nhân đau nửa đầu phản hồi rằng bệnh lupus vulgaris (lao da) của anh ấy cũng đã khỏi nhờ theo chế độ ăn uống của Gerson. Gerson bắt đầu sử dụng chế độ ăn uống để chữa trị cho các bệnh nhân lupus khác. Ông thậm chí còn bắt đầu thành công với việc điều trị bệnh lao. Bác sĩ phẫu thuật phổi nổi tiếng Ferdinand Sauerbruch nghe nói về những thành công của Gerson và đã mời ông tiến hành thử nghiệm lâm sàng liệu pháp của ông tại khu lao Munich của Sauerbruch.
Chế độ ăn của Gerson được áp dụng cho 450 bệnh nhân lao. Tại thời điểm đó, bệnh lao được coi là “nan y”. Báo cáo sau khi thử nghiệm là 446 bệnh nhân hoàn toàn hồi phục. Đối với những ai thích tỷ lệ phần trăm thì đó là tỷ lệ chữa khỏi 99,1% trên bệnh nhân giai đoạn cuối!
Chế độ ăn của Gerson nhanh chóng trở nên nổi tiếng ở châu Âu và được nhiều nơi xem như liệu pháp điều trị tiêu chuẩn đối với các rối loạn hệ miễn dịch, bao gồm cả bệnh lao.
Năm 1928, Gerson nhận được điện thoại từ một người phụ nữ được cho biết là bị ung thư ống dẫn mật. Theo Gerson, bà nài nỉ ông chữa cho bà bằng liệu pháp của ông, chấp nhận ông không biết gì về ung thư và không thể dự đoán trước kết quả điều trị. Gerson cho biết bà hoàn toàn phục hồi sau điều trị và cả hai người bạn của bà cũng vậy. Tất nhiên là với mọi thành công điều trị ung thư, sẽ xuất hiện “những lính đánh thuê” của mafia y tế cố vu khống và công kích những người điều trị và Gerson cũng không là ngoại lệ.
Ông bắt đầu thử nghiệm lâm sàng liệu pháp của ông với nỗ lực làm câm họng những chỉ trích. Ông quyết định chỉ chữa cho những bệnh nhân được công bố “giai đoạn cuối” bằng văn bản bởi ít nhất là hai chuyên gia để không có nghi ngờ về bệnh hoặc chẩn đoán. Vào ngày 01 tháng 4 năm 1933, chỉ sáu tuần trước khi ông giới thiệu kết quả nghiên cứu, Adolf Hitler đã tiến hành bắt bớ người Do Thái và tống họ vào các trại tập trung. Gerson may mắn thoát được và rời Đức mãi mãi, để lại phía sau các kết quả nghiên cứu của ông.
Là một người Đức gốc Do Thái, Gerson buộc phải cùng gia đình rời nước Đức năm 1933, đầu tiên là đến Vienna, tiếp đến Ville d’Avray (gần Paris) và London. Ông định cư ở New York năm 1936. Tại đây, Gerson bắt đầu áp dụng liệu pháp ăn kiêng cho các bệnh nhân ung thư cấp. Năm 1946, cùng với năm bệnh nhân đã được ông chữa khỏi, ông làm chứng trước tòa rằng đã khám phá ra cách chữa ung thư. Tối ngày 3 tháng 7 năm 1946, điều này được thông báo rộng rãi trên radio. Chẳng ngạc nhiên, tuyên bố công khai này nhận được chỉ trích từ những đồng nghiệp ở Hiệp hội Y khoa bang New York.
Sau nhiều năm hành nghề y thành công, nhưng dưới sự giám sát kỹ lưỡng, bác sĩ Max Gerson đột ngột qua đời một cách bí ẩn vào ngày 8 tháng 3 năm 1959. Charlotte Gerson – con gái út của ông và là người sáng lập Viện Gerson nói: “Cha tôi lúc đó 78 tuổi rất khỏe mạnh, trước hôm đó ông thấy rất mệt. Người ta xét nghiệm máu và thấy lượng thạch tín cao.” Khi hỏi bà có gọi cảnh sát không, bà trả lời: “Không, chúng tôi có những nghi ngờ nhưng qua kinh nghiệm cũng biết được rằng công lý sẽ chẳng được thực thi”.
Theo bác sĩ Gerson, ung thư là kết quả của hai điều: sự thiếu hụt và độc tính. Đơn giản là cơ thể nhận không đủ dinh dưỡng từ chế độ ăn hiện đại và tiếp xúc với quá nhiều hóa chất độc tố và kết quả là phát sinh bệnh ung thư. Gerson tin rằng ung thư có thể được đảo ngược nếu bệnh nhân làm sạch cơ thể khỏi những chất độc hại và phục hồi hệ miễn dịch với dinh dưỡng hợp lý.
Với niềm tin ấy, nền tảng cơ bản của liệu pháp Gerson là giải độc và trẻ hóa cơ thể, dựa trên nguyên tắc đưa tràn vào cơ thể nhiều vi chất dinh dưỡng không-muối, không-béo, hữu cơ, thức ăn chay, kể cả 13 trái cây ép và nước ép rau quả hằng ngày. Điều trị này sử dụng phương pháp tiếp cận “toàn cơ thể”, không như các liệu pháp điều trị chính thống độc hại, vì Gerson không tin điều trị chỉ ở vùng khu trú tập trung các tế bào ung thư là một ý tưởng tốt.
Enzyme tuyến tụy là cực kỳ quan trọng đối với liệu pháp Gerson. Lý do là: Trước khi cơ thể có thể bị thoái hóa thành ung thư, các hệ thống phòng thủ của cơ thể phải bị trì trệ và mất cân bằng. Nếu tuyến tụy của bạn đang hoạt động tốt và nếu có enzyme tuyến tụy đầy đủ, bệnh ung thư không thể phát triển. Như tôi đã đề cập trong chương về dinh dưỡng, enzyme tuyến tụy (cụ thể là trypsin và chymotrypsin) phân hủy lớp phủ protein bảo vệ, lớp phủ này bao bọc các mô ác tính làm cho hệ miễn dịch tự nhiên của cơ thể không thể nhận ra các tế bào ung thư là ngoại lai. Vì vậy, trong một cơ thể ung thư, các enzyme tuyến tụy cần phải được bổ sung.
Tương quan với sự trung thành với các enzyme tuyến tụy, liệu pháp Gerson cũng gắn chặt với tiên đề rằng protein dư thừa trong chế độ ăn uống là chất gây ung thư. Là một cựu vận động viên thể hình, tôi đã từng làm theo lời khuyên của bác sĩ và chuyên gia dinh dưỡng và tiêu thụ lượng lớn protein động vật hằng ngày. Ví dụ, tôi thường có tám bữa ăn nhỏ gồm ít nhất 30 gam protein, bao gồm chủ yếu thịt gà, cá và trứng. Tôi lầm tưởng rằng thịt, cá, trứng, và các sản phẩm sữa có protein toàn diện (có chứa tám axit amin thiết yếu không được sản xuất trong cơ thể), còn tất cả protein thực vật là protein không toàn diện.
Tuy nhiên, nghiên cứu tại Viện Karolinska ở Thụy Điển và Viện Max Plank ở Đức đã chỉ ra rằng hầu hết các loại rau, trái cây, hạt, củ và ngũ cốc là nguồn tuyệt vời cung cấp protein toàn diện. Trong thực tế, các protein đó dễ dàng tiêu hóa hơn so với thịt, và không độc hại. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu Karolinska cũng phát hiện khi thịt được nấu đến 100 độ C (bất kể luộc, nướng, chiên, hoặc bỏ lò) thì protein trong thịt thay đổi thành độc tố, các amid gây ung thư. Nghiên cứu thực hiện tại Đại học California ở Irvine cho thấy trẻ em ăn ba bánh mì xúc xích một tuần thì nguy cơ phát triển ung thư bạch cầu và u não tăng 10 đến 12 lần. Trong một nghiên cứu lớn tiến hành ở Trung Quốc do Tiến sĩ T. Colin Campbell tiến hành, cho thấy các nhóm người chủ yếu ăn protein động vật hầu hết mắc bệnh tim và ung thư.
Một trong những lý do cần tránh dư thừa protein là cơ thể tích trữ được rất ít protein. Thận và gan phải chịu trách nhiệm loại bỏ protein; do đó, càng ăn nhiều protein, thận và gan càng phải làm việc nặng hơn để bài tiết. Gerson cũng rất quan tâm đến điều trị gan, vì ông tin rằng gan thực sự là cơ quan quan trọng nhất trong cơ thể do nó là hệ thống lọc để thải độc. Thực tế, ông đã thấy mối tương quan giữa sự suy thoái của gan với sự tăng trưởng và tiến triển của ung thư!
Do mối quan tâm đối với các vấn đề về gan, ông phản đối nhịn ăn và thay vào đó, chế độ của ông đòi hỏi uống nước ép trái cây tươi mỗi giờ thức dậy trong ngày. Bằng cách uống nước ép trái cây, bệnh nhân nhận được rất nhiều chất dinh dưỡng, khoáng chất, enzyme và vitamin và chúng bắt đầu tuôn ra thận. Các chất dinh dưỡng đi vào mô, vào tế bào, đẩy chất độc ra ngoài, và tất cả những chất độc đó được giải phóng vào dòng máu. Gan lọc chúng ra. Bạn phải giúp gan loại bỏ chúng, và chỉ có một cách để làm điều này – mở các ống dẫn mật. Gerson hoàn tất nhiệm vụ này bằng phương pháp thải độc cà phê bị giễu cợt và phỉ báng.
Cho đến gần đây, tôi vẫn không biết thực tế là natri kích thích khối u tăng trưởng. Ngoài ra, có một thực tế là tất cả các loại thực phẩm chế biến giảm kali và tăng natri. Vì vậy, với sự tập trung của liệu pháp Gerson vào lượng kali cao và natri thấp, không có gì ngạc nhiên là tất cả các thực phẩm chế biến đều bị cấm. Với liệu pháp Gerson, hầu hết các chất béo đều bị nghiêm cấm vì chúng kích thích tăng trưởng khối u. Tuy nhiên, Gerson biết rằng bệnh nhân ung thư cần một số lượng nhất định các axit béo thiết yếu. Ông quan tâm đến công trình của bác sĩ Johanna Budwig ở Đức cho rằng dầu hạt lanh giúp kích thích hệ miễn dịch và dung nạp tốt với bệnh nhân ung thư. Như một quy tắc chung, ngoại trừ dầu dừa, bạn không bao giờ nên nấu thức ăn với dầu vì tính chất hóa học tự nhiên của chúng gây ra các vấn đề về sức khỏe.
Viện Gerson được Charlotte Gerson thành lập năm 1977 tại San Diego chỉ duy nhất dành cho mục đích hướng dẫn công chúng và bệnh nhân ung thư về liệu pháp Gerson. Bạn có ngạc nhiên không khi chính phủ Mỹ không ủng hộ liệu pháp Gerson? Trong thực tế, nó là bất hợp pháp tại Mỹ. Đáp lại, Charlotte đã mở một bệnh viện ở Tijuana, Mexico. Bạn có thể truy cập trang web của Viện Gerson để biết thêm thông tin về liệu pháp Gerson (www.Gerson.org).
Một cuốn sách tuyệt vời về liệu pháp Gerson do chính Max Gerson viết và mang tên A Cancer Therapy: Results of Fifty Cases and the Cure of Advanced Cancer (Một liệu pháp chữa ung thư: Kết quả của năm mươi ca chữa ung thư cấp). Sách có bán trên Amazon.
Cây gai dầu
Một bài báo năm 1938 trên Popular Mechanics nói rằng có hơn 25.000 ứng dụng của cây gai dầu… từ thực phẩm, sơn đến nguyên liệu vải và vật liệu xây dựng. Thậm chí có sợi gai dầu trong túi trà Lipton của bạn. Bột nghiền gai dầu làm giấy sẽ tạo ra thứ giấy dai và vô cùng bền, không bị úa vàng theo thời gian. Dầu hạt gai dầu từ lâu đã được công nhận là một trong những chất có tác dụng và ích lợi nhất cho con người.
Gai dầu được coi là thực phẩm hảo hạng (như tảo spirulina và rong tiểu câu chlorella) do giàu axit béo thiết yếu và tỷ lệ có một không hai về omega-3 và omega-6, đặc biệt là gamma linolenic axit (GLA). Dầu hạt gai dầu chứa đến 5% GLS tinh khiết, có nồng độ cao hơn nhiều so với bất kỳ thực vật nào khác. Trong nhiều thiên niên kỷ, cây gai dầu đã được sử dụng làm các loại trà dược và thuốc bổ do các tính chất chữa bệnh của nó. Gai dầu không chỉ làm giảm đau và giúp bệnh nhân ung thư ngon miệng; nó cũng được chứng minh là có các đặc tính chữa bệnh.
Những hóa chất trong cây gai dầu có công dụng đối với sức khỏe được gọi là cannabinoid. Loại cannabinoid đáng chú ý nhất là Delta-9-tetrahydrocannabinol gọi tắt là THC. Trước khi tiếp tục, cho phép tôi giải thích sự khác biệt giữa các thuật ngữ của cây gai dầu: “hemp”, “marijuana” và “cannabis”. Từ hemp là tiếng Anh chỉ một số loại cây cannabis, đặc biệt là các loại gai dầu công nghiệp được nuôi trồng để sử dụng cho công nghiệp như làm nhiên liệu, sợi, giấy, hạt giống, thức ăn, dầu, v.v.. Từ marijuana có nguyên gốc tiếng Tây Ban Nha, và chủ yếu được sử dụng để mô tả các loại cannabis thường được nuôi trồng cho mục đích y tế và giải trí (như cannabis indica và cannabis sativa).
Hai cannabinoid ưu việt hơn trong cannabis – 1) THC, các thành phần tác động lên trí tuệ và 2) CBD, thành phần chống tác động lên trí tuệ. Marijuana (thực ra là từ lóng để làm nó nghe có vẻ ghê gớm hơn) có nhiều cannabinoid tác động lên trí tuệ THC, và ít cannabinoid chống tác động lên trí tuệ CBD. Điều ngược lại là đúng cho cây gai dầu công nghiệp, trong đó có THC tối thiểu và tỷ lệ CBD thì cao hơn nhiều. Tôi thích sử dụng các từ “hemp” hay “cannabis” cho tất cả các giống gai dầu tốt. Sử dụng từ “marijuana” là sự đồng tình với những ý định miệt thị của mafia y tế muốn cấm cây kỳ diệu này… không phải “thuốc” kỳ diệu… mà là cây kỳ diệu. Bạn thấy đấy, marijuana là một trong những từ ranh giới, đánh dấu sự khác biệt giữa “người đàng hoàng” và “kẻ nghiện ngập”, giữa “sấp” và “ngửa”.
Cồn gai dầu y tế với THC đã có mặt ở hầu hết các hiệu thuốc ở Mỹ vào những năm 1930. Cũng khoảng thời gian đó (cuối năm 1930), William Randolph Hearst và Bộ phận sản xuất giấy Hearst của Kimberly Clark sở hữu hàng triệu mẫu đất rừng. Công ty Hearst cung cấp hầu hết các sản phẩm giấy ở Mỹ và cũng sở hữu hầu hết các tờ báo, đã mất hàng tỷ đô la vì công nghiệp gai dầu. Năm 1937, Dupont có bản quyền quy trình sản xuất nhựa từ dầu mỏ và than đá. Báo cáo thường niên của Dupont kêu gọi các cổ đông đầu tư vào bộ phận hoá dầu mới. Sản phẩm tổng hợp như nhựa, nylon, tơ nhân tạo bây giờ có thể được làm từ dầu mỏ. Công nghiệp hóa cây gai dầu tự nhiên có thể hủy hoại trên 80% hoạt động kinh doanh của Dupont.
Andrew Mellon đã trở thành Bộ trưởng Tài chính của Tổng thống Hoover, và là nhà đầu tư chính của Dupont. Ông bổ nhiệm cháu rể tương lai (Harry J. Anslinger) đứng đầu Cục ma tuý và các loại thuốc nguy hiểm Liên bang. Các cuộc họp bí mật đã được tổ chức bởi các ông trùm tài chính này. Cây gai dầu bị cho là “nguy hiểm” và là mối đe dọa cho các doanh nghiệp tỷ đô la của họ. Để các triều đại của họ được trường tồn, cây gai dầu phải bị loại bỏ. Họ lấy từ lóng Mexico tối nghĩa (marijuana – cần sa) và nhồi vào trong ý thức của Mỹ. Một chiến dịch truyền thông chớp nhoáng của “báo chí lá cải” đã nổ ra vào những năm 1920 và 1930; Báo Hearst chạy những câu chuyện nhấn mạnh nỗi kinh hoàng của “marijuana”. Người đọc được dẫn dắt để tin rằng nó phải chịu trách nhiệm về những tai nạn xe cộ, đạo đức đồi bại và vô số các hành vi bạo lực, mất trí vô phương cứu chữa và những vụ giết người dã man. Những bộ phim như Reefer Madness (Cơn điên cần sa) và Marihuana: The Devil’s Weed (Cần sa: Thảo dược của quỷ) được tuyên truyền và thiết kế dưới bàn tay của những nhà công nghiệp này nhằm tạo ra một kẻ thù. Mục đích của họ là để thu hút được sự ủng hộ của công chúng để thông qua đạo luật chống marijuana (cần sa).
Vào những năm 1930, người dân rất ngây thơ, thậm chí đến mức vô tri. Quần chúng như bầy cừu chờ để được một số người có quyền lực dẫn dắt. Họ không thách thức nhà cầm quyền. Giống như hiệu ứng bầy đàn ngày nay, nếu tin tức được in ra hoặc phát trên các đài phát thanh, họ tin đó phải là thực. Vì vậy, mặc dù thực tế là các chiến dịch tẩy não dựa hoàn toàn vào nói dối, nhưng hemp (gai dầu) bị đặt ngoài vòng pháp luật từ những năm cuối thập niên 1930. Cây gai dầu quá đáng sợ cho các ngành công nghiệp giấy và dầu mỏ. Hơn nữa, Big Pharma không thích ứng dụng dược liệu không độc hại và không tốn kém! Cây gai dầu có số lượng lớn và giá rẻ, tệ hơn nữa cho mafia y tế là nó thậm chí không gây ra tác dụng phụ.
Bằng chứng y học về hiệu quả của THC trong điều trị ung thư và giảm đau là quá lớn. Chúng ta đã biết điều này từ năm 1974 khi khảo nghiệm đầu tiên để chứng minh những tác động chống khối u được thực hiện tại trường Đại học Y Virginia theo chỉ thị của chính phủ Mỹ và Viện Y tế Quốc gia (NIH). Mục đích của nghiên cứu này là để chứng minh rằng marijuana gây tổn hại cho hệ miễn dịch và gây ra ung thư. Tuy nhiên, ngược lại, nghiên cứu cho thấy THC làm chậm sự tăng trưởng của ba loại ung thư ở chuột (ung thư phổi, vú và ung thư bạch cầu do vi-rút). RẤT TIẾC! Chúng ta không thể đưa thông tin này ra công chúng. Vì vậy, DEA nhanh chóng chấm dứt nghiên cứu Virginia và tất cả các nghiên cứu sâu hơn về tác dụng chống ung thư của cây gai dầu, mặc dù nghiên cứu đã chứng minh rằng THC chữa ung thư!!
Năm 2000, các nhà nghiên cứu ở Madrid biết rằng THC trong cây gai dầu ức chế sự lan truyền của ung thư não thông qua chọn lọc tạo ra quá trình chết tự nhiên ở các tế bào u não mà không ảnh hưởng tiêu cực đến các tế bào khỏe mạnh xung quanh. Họ đã có thể phá hủy những khối u não nan y ở chuột bằng cách tiêm THC. Nhưng thật đáng buồn, hầu hết người Mỹ không biết gì về khám phá Madrid, vì hầu như không tờ báo lớn nào của Mỹ đăng tải câu chuyện này.
Một nghiên cứu của Trường Y Harvard năm 2007 cho thấy THC trong cây gai dầu giảm kích thước khối u ung thư phổi 50% và làm giảm đáng kể khả năng di căn ung thư. Tiến sĩ Anju Preet, nhà nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm y học, nói: “Ưu điểm của nghiên cứu này là chúng ta đang cho thấy một chất bị lên án, nếu được sử dụng khôn khéo, có thể đưa lại một cách mới để điều trị ung thư phổi”.
Các nhà nghiên cứu khác cũng đã chỉ ra rằng THC điều trị hiệu quả bệnh Hodgkin và bệnh ác tính trên da. Một nghiên cứu gần đây ở Thái Lan đã chứng minh rằng THC cũng có thể chống được ung thư ống mật, đó là bệnh hiếm gặp và rất nguy hiểm. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cannabinoid (và endocannabinoid) ức chế sự gia tăng của các loại ung thư khác nhau.
Rick Simpson điều trị thành công ung thư giai đoạn cuối của ông bằng dầu hạt gai dầu, và kể từ đó ông đi đầu trong việc thúc đẩy dầu hạt gai dầu trở nên hữu dụng cho điều trị ung thư. Trớ trêu thay, vào ngày 25 tháng 11 năm 2009, một ngày trước khi được trao danh hiệu Chiến sĩ đấu tranh vì tự do năm 2009 tại Cannabis Cup Amsterdam, Simpson nhận được tin ông lại bị Cảnh sát vũ trang Canada khám xét. Simpson bị ngược đãi nặng nề vì lập trường của ông về marajuana và những nỗ lực giúp đỡ người dân chữa bệnh ung thư bằng dầu hạt gai dầu.
Các bạn, tôi chắc chắn rằng chúng ta đang sống trong ma trận! hầu như mọi chất tự nhiên Chúa đã tạo ra (như cây gai dầu, hạt mơ và ánh sáng mặt trời) thì bị coi là “nguy hiểm”, còn các loại thuốc độc hại được Big Pharma nhồi nhét lại được coi là an toàn! Các bác sĩ tấn công người bằng chất độc là hợp pháp, nhưng bạn có thể đi tù vì cố gắng bảo vệ bản thân hoặc người thân bị ung thư bằng dầu của một vườn cỏ đơn giản hoặc bằng hạt giống của một loại trái cây đơn giản.
Hai loại ma túy hợp pháp ở đất nước này (rượu và thuốc lá) là thủ phạm giết người nổi tiếng. Hằng năm ở Mỹ, thuốc lá gây ra 435.000 ca tử vong và rượu gây ra 85.000 ca tử vong. Cũng nghiên cứu này chỉ ra không có ca tử vong nào do sử dụng marijuana. Tuy nhiên, chính phủ Mỹ tiếp tục “cuộc chiến chống ma túy” và chỉ đi đến thất bại như “cuộc chiến chống ung thư” gian lận và “cuộc chiến chống khủng bố” giả vờ. Bất cứ lúc nào chính phủ tham nhũng tuyên bố một “cuộc chiến” về bất cứ điều gì, vấn đề chỉ tồi tệ hơn. Ai đang đùa ai?
Ngày 29 tháng 3 năm 2001, San Antonio Current in câu chuyện của Raymond Cushing kể chi tiết chính phủ và các phương tiện truyền thông ỉm đi tin tức về những lợi ích của marijuana trong việc chống ung thư. Cushing lưu ý trong bài viết rằng thật khó tin những kiến thức về marijuana có thể được sử dụng để chống ung thư lại bị ngăn chặn trong gần 30 năm và ông khéo léo kết luận bài viết bằng câu nói: “Hàng triệu người đã chết một cách đau đớn và trong nhiều trường hợp, gia đình phải dốc hết tiền tiết kiệm vào thuốc đắt đỏ, nguy hiểm và độc hại. Bây giờ chúng ta chỉ mới bắt đầu nhận ra rằng trong khi marijuana chưa bao giờ giết chết bất cứ ai, việc cấm marijuana đã giết chết hàng triệu người”.
Tính khoa học của việc sử dụng cây gai dầu làm thuốc chữa bệnh là rất cao. Nó phải được sản xuất và phân phối đến mỗi và mọi bệnh nhân ung thư cần nó. Nhưng thực tế là chúng ta đang sống trong một thế giới tham lam được điều hành dưới tay mafia y tế, những kẻ thà kiếm tiền trong khi các bệnh nhân ung thư chết thảm khốc, hơn là cho họ tiếp cận với liệu pháp điều trị tự nhiên hiệu quả và không độc hại như cây gai dầu.
Liệu pháp tăng thân nhiệt
Liệu pháp tăng thân nhiệt là liệu pháp gây sốt nhân tạo. Hippocrates đã nhấn mạnh: “Bệnh không thể chữa khỏi bằng nhiệt là bệnh vô phương cứu chữa”. Năm 1893, bác sĩ William B. Coley quan sát sự thuyên giảm ung thư trên mười bệnh nhân mà ông tiêm độc tố vi khuẩn (gọi là độc tố Coley) trực tiếp vào khối u của họ và tạo sốt cao. Tên hiện đại của các độc tố Coley là Mixed Bacterial Vacccine (MBV). Trong một nghiên cứu của Đức, những bệnh nhân bị u lympho ác tính Hodgkin cấp được tiêm MBV có mức độ thuyên giảm là 93%, so với 29% dùng hóa trị (bác sĩ Ralph W. Moss, The Cancer Industry, trang 160). Năm 1927, Julius Wagner-Jauregg nhận Giải thưởng Nobel Y học cho công trình liên quan đến điều trị ứng dụng liệu pháp tăng thân nhiệt.
Sốt từ lâu đã là triệu chứng bị hiểu lầm và điều trị sai6. Hầu hết các bác sĩ chính thống cố gắng chống lại và ngăn chặn sốt, vì vậy mà cần dùng Advil và Tylenol. Tuy nhiên, thực tế sốt là triệu chứng có ích, thúc đẩy sức khỏe, được cơ thể tạo ra trong nỗ lực tự chống nhiễm trùng, các tình trạng bệnh tật và phục hồi sức khỏe. Bạn thấy đấy, sốt tăng tốc độ trao đổi chất, ức chế sự gia tăng thâm nhập của vi rút hoặc vi khuẩn và tăng tốc quá trình lành bệnh.
Liệu pháp tăng thân nhiệt là quy trình điều trị làm tăng nhiệt độ khối u ung thư ít nhất là 82,2 độ C trong một giờ. Điều này dựa trên một thực tế khoa học đơn giản và dễ kiểm chứng là nhiệt độ 82,2 độ C giết chết tế bào ung thư nhưng không giết các tế bào mô bình thường của con người. Trong các mô bình thường, khi gia nhiệt mạch máu mở ra, tản nhiệt và làm mát môi trường quanh tế bào. Không giống như các tế bào khỏe mạnh, khối u bị đóng gói chặt trong nhóm các tế bào và lưu thông bị hạn chế, chậm chạp. Khi khối u bị gia nhiệt, các chất dinh dưỡng thiết yếu và ô-xy bị tách ra khỏi các tế bào khối u. Điều này dẫn đến sự sụp đổ hệ mạch máu của khối u và phá hủy các tế bào ung thư.
Tất cả những gì chúng ta cần làm là bằng cách nào đó nâng nhiệt độ của cơ thể lên và tạo ra môi trường âm tính có chọn lựa để các tế bào ung thư nổi loạn có thể bị quét sạch bởi hệ miễn dịch. Năng lượng vi sóng rất hiệu quả trong việc làm nóng các khối u ung thư, vì các khối u thường chứa nhiều nước. Năm 1990, Tiến sĩ Alan J. Fenn (một chuyên gia điện tại Viện Công nghệ Massachusetts) đã phát triển một giả thuyết về gia nhiệt sâu các khối u bằng vi sóng thích ứng. Những vi sóng này điều chỉnh các thuộc tính của mô bệnh nhân để tập trung năng lượng vi sóng tại khối u.
Có một số phương pháp khác được sử dụng để kích thích tăng thân nhiệt, chẳng hạn như tắm hơi hoặc ngâm toàn thân trong nước nóng. Cá nhân tôi thích tắm hơi, vì da là cơ quan bài tiết lớn nhất và đôi khi còn được gọi là “quả thận thứ ba”. Thông thường, da loại bỏ 30% chất thải độc hại của cơ thể bằng cách đổ mồ hôi. Tuy nhiên, do thiếu hoạt động thể chất và cuộc sống quá ít vận động, da của hầu hết mọi người ngày nay đã biến chất không bài tiết được nữa (vì hầu hết mọi người không bao giờ đổ mồ hôi). Để sức khỏe phục hồi, điều tối quan trọng là các hoạt động bài tiết của da được hồi sinh. Tắm hơi thường xuyên sẽ giúp phục hồi và tái sinh hoạt động làm sạch của da. Liệu pháp tăng thân nhiệt kết hợp với xạ trị liều thấp là liệu pháp điều trị rất hiệu quả đối với nhiều loại ung thư, có ít tác dụng phụ và cơ thể có khả năng phục hồi từ các bức xạ liều thấp.
Bác sĩ A. Lwoff, nhà vi khuẩn học người Pháp nổi tiếng, đã chứng minh qua các thí nghiệm khoa học lặp đi lặp lại rằng sốt thực sự là một “liều thuốc tuyệt vời” và nó có thể giúp chữa nhiều bệnh “nan y”. Bác sĩ chuyên khoa ung thư nổi tiếng Josef Issels nói: “Gây sốt nhân tạo có tiềm năng rất lớn trong điều trị nhiều bệnh, kể cả ung thư.” Hãy nhớ rằng bình luận này là của một trong những chuyên gia ung thư hàng đầu thế giới!
Liệu pháp tăng thân nhiệt mang đến cho ung thư “ba xui xẻo” bởi:
1. Loại bỏ tích lũy các hóa chất độc hại gây ung thư
2. Cải thiện lưu thông theo đó các mô được nuôi dưỡng với cả ô-xy và rửa sạch các chất thải axit
3. Làm suy yếu hay thậm chí giết chết các tế bào ung thư kém chịu nhiệt hơn so với các tế bào khỏe mạnh.
Tháng 5 năm 2009, Tập đoàn Y tế BSD (có trụ sở tại Salt Lake City) đạt được danh hiệu Thiết bị nhân đạo cho hệ thống tăng nhiệt BSD-2000 của công ty, sử dụng kết hợp với xạ trị để điều trị một số bệnh nhân ung thư biểu bì cổ tử cung. Nhưng nếu cố gắng để được điều trị tăng thân nhiệt tại một bệnh viện ở Mỹ, bạn sẽ phải thất vọng. Nếu muốn có cơ hội hợp lý để bổ sung liệu pháp tăng thân nhiệt vào chương trình điều trị ung thư của mình, bạn vẫn phải đến Đức, Trung Quốc hay một số nước khác, nơi người ta chào đón sự đổi mới.
Xin lưu ý rằng do liệu pháp tăng thân nhiệt chỉ tập trung vào tiêu diệt các tế bào ung thư trong các khối u và không xây dựng lại hệ miễn dịch với chất dinh dưỡng, nên bệnh nhân ung thư cần luôn sử dụng tăng thân nhiệt kết hợp với phác đồ dựa vào dinh dưỡng. Hơn 2.000 năm trước, bác sĩ Hy Lạp nổi tiếng Parmenides đã tuyên bố: “Hãy cho tôi một cơ hội để tạo ra cơn sốt, và tôi sẽ chữa lành mọi bệnh tật”.
Truyền vitamin C
Vitamin C rất cần thiết cho sự hình thành collagen (chất tạo keo), “xi măng” protein giữ các tế bào của chúng ta lại với nhau. Hãy hình dung các tế bào giống như những viên gạch trên bức tường. Sức mạnh của bức tường gạch không thực sự nằm ở những viên gạch mà là ở xi măng giữa những viên gạch. Collagen là xi măng gắn các tế bào lại với nhau. Nếu collagen nhiều và khỏe, các tế bào của bạn gắn với nhau chắc chắn. Nếu các tế bào dính chặt vào nhau, khối u sẽ khó mà lan truyền qua chúng. Collagen khỏe mạnh có thể chặn được sự lan truyền ung thư.
Tế bào ung thư tiết ra một loại enzyme gọi là “hyaluronidase”, giúp chúng ăn mòn collagen và chạy vào phần còn lại của cơ thể. Điều này được mô tả rất chi tiết trong cuốn Hyaluronidase and Cancer (Hyaluronidase và Ung thư) của bác sĩ Ewan Cameron. Để ngăn chặn các enzyme hyaluronidase làm tan collagen, bác sĩ Matthias Rath chủ trương gia tăng tiêu thụ các axit amin L-Lysine, L- Proline và EGCG cùng với vitamin C. Các thí nghiệm đã chứng minh hiệu quả ngăn chặn các enzyme hyaluronidase khi kết hợp bốn chất này.
Vitamin C cần thiết cho hệ miễn dịch tạo ra và huy động các bạch cầu chống lại ung thư. Việc tối đa hóa chức năng miễn dịch là vô cùng quan trọng nếu chúng ta muốn cơ thể chống đỡ ung thư. Như tôi đã nêu, liệu pháp điều trị chính thống hóa trị và xạ trị phá hủy hệ miễn dịch. Trong khi Vitamin C tiêu diệt tế bào ung thư mà không đụng đến những tế bào bình thường. Nghĩa là vitamin C không chỉ tăng cường hệ miễn dịch, mà còn ưu tiên tiêu diệt các tế bào ung thư.
Ngoài ra, vitamin C giúp vận chuyển ô-xy và là chất chống ô-xy hóa rất mạnh. Theo bác sĩ David Gregg: “Về cơ bản, vitamin C được vận chuyển đến phổi theo máu, ở đó nó bị ô-xy hóa. Sau đó, nó được vận chuyển đến các tế bào, tại đó nó khuếch tán tới các ty lạp thể và giải phóng tiềm năng ô-xy hóa, cấp nguồn lực cho chuỗi hô hấp, và chu kỳ lặp lại”.
Bác sĩ Gregg đưa ra lý thuyết rằng tác động chính của liều lớn vitamin C là vận chuyển ô-xy trong máu, thay thế cho hemoglobin không thể cung cấp ô-xy cho các tế bào ung thư. Ông đề xuất kết hợp vitamin C và vitamin E, vì vitamin C vận chuyển ô-xy trong bào tương và vitamin E vận chuyển ô-xy đi qua thành tế bào.
Lý thuyết của bác sĩ K.N. Prasad là các tế bào bình thường chỉ cần một phút để kiểm soát chính xác số lượng chất chống ô-xy hóa để hoạt động. Chúng từ chối mọi dư thừa. Một trong số các khuyết tật là các tế bào ác tính đã mất đi khả năng điều tiết sự hấp thụ các chất chống ô-xy hóa như vitamin C và E. Chất chống ô-xy hóa do đó có thể tích tụ trong các mô ung thư ở mức độ có thể dẫn đến sự sụp đổ và chết của các tế bào ác tính.
Các bác sĩ A. Goth và I. Littmann trong một bài báo nhan đề Ascorbic Acid Content in Human Cancer Tissue (Axit Ascorbic chứa trong mô ung thư người) mô tả ung thư thường bắt đầu như thế nào ở các cơ quan có mức axit ascorbic (vitamin C) dưới 4,5 mg% và hiếm khi phát triển trong các cơ quan có mức cao hơn ra sao. Bạn có thấy mối liên hệ không? Bạn còn nhớ hydrogen peroxide được đổ vào vết thương để diệt vi trùng như thế nào không? Nghiên cứu công bố tháng 9 năm 2005 của bác sĩ Mark Levine chỉ ra rằng truyền tĩnh mạch vitamin C liều cao có thể tăng mức hydrogen peroxide (H2O2) trong các tế bào ung thư và tiệt trừ các tế bào ung thư.
Nhận thức được vitamin C hữu ích trong điều trị ung thư chính là công trình tiên phong của bác sĩ Linus Pauling. Năm 1976, ông và bác sĩ phẫu thuật người Scotland, Ewan Cameron, cho biết bệnh nhân được điều trị vitamin C liều cao có thể sống lâu hơn ba đến bốn lần so với bệnh nhân tương tự mà không được bổ sung vitamin C. Nghiên cứu được tiến hành trong những năm đầu thập kỷ 1970 tại Bệnh viện Vale of Leven ở Loch Lomonside, Scotland. Bác sĩ Cameron đã điều trị 100 bệnh nhân ung thư cấp với 10.000 miligam vitamin C mỗi ngày.
Sự tiến bộ của những bệnh nhân này sau đó đã được so sánh với 1000 bệnh nhân (của các bác sĩ khác) không được bổ sung vitamin C. Những phát hiện này được công bố vào năm 1976 trên Proceedings of the National Academy of Sciences, Pauling là đồng tác giả. Báo cáo năm 1976 nhấn mạnh tất cả các bệnh nhân này trước đó đã điều trị chính thống (Big 3). Các bệnh nhân dùng vitamin C được ghi nhận là có thời gian sống trung bình 300 ngày dài hơn so với các bệnh nhân khác và với chất lượng cuộc sống được cải thiện. Thí nghiệm của họ đã chứng minh một cách thuyết phục rằng vitamin C là liệu pháp điều trị tốt hơn cho bệnh nhân giai đoạn cuối so với hóa trị.
Công nghiệp ung thư rất tức giận với Pauling và Cameron. Tuyệt đối không thể để hai “lang băm” và liệu pháp vitamin của họ xen vào phương pháp hóa trị đang đẻ ra tiền! Có quá nhiều nguy cơ cho Công nghiệp ung thư. Cổ đông cần lợi nhuận khủng! Hội đồng quản trị cần lương bảy con số và trợ cấp! Con cái họ cần học ở các trường danh tiếng! Thế là, theo thủ tục hoạt động quy chuẩn, một chiến dịch “bôi nhọ” nhằm làm mất uy tín bác sĩ Pauling được triển khai. Sự thật về những gì Cameron và Pauling khám phá ra phải bị nghiền nát. Nhưng họ đã gặp phải một vấn đề lớn: Kết quả của những xét nghiệm này đã được công bố trong sách của Cameron và Pauling, Cancer and Vitamin C (Ung thư và Vitamin C).
Vậy là công nghiệp ung thư và bè lũ nhanh chóng vào cuộc. Họ tiến hành ba nghiên cứu ma với những kết quả “đã định trước” và tất cả đều ngược lại với những phát hiện của Cameron và Pauling. Dưới đây là bí mật đê tiện của họ: trong cả ba nghiên cứu, họ đều không dựa trên phác đồ điều trị, và thực hiện một số thủ thuật thống kê sai lệch.
Có gì ngạc nhiên không khi cuối cùng công nghiệp ung thư lớn tiếng tuyên bố Cameron và Pauling là lang băm và nghiên cứu của họ không đáng tin cậy? Tuy nhiên, có bốn nghiên cứu hoàn toàn độc lập sử dụng cùng phác đồ điều trị và thu được kết quả tương tự như Pauling và Cameron. Ba nghiên cứu ma đã không sử dụng cùng phác đồ điều trị đó và không nhận được kết quả tương tự.
Theo Webster Kehr: “Những nghiên cứu của Bệnh viện Mayo được thực hiện chủ yếu để làm mất uy tín công trình của người hai lần đoạt giải Nobel – Linus Pauling. Linus Pauling đã làm mọi người tin rằng có “bằng chứng khoa học” cho Vitamin C và ông bị buộc phải dừng lại. Chính phủ tham nhũng của chúng ta không thể chấp nhận bất cứ bằng chứng khoa học nào của liệu pháp điều trị ung thư thay thế. Thế nhưng do đã có bằng chứng khoa học cho Vitamin C và họ không thể bịt miệng người hai lần đoạt giải Nobel, nên phải có các nghiên cứu ma để chuyển hướng sự chú ý của người dân khỏi các nghiên cứu giá trị. Sau khi nghiên cứu ma hoàn thành, các phương tiện truyền thông liền tiến hành đàn áp sự thật và ngay lập tức lên danh sách đen các nghiên cứu có giá trị.”
Bác sĩ Abram Hoffer là người đi đầu trong trào lưu y tế thay thế sử dụng các liệu pháp điều trị bằng dinh dưỡng. Trong quá trình làm thực tế hơn 40 năm, ông đã điều trị hàng ngàn bệnh nhân chủ yếu bị ung thư và tâm thần phân liệt, ông là tác giả nhiều bài báo và sách. Ông cộng tác với bác sĩ Linus Pauling và tập trung vào sử dụng vitamin C (cùng với các chất dinh dưỡng khác) để điều trị ung thư.
Bạn nên dùng bao nhiêu vitamin C? Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng để bơm đủ lượng vitamin C vào các tế bào ung thư, truyền tĩnh mạch vitamin C là phác đồ tốt nhất. Tất nhiên, bạn sẽ cần có sự giám sát của bác sĩ – bạn không nên cố tự truyền vitamin C cho mình! Điều quan trọng là phải phù hợp với những lượng vitamin C lớn. Nó cần phải được thực hiện nhiều lần mỗi ngày.
Liệu pháp tiềm lực Insulin (IPT)
Dù tôi phản đối hóa trị “liều cao” chính thống, nhưng phác đồ IPT lại liên quan đến hóa trị, dẫu ở liều rất thấp. Theo thời gian, liều lượng hóa trị chính thống làm tổn hại đến số huyết cầu, hệ miễn dịch, và cơ quan chức năng của bệnh nhân đến mức chúng ngăn cản liệu pháp điều trị tiếp theo và đôi khi gây tổn thương cơ quan dẫn đến tử vong bệnh nhân. Tuy nhiên, IPT loại bỏ sự phân vân phải quyết giữa “cái ít tệ hại hơn trong hai cái tệ hại” mà các bệnh nhân ung thư gặp phải khi họ được chẩn đoán ung thư.
Bằng cách nhắm tới hóa trị liệu liều thấp (ít hơn 1/10 liều hóa trị điển hình) các tế bào ung thư, IPT tăng cường độc tính cho ung thư trong khi giảm độc tính cho bệnh nhân. Đó là liệu pháp điều trị ung thư cực kỳ an toàn, hiệu quả, ít tốn kém và đã thành công trong hơn 60 năm.
Bạn đọc sẽ nhận ra insulin là hormone được sử dụng để điều trị bệnh tiểu đường. Tiết ra từ tuyến tụy ở những người khỏe mạnh, insulin là một hormone mạnh mẽ với nhiều tác dụng trong cơ thể người. Tác dụng chính là vận chuyển glucose xuyên qua màng tế bào vào trong tế bào. Insulin truyền thông điệp tới các tế bào bằng cách tham gia với các thụ thể insulin đặc biệt nằm rải rác trên bề mặt ngoài của màng tế bào. Mỗi tế bào trong cơ thể người có từ 100 đến 100.000 thụ thể insulin. Thực ra insulin mở màng tế bào hoặc mở “cửa” tế bào, do đó cho phép đường và các chất khác được vận chuyển vào bên trong. Đó là lý do bệnh nhân tiểu đường, những người không thể sản xuất insulin đúng cách, không thể nhận đường vào trong các tế bào; theo đó, họ bị tăng đường huyết (đường trong máu cao).
Với ung thư thì thế nào? Một thực tế khoa học ai cũng rõ là các tế bào ung thư thèm ăn glucose vô độ. Hãy nhớ là ung thư thích đường! Ngoài ra, cần nhớ rằng các tế bào ung thư là kị khí. Vì vậy, chúng sản xuất năng lượng qua quá trình lên men glucose, đó là cách sản xuất năng lượng cực kỳ không hiệu quả, và cũng là một trong những lý do mà các bệnh nhân ung thư bị mất rất nhiều trọng lượng. Các tế bào ung thư của họ đòi hỏi quá nhiều glucose, chúng lấy đi glucose từ các tế bào bình thường của cơ thể, theo đó làm cho bệnh nhân ung thư bị bỏ đói.
Với IPT, insulin hoạt động như một “potentiator”, lừa các tế bào ung thư tin là chúng sẽ được cho ăn đường (thứ giúp chúng lớn mạnh), vào lúc đó thực ra chúng sẽ bị hóa trị tiêu diệt. Vì insulin tác động như một tác nhân tăng cường và tăng hiệu quả hóa trị, nên lượng hóa trị cần thiết ít hơn nhiều so với hóa trị truyền thống. Có nghĩa là ít tác dụng phụ hơn và hiệu quả điều trị cao hơn nhiều.
Những phát hiện gần đây được công bố trong báo cáo y khoa về mối quan hệ thú vị giữa các tế bào ung thư và insulin là các tế bào ung thư thậm chí còn sản xuất và tiết ra insulin của chính chúng.
Theo bác sĩ Stephen Ayre, một trong những chuyên gia về IPT: “Các tế bào ung thư có được năng lượng nhờ tự tiết ra insulin và tự kích thích để phát triển bằng cách tự tiết ra tác nhân tăng trưởng dạng insulin (insulin-like growth factor – IGF). Đây là những cơ chế của bệnh ác tính. Insulin và IGF hoạt động bằng cách gắn vào các thụ thể đặc biệt ở màng tế bào, và các thụ thể này trên màng tế bào ung thư đông đúc hơn 16 lần so với ở các tế bào bình thường. Các thụ thể là cốt lõi cho liệu pháp IPT. Sử dụng insulin trong IPT đưa đến kết quả cuối cùng là liều hóa trị thấp được chuyển thẳng vào bên trong các tế bào ung thư, tiêu diệt chúng hiệu quả hơn và không có tác dụng phụ. Liệu pháp IPT thật tài tình, nó tiêu diệt các tế bào ung thư bằng cách sử dụng các cơ chế rất giống các cơ chế các tế bào ung thư sử dụng để giết người.”
Đoạn trích trên rất quan trọng trong việc tìm hiểu cơ chế của liệu pháp IPT. IPT tiêu diệt các tế bào ung thư… và chỉ các tế bào ung thư. Các tế bào ung thư có cách riêng tự tiết insulin, cũng như có cách riêng tự tiết IGF để cung cấp cho chúng sự kích thích tăng trưởng không giới hạn. Và các tế bào ung thư có thụ thể cho insulin và IGF trên màng tế bào nhiều hơn 16 lần. Insulin không những có thể nhập với các thụ thể riêng cho nó trên màng tế bào, mà insulin còn có thể nhập với những thụ thể cho IGF và truyền thông điệp về sự tăng trưởng đến tế bào. Liệu pháp này dường như không thích hợp vì thúc đẩy tế bào ung thư tăng trưởng, nhưng thực tế đây lại là tác dụng quý giá của insulin.
Bạn luôn có thể nhận ra một người đang điều trị hóa trị, bởi họ thường bị rụng tóc, ốm yếu và hay buồn nôn. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao chưa? Lý do rất đơn giản. Các tế bào nang tóc, các tế bào dạ dày và ruột của bệnh nhân có chung đặc điểm: Chúng là những tế bào phân chia nhanh chóng. Các tế bào ung thư cũng thế. Thuốc hóa trị liệu ưa tấn công các tế bào phân chia nhanh chóng, nhưng bừa bãi. Tuy nhiên, trong một khối u, không phải tất cả các tế bào ung thư đồng loạt phân chia nhanh chóng cùng một lúc. Thực tế là theo thứ tự lần lượt.
Khi insulin nhập với các thụ thể IGF trên những tế bào ung thư đó, nó kích thích tăng trưởng ở số đông các tế bào không trong giai đoạn tăng trưởng này. Nó đúng là “bật công tắc” các tế bào và làm cho chúng năng động. Tiếp đó, hóa trị liệu được cung cấp sau khi tiêm insulin, thực chất là nhắm đến các tế bào “năng động” và nhạy cảm hơn với hóa trị liệu. Kết quả cuối cùng là điều tuyệt vời cho bệnh nhân ung thư, đó là insulin dâng nộp nhiều tế bào nhậy cảm hơn cho hóa trị tấn công.
Nó hoạt động thế nào? Về cơ bản, trong thời gian IPT, một lượng nhỏ insulin được cung cấp cho bệnh nhân sẽ mở các màng tế bào và gây ra giảm đường huyết, làm cho bệnh nhân chóng mặt và yếu. Hãy nhớ bác sĩ Ayre đã nói, các tế bào ung thư có thụ thể insulin và IGF nhiều hơn 16 lần so với các tế bào bình thường. Bằng cách gây hạ đường huyết, chúng ta có thể làm cho các tế bào ung thư mở các thụ thể của chúng ở tỷ lệ 16 trên 1, do đó cho phép chúng ta lựa chọn nhắm đến các tế bào ung thư! Thường mất khoảng nửa giờ để gây hạ đường huyết. Sau đó, các tế bào ung thư nghĩ rằng chúng sẽ được cho ăn một chút đường và mở toang “cửa” tế bào.
Tuy nhiên, vào thời điểm này, chúng ta lấy đi “bẫy và tráo” trên tế bào ung thư, truyền tĩnh mạch liều thấp hóa trị liệu truyền thống. Các tế bào ung thư nuốt lấy nuốt để hóa trị liệu, nghĩ đó là đường, và bị tiêu diệt với liều hóa trị thấp hơn nhiều so với hóa trị tiêu biểu. Trong bài báo xuất hiện trên tạp chí European Journal of Cancer and Clinical Oncology, bác sĩ Oliver Alabaster của Phòng thí nghiệm nghiên cứu ung thư tại Đại học George Washington cho thấy insulin có thể tăng hiệu quả của một tác nhân hóa trị nhất định (methotrexate) đến 10.000 lần và vì thế có thể tạo ra kết quả lớn hơn đáng kể chống lại ung thư.
Điều gì xảy ra nếu chúng ta thêm DMSO vào IPT? Theo bác sĩ Ross Hauser: “Hầu hết dược phẩm không vượt qua đầy đủ hàng rào máu-não. Hàng rào máu-não làm chậm sự thâm nhập của nhiều hợp chất vào trong não, bao gồm cả tác nhân hóa trị liệu. Về mặt lý thuyết, nếu có cách tăng sự vận chuyển các chất vào trong hệ thần kinh trung ương và đi qua rào cản, hiệu quả điều trị sẽ được cải thiện rất nhiều.”
Trên trang web www.caringmedical.com của mình, bác sĩ Hauser cũng nói: “Nhiều chất khác nhau có thể được sử dụng để tối ưu hóa hiệu quả tiêu diệt ung thư của hóa trị, ngoài insulin và dimethyl sulfoxide (DMSO)”. Những gì bác sĩ Hauser nói là các DMSO liên kết với một số loại hóa trị, và sau đó insulin mở màng các tế bào ung thư ra để điều trị hoá chất. DMSO / IPT là sự kết hợp “xui xẻo gấp đôi” uy lực của các liệu pháp điều trị, đặc biệt là đối với ung thư não. Kết hợp DMSO với IPT không được thực hiện tại nhà, có thể tìm một phòng khám IPT và thuyết phục họ kết hợp DMSO với IPT. Trong cuốn sách của bác sĩ Hauser, ông liệt kê các loại thuốc hóa trị liên kết với DMSO. Điều trị này cực kỳ hiệu nghiệm và không có tác dụng phụ, vì hầu như tất cả các loại thuốc hóa trị sẽ kết thúc bên trong các tế bào ung thư.
IPT hầu như không có tác dụng phụ. Chắc chắn không rụng tóc, không trở về nhà rùng mình trên giường vài ngày và không nôn ọe nặng nề. Thỉnh thoảng gặp chút buồn nôn trong một vài giờ sau mấy lần đầu điều trị, nhưng điều này cũng dễ dàng kiểm soát. IPT rất khắc nghiệt đối với các khối u, nhưng lại rất nhẹ nhàng cho bệnh nhân tiếp tục sống một cuộc sống bình thường trong khi đang điều trị. Điều trị kéo dài khoảng hơn một giờ đồng hồ, nên hầu hết bệnh nhân có thể tiếp tục làm các công việc thông thường của họ với những đợt điều trị hàng tuần này. Nhưng tại sao bác sĩ của bạn không biết về liệu pháp điều trị hiệu quả, ít tốn kém, ít gây hại này? Câu trả lời rất đơn giản: FDA không chấp thuận nó, ngoại trừ là một “quy trình thí nghiệm”.
Tại sao bác sĩ chuyên khoa ung thư của bạn không biết về điều này nếu như nó đã xuất hiện hơn 60 năm rồi? Đó không phải vì nó không được minh chứng bằng tài liệu cho Big Medicine và Big Pharma – có rất nhiều nghiên cứu đã được công bố trên các tạp chí chuyên ngành. Nhưng hãy nhớ, nếu bạn còn nghi ngờ, đó là theo dấu vết đồng tiền. Hãy thử cùng nhau “làm toán” và tìm ra cách điều trị nào có lợi hơn – hóa trị truyền thống hay IPT. Vâng, vì IPT chỉ sử dụng 1/10 lượng thuốc hóa trị đắt tiền, tôi đoán chúng ta đã tìm ra câu trả lời, phải vậy không?
Một bệnh nhân ung thư điều trị hóa trị chính thống sẽ sản sinh hàng trăm ngàn đô la lợi tức cho Công nghiệp ung thư. Điều trị đơn giản và hiệu quả như IPT sẽ cắt giảm nghiêm trọng lợi nhuận của họ, phải vậy không? Đáng buồn thay, như chúng ta thấy hết lần này đến lần khác, lợi nhuận được ưu tiên hơn nguyên tắc đạo đức.
Kết quả là, IPT vẫn bị bỏ qua như một liệu pháp điều trị ung thư thay thế hiệu quả hơn nhiều so với hóa trị chính thống.
IPT tồn tại như một liệu pháp từ năm 1930 và đã được sử dụng thành công trong điều trị ung thư từ tháng giêng năm 1946. Đầu tiên IPT được bác sĩ Sir. Donato Perez Garcia phát triển vào năm 1930 để điều trị các bệnh thoái hóa mạn tính. Nhiều năm sau, con trai ông (bác sĩ Donato Perez Garcia II) và cháu trai ông (bác sĩ Donato Perez Garcia III) vẫn tiếp tục sử dụng thành công liệu pháp này cho hàng ngàn bệnh nhân. Bác sĩ Donato Perez III, người đăng ký nhãn hiệu tên hiện tại của điều trị này, IPTLD, hiện đang điều hành một phòng khám ở Tijuana, Mexico. Bạn có thể tìm hiểu thêm về bác sĩ Perez và phòng khám của ông tại www.iptldmd.com và có thể liên hệ với ông qua drdonato3@iptldmd.com.
LifeOne
LifeOne là sự kết hợp rất đặc biệt của các thành phần thảo dược tự nhiên dạng lỏng ràng buộc trong dạng vi thể mỡ đặc biệt. Vi thể mỡ này cho phép toàn bộ lợi ích của các thành phần thảo dược năng động được giữ nguyên vẹn, không bị chia nhỏ trong đường tiêu hóa. Vi thể mỡ này cho phép các phần tử thảo dược năng động gây hiệu ứng đầy đủ lên hệ miễn dịch, khối u ác tính và vi-rút. Các hoạt chất trong LifeOne bao gồm các loại thảo dược và các thành phần tự nhiên sau đây:
· Chrysin – một flavonoid có nguồn gốc từ hoa lạc tiên (hoa chanh dây) có khả năng chống ô-xy hóa và làm tăng nhân tố hoại tử khối u.
· Coriolus versicolor – một loại nấm Trung Quốc chống vi-rút có các hiệu ứng chống ung thư, kích thích hệ miễn dịch và ức chế sự xâm nhập của các tế bào ung thư.
· Diindolymethane – một hóa thực vật tìm thấy trong họ Cải có tác dụng chống estrogen trên các tế bào ung thư.
· Resveratrol – một chất chống ô-xy hóa có trong nho, giúp ngăn chặn tiểu cầu vón cục, ngăn cản kháng insulin, ức chế hoạt động bất thường của estrogen và ngăn chặn vi-rút sao chép và tăng trưởng.
· Chiết xuất Tumeric (nghệ) – chất chống ô-xy hóa ngăn cản viêm rất tốt, ức chế kháng insulin, ức chế di căn trong cơ thể, và có hiệu ứng có lợi lên vi-rút HIV tái sinh.
· Quercetin – một flavonoid tạo ra quá trình chết tự nhiên ở các tế bào ung thư.
· Chiết xuất trà xanh – chứa Epigallocatechin là tác nhân chính chống ung thư và chống ô-xy hóa.
· Selenium Methionine – dạng hữu cơ của selen, là chất chống ô-xy hóa, có tác dụng chống ung thư trong cơ thể, kích thích hệ miễn dịch, giúp phục hồi trị số selen thấp ở bệnh nhân ung thư và AIDS.
LifeOne cung cấp điều kiện cần thiết cho cơ thể để phục hồi khỏi ung thư, AIDS và các bệnh suy giảm miễn dịch khác. Trong tháng đầu tiên điều trị LifeOne, thường thấy trọng lượng và huyết áp giảm. Việc giảm cân được giải thích bởi việc cải thiện chức năng nội tiết với sụt giảm mức sản xuất estrogen (đảo ngược estrogen thừa phổ biến ở hầu hết mọi người). Với ít estrogen, độ nhạy insulin được khôi phục và cơ thể bắt đầu đốt cháy glucose bình thường.
Cơ chế hoạt động của LifeOne bao hàm huy động những lymphô bào hủy diệt tấn công các tế bào ác tính, cũng như tiêu diệt nhiều vi-rút có hại, và sửa chữa hệ miễn dịch bị tổn thương (luôn gặp ở bệnh nhân ung thư). Nó thực hiện điều này bằng cách kích thích sản xuất các lymphô bào hủy diệt và các lymphô bào khác làm tăng sản xuất kháng thể. LifeOne có hai bằng sáng chế của Mỹ là sản phẩm chữa miễn dịch. Các thử nghiệm lâm sàng LifeOne ở bệnh nhân ung thư và HIV đã được tiến hành ở Venezuela và Mexico.
Liều tiêu chuẩn khuyến cáo cho LifeOne là hai muỗng canh (30 gam) ba lần mỗi ngày trong 25 đến 30 ngày. Sau đó giảm xuống một muỗng canh (15 gam) trong 11 tháng. Bệnh nhân ung thư không chạy hóa trị và xạ trị có thể trải nghiệm một cảm giác thư thái và tăng cường sức sống trong vòng bốn hoặc năm ngày kể từ ngày bắt đầu sử dụng LifeOne. Theo bác sĩ quá cố Jim Howenstine: “LifeOne có thể chữa rất nhiều loại tế bào ung thư. Xét nghiệm ống nghiệm cho thấy hiệu quả trên cả bảy loại tế bào ung thư được xét nghiệm, bao gồm cả hai loại ung thư vú, kết tràng, tiền liệt tuyến, cổ tử cung, buồng trứng và ung thư bạch cầu tiền tủy bào cấp tính.”
Không như những liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên khác, LifeOne đã trải qua xét nghiệm trong phòng thí nghiệm trên một số dòng tế bào ung thư. Những xét nghiệm này chứng minh tính hiệu quả của sản phẩm đối với các dòng tế bào khác nhau ở những nồng độ khác nhau. Bác sĩ Valerie Beason đã làm xét nghiệm này khi bà công tác tại NIH và NCI. Các xét nghiệm cho thấy LifeOne thực sự tiêu diệt tất cả bảy dòng tế bào ung thư được xét nghiệm, mặc dù các loại tế bào ung thư rất đa dạng. Quan trọng không kém, nó cũng cho thấy không gây tổn hại gì cho các tế bào bình thường.
LifeOne cũng đã được bác sĩ Joe Demers thí nghiệm trên động vật. Vật thí nghiệm đầu tiên của ông là hai con chồn có khối u thượng thận ác tính. Sau khi cả hai hoàn toàn bình phục, ông xét nghiệm đến chó và các động vật khác. Do sự thành công của mình, trong cuốn sách A Holistic Approach for the Treatment of Cancer (Phương pháp tiếp cận toàn diện trong điều trị ung thư) ông khuyến cáo LifeOne là lựa chọn đầu tiên của ông để điều trị ung thư ở động vật. Kết hợp với công trình của bác sĩ Demers với những con vật nhỏ, bác sĩ Toots Banner đã thử nghiệm LifeOne trên ngựa với thành công lớn. Thí nghiệm trên động vật tiến hành trong nhiều năm đã chứng minh LifeOne là liệu pháp hiệu quả nhất và an toàn nhất cho động vật.
Các thí nghiệm ngoài cơ thể cho thấy LifeOne có hiệu quả đối với tất cả bảy dòng tế bào được thử nghiệm, lâm sàng cũng cho thấy hiệu quả như thế trong điều trị bệnh nhân ung thư gan, ung thư thận, u nguyên bào đệm đa dạng, xâm lấn ung thư tế bào tuyến carcinoma, ung thư thần kinh đệm ít nhánh, ung thư phổi và ung thư phổi tế bào nhỏ, cũng như bàng quang, kết tràng, buồng trứng, tuyến tụy, u hắc tố, ung thư mô liên kết, và u não.
Tất cả thí nghiệm về LifeOne được thực hiện độc lập, không bác sĩ hoặc bác sĩ thú y nào được trả tiền cho nghiên cứu của họ. Các bác sĩ này tham gia làm các nghiên cứu bởi họ tích cực tìm kiếm các liệu pháp điều trị tốt hơn. Bạn có thấy sự khác biệt trong cách tiếp cận này trái ngược với đặc trưng thử nghiệm thuốc hối lộ và tham nhũng của Big Pharma không?
Một người ủng hộ rất mạnh mẽ cho LifeOne là bác sĩ Paul La Rochelle, ông là bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình và phẫu thuật chuyên khoa ung thư. Bác sĩ La Rochelle đã sử dụng LifeOne trên vô số bệnh nhân được chẩn đoán các loại ung thư giai đoạn IV, từ vú tới gan và nhiều ung thư khác. Ông chưa bao giờ thất bại trong việc kiểm soát ung thư bằng cách sử dụng LifeOne. Ông cảm thấy vấn đề lớn nhất trong điều trị bệnh ung thư không phải là ung thư, mà là sự thiếu hụt kiến thức của các bác sĩ. “Việc phát hiện nguyên nhân ban đầu của suy yếu hệ miễn dịch đòi hỏi phải được đào tạo, thứ mà hiện nay đơn giản là không được dạy trong trường y. Nó phức tạp hơn là đề nghị dùng thuốc cho triệu chứng.”
Những bệnh nhân đã qua hóa trị hoặc xạ trị trước khi bắt đầu LifeOne thường có đáp ứng chậm hơn so với những người khác, nhưng chậm đáp ứng có thể được giải quyết hiệu quả bằng cách sử dụng De Aromatase cùng với LifeOne. De Aromatase cũng cực kỳ có lợi khi sử dụng với các dòng tế bào ung thư nhạy cảm estrogen. Nó là một sản phẩm tự nhiên dùng để cân bằng nội tiết tố cho cả đàn ông và phụ nữ, cải thiện chức năng của hệ nội tiết (tuyến yên, vùng dưới đồi, tuyến thượng thận và tuyến giáp).
Những yếu tố cản trở đáp ứng nhanh với LifeOne gồm: đường máu cao, không được chẩn đoán và / hoặc không được điều trị nhiễm trùng do vi khuẩn và nấm, tổn thương cơ quan do hóa trị và xạ trị, kém thích hợp với chế độ ăn glycemic thấp, không nhận biết tuyến thượng thận suy và chức năng nội tiết tố bất thường – thông thường nhất là estrogen quá cao ‒ cùng với thiếu testosterone và progesterone tương xứng.
Giai đoạn đầu điều trị LifeOne luôn gây phản ứng viêm ở bất cứ nơi nào có các tế bào ung thư, vì nó kích thích lymphô bào hủy diệt tấn công các tế bào ung thư. Điều này không gây ra triệu chứng gì ở khoảng 80% bệnh nhân. Ở những người bị u não, u mô chèn ép các dây thần kinh và trong những tình huống mà khối u tập trung làm tắc việc nuốt hoặc hô hấp, đáp ứng viêm này cần phải giảm thiểu. Việc này dễ dàng thực hiện với những liều lượng sinh lý của hydrocortisone hay cortef. Phản ứng này thường có thể bắt đầu ngay từ ngày thứ ba hoặc thứ tư sử dụng LifeOne.
Ở những người có hệ thống miễn dịch khỏe hơn, phản ứng này có thể kéo dài từ 14 đến 18 ngày. Những người bị tổn hại hệ miễn dịch nghiêm trọng không thể bắt đầu phản ứng tận 10 đến 14 ngày sau khi điều trị LifeOne kết thúc. Chậm trễ xuất hiện phản ứng viêm có thể là lý do cần tiến hành tìm hiểu sâu hơn về những vấn đề tổn hại miễn dịch. Vấn đề miễn dịch thường gồm không nghi ngờ hoặc chẩn đoán nhầm viêm nhiễm nấm và vi khuẩn. Do khả năng can thiệp với chức năng thích hợp của LifeOne, những người phát triển LifeOne tin rằng thường nên hoãn giải độc cho đến khi hoàn thành 12 tháng điều trị LifeOne.
Cây trúc đào
Trong những năm đầu thập niên 1960, một bác sĩ Thổ Nhĩ Kỳ tên là H. Zima Ozel đã phát hiện ra một nhóm dân làng người Thổ khỏe mạnh kỳ lạ và không bệnh tật. Khi tiếp tục điều tra, ông phát hiện ra rằng những người dân khỏe mạnh đều sử dụng một phương thuốc dân gian đã được sử dụng ở Trung Đông trong hơn hai thiên niên kỷ. Phương thuốc này dựa trên loại cây phổ biến có đề cập trong Kinh Thánh là “hoa hồng sa mạc”, hay còn gọi là cây trúc đào. Cây này có độc tính cao khi ăn sống, nhưng nếu chuẩn bị đúng cách thì lại là phương thuốc tuyệt vời.
Từ “cây trúc đào” đề cập đến hai loài thực vật: Trúc đào (Nerium oleander – trúc đào chung) và Thông thiên (Thevetia peruviana – trúc đào vàng). Cả hai loài này có chứa các hóa chất gọi là cardiac glycoside có tác dụng tương tự như thuốc tim digoxin, có thể gây độc. Tuy nhiên, hầu như mỗi chất con người đưa vào miệng đều là độc hại nếu dùng quá liều lượng. Đường là độc hại nếu ăn quá nhiều. Muối cũng thế.
Hãy trở lại bài học lịch sử trúc đào của chúng ta. Sau khám phá, bác sĩ Ozel nộp đơn xin cấp bằng sáng chế. Trong đơn xin cấp bằng sáng chế, ông đã đề cập một số tình huống nghiên cứu và một nghiên cứu bao gồm 494 bệnh nhân. Đây là đoạn trích trong đơn xin cấp bằng sáng chế: “Trong khoảng từ tháng 1 năm 1981 đến tháng 12 năm 1985, 494 bệnh nhân không thể mổ, mắc các bệnh ác tính cấp đã được thử nghiệm NOI (tiêm trúc đào). Mọi khối u ác tính đều được chẩn đoán trước đây tại các cơ sở y tế chuyên ngành ở Thổ Nhĩ Kỳ và nước ngoài. Các khối u ác tính của các bệnh nhân này đã tiến triển đến tình trạng mà các liệu pháp chống ung thư hiện có không còn mang lại hiệu quả. 494 trường hợp này bao hàm những ví dụ của hầu hết tất cả các loại u ác tính khác nhau, được tìm thấy trong các cơ quan khác nhau”.
494 bệnh nhân này được cải thiện chất lượng sống, ung thư thuyên giảm và không bị tác dụng phụ nào đáng kể. Kết quả tốt nhất được cho là đối với ung thư tuyến tiền liệt, phổi và não. Ngay cả ung thư mô liên kết cũng cho thấy sự ổn định. Phải chăng cây trúc đào khi chuẩn bị đúng cách và dùng chuẩn xác lại là độc tố ưa thích cho tế bào ung thư? Bạn còn nhớ, điều đã được thừa nhận rộng rãi là có rất nhiều chất tự nhiên độc hại cho các tế bào ung thư nhưng vô hại cho các tế bào bình thường. Thực tế, có rất nhiều chất tự nhiên phù hợp với thể loại này. Ví dụ, nho concord tía có cả tá các chất đó. Một trong những mục tiêu của các nhà nghiên cứu ung thư thay thế là tìm các chất đủ độc để tiêu diệt tế bào ung thư, nhưng không quá độc để tiêu diệt tế bào bình thường.
Như tôi đã đề cập, trúc đào độc hại. Luôn phải xử lý với găng tay. Có nhiều cảnh báo an toàn khác khi làm việc với cây trúc đào. Chắc chắn nó rất độc hại… cho cả tế bào ung thư và tế bào bình thường. Nhưng khi chúng ta có thể pha loãng theo tỷ lệ thích hợp, nó vẫn độc cho các tế bào ung thư nhưng vô hại cho các tế bào bình thường!
Tony Isaacs đã viết cuốn sách eBook tốt nhất về cây trúc đào nhan đề Cancer’s Natural Enemy (Kẻ thù tự nhiên của ung thư). Nếu bạn có kế hoạch sử dụng phác đồ này, xin vui lòng truy cập www.rose-laurel.com và mua eBook này. Rất rẻ và phong phú thông tin.
Có một chương trong cuốn sách The Anti-Cancer and Disease Protocol (Phác đồ chữa bệnh và chống ung thư), mô tả chi tiết chương trình cực kỳ hiệu quả cho bất cứ ai muốn có nhiều cơ hội nhất để đánh bại ung thư và bệnh tật. Chương này có cả thông tin về làm sạch và giải độc, chế độ ăn uống, dinh dưỡng, xây dựng một hệ miễn dịch khỏe mạnh và thuốc bổ sung chống ung thư.
Sự thật giản dị và trung thực là trúc đào hoạt động cực kỳ tốt trong chống ung thư. Phương thuốc này có thể sử dụng độc lập, cùng với các thực phẩm bổ sung tăng cường miễn dịch khác, và thậm chí cả với các loại thuốc kê đơn và những liệu pháp điều trị chính thống như Big 3. Kết hợp trúc đào với hóa trị hoặc xạ trị sẽ hoặc là loại bỏ hoặc làm giảm bớt rất nhiều hoặc hầu như tất cả các tác dụng phụ có hại cho sức khỏe, bao gồm cả rụng tóc!
Có hai cách sử dụng trúc đào trong điều trị ung thư. Cách ưa thích nhất là uống viên nang hoặc chiết xuất, vì chúng đã được pha trộn để ở mức độ an toàn đối với con người nhưng là mức độc hại cho các tế bào ung thư. Bạn cũng có thể mua các viên nang và chiết xuất trúc đào tại www.sutherlandiaopc.com. Charlene và tôi dùng một vài viên nang này mỗi ngày như một biện pháp “phòng ngừa”.
Cách thứ hai sử dụng sản phẩm này là bạn tự làm “súp trúc đào”. Hãy coi chừng: Nếu bạn chọn tự làm súp, thì mặc dù nhân tố pha loãng hiện đã được thiết lập, bạn vẫn nên đọc và đọc lại vài lần Cancer’s Natural Enemy trước khi bắt đầu xử lý một cây trúc đào thật, vì cây trúc đào vốn độc hại. Thậm chí một lượng nhỏ nguyên liệu thô, nếu ăn phải, có thể gây tử vong.
Protocel (Entelev/Cancell)
Entelev ban đầu được Jim Sheridan Michigan hình thành và phát triển, ông là nhà hóa học, luật sư, và tín đồ Thiên Chúa. Ông bắt đầu nghiên cứu công thức của mình từ những năm 1930 và tiếp tục hoàn thiện cho đến những năm 1990. Ban đầu, Sheridan gọi sản phẩm của ông bằng tên khoa học KC49. Tuy nhiên từ khi ông tin rằng ý tưởng cơ bản của công thức là món quà từ Thiên Chúa, Sheridan đã đổi tên công thức thành “Entelev”, được lấy từ chữ Hy Lạp “entelechy” có nghĩa là “phần ấy của con người chỉ có Chúa biết”. Sau được đổi thành Cancell và hiện đang bán dưới tên Protocel.
Trong chương này, tôi sẽ sử dụng thuật ngữ Protocel đại diện cho dòng các sản phẩm bao gồm cả Entelev và Cancell. Ngay khi còn trẻ, Jim đã là một tín đồ Thiên Chúa và thường xuyên cầu nguyện Chúa dẫn dắt những bước đi, xin cho ông khả năng sử dụng trí tuệ của mình vì lợi ích của nhân loại, và thậm chí sớm có những khát vọng tìm cách chữa trị ung thư. Ông không hề biết rằng những lời cầu nguyện của ông được hồi đáp và những giấc mơ của ông đã trở thành hiện thực.
Là một tín đồ sùng đạo, Sheridan tin rằng công thức của ông một phần nhờ những nghiên cứu tiên tiến trong hóa học và một phần nhờ giấc mơ ông tin rằng đến từ Thiên Chúa. Ông từ chối bất kỳ khoản bù đắp tài chính nào và cho rằng Entelev là “món quà Thiên Chúa ban cho tất cả những đứa con của Ngài”. Sheridan dành cả cuộc đời cho nghiên cứu, hoàn thiện công thức và cố gắng đưa nó đến với những người khổ đau trên thế giới. Khi công thức của ông không được phê chuẩn, ông cho không sản phẩm. Lòng vị tha ấy thật hiếm có.
Đó là gì và hoạt động như thế nào? Protocel được tạo ra để đặc biệt nhắm tới các tế bào kị khí trong cơ thể bằng cách can thiệp vào việc sản xuất năng lượng ATP trong tất cả các tế bào trong cơ thể, từ đó giảm điện áp của mỗi tế bào trong khoảng 10% đến 20%. Lý do tôi nói Protocel nhắm tới các tế bào kị khí (ung thư) rất đơn giản. Tất cả các tế bào của cơ thể chúng ta đều có điện áp riêng biệt.
Các tế bào khỏe mạnh có điện áp rất cao, trong khi các tế bào xấu (kị khí) có điện áp rất thấp, bởi thực tế chúng tạo năng lượng thông qua lên men. Một chút suy giảm điện áp sẽ làm cho các tế bào ung thư kị khí giảm xuống đến điểm dưới mức tối thiểu chúng cần để tồn tại nguyên vẹn, do đó các tế bào này cơ bản là tự hủy hoại và vỡ vụn, hoặc phân giải vào các protein vô hại. Các tế bào khỏe mạnh của cơ thể thường có điện áp cao, nên hơi giảm điện áp do Protocel gây ra không làm tổn hại chúng.
Quá trình các tế bào của chúng ta sản xuất và phân phối năng lượng gọi là “hô hấp” hoặc “chuyển hóa” tế bào. Hầu hết mọi người đều nghĩ hô hấp giống như thở, nhưng mỗi tế bào sống trong cơ thể về mặt kỹ thuật tham gia vào hô hấp, bởi vì thuật ngữ “hô hấp” cũng ám chỉ đến phản ứng hóa học trong tế bào bao gồm ô-xy cung cấp năng lượng cho tế bào. Phần quan trọng trong hệ hô hấp của mỗi tế bào trong cơ thể của chúng ta là một quá trình gọi là giảm ô-xy hóa, còn được gọi là hệ thống khử.
Theo Jim Sheridan: “Hệ thống này có thể hình dung như một chiếc thang, mỗi phản ứng hóa học khác nhau xảy ra là một bậc thang… Những bậc dưới cùng của thang là những phản ứng hô hấp tương đối đơn giản hoặc ‘nguyên thủy’. Những phản ứng sơ khai ở bậc đáy thang diễn ra không cần sự có mặt của ô-xy. Những phản ứng hô hấp cao hơn đòi hỏi sự hiện diện của ô-xy. Nói chung, để giảm bớt, bạn di chuyển xuống các bậc thang phía dưới. Đối với quá trình ô-xy hóa, bạn di chuyển lên các bậc thang phía trên.”
Cơ sở khoa học cho Protocel là đặt dẫn lưu năng lượng dài hạn trên các tế bào ung thư. Hiện nay, các tế bào chịu dẫn lưu năng lượng ngắn hạn suốt thời gian. Trở lại những năm 1990, tôi là vận động viên thi đấu thể hình. Tập luyện nặng gây ra những dẫn lưu năng lượng ngắn hạn cho các tế bào, sau đó các tế bào phục hồi tốt đẹp. Nhưng khi một tế bào trải qua dẫn lưu năng lượng dài hạn, bất chấp thực tế là tế bào bị quá tải, hô hấp vẫn sẽ tiếp tục, nhưng sự cân bằng của hệ hô hấp cuối cùng sẽ bị ảnh hưởng. Ví dụ, hút thuốc lá gây ra dẫn lưu năng lượng dài hạn với các tế bào phổi. Loại bệnh này gọi là bệnh mạn tính trong đó các tế bào hoạt động liên tục và không bao giờ nghỉ ngơi.
Dẫn lưu năng lượng dài hạn làm cho các tế bào di chuyển từ từ xuống các bậc của thang hô hấp. Miễn là có dẫn lưu năng lượng, sự di chuyển của tế bào xuống các bậc thang từ từ tiếp tục. Tuy nhiên, khi đạt đến điểm vào khoảng 85% đường xuống từ trên đỉnh thang thì các tế bào không rơi xuống bậc thang thêm nữa và tế bào duy trì “cân bằng”. Đây là mức thấp nhất tế bào có thể đi trên thang hô hấp và vẫn có những tương đồng đáng kể với tế bào bình thường và cũng là điểm cao nhất trên thang mà tế bào có những tương đồng với một tế bào sơ khai. Sheridan gọi điểm này là “điểm tới hạn” của thang hô hấp.
Điểm tới hạn là đường phân chia giữa các tế bào bình thường và các tế bào nguyên thủy và là điểm mà tại đó một tế bào trở thành ung thư. Một khi bị đẩy xuống đến điểm tới hạn, tế bào muốn ở trong trạng thái ổn định mới tại điểm 15% trên thang. Vấn đề với việc có một tế bào ở trạng thái ổn định tại điểm tới hạn là cơ thể không thực sự nhận biết tế bào ấy, do đó nó không biết làm thế nào để xử lý với tế bào. Nếu tế bào vẫn còn khỏe mạnh, nó sẽ tự biết làm thế nào để nạp năng lượng. Nếu tế bào ở bên dưới nữa của thang, cơ thể sẽ biết làm thế nào để thoát khỏi nó thông qua các quá trình tự nhiên. Nhưng tế bào ung thư lại nằm trên ranh giới giữa các tế bào bình thường và tế bào nguyên thủy.
Một trong những hóa chất làm suy giảm hô hấp là catechol. Các catechol tự nhiên có rất nhiều tiềm năng giảm ô-xy hóa. Protocel được tạo ra để tận dụng lợi thế của sự thực là tế bào ung thư “đứng giữa hàng rào” bằng cách tác động giống như catechol, ức chế hô hấp tại điểm tới hạn và buộc tế bào di chuyển xuống bên dưới thang hô hấp hơn nữa; theo đó, nó hoàn toàn ở trong giai đoạn sơ khai. Khi tế bào hoàn toàn ở trong giai đoạn sơ khai, cơ thể nhận ra nó và sẽ tấn công cũng như tống khứ nó một cách tự nhiên. Ở một số nơi (như não) cơ thể sẽ hình thành một lớp vỏ giống như màng xung quanh các tế bào nguyên thủy. Sẽ có các khối u nhưng nó đã chết và bị bao bọc xung quanh. Ở những nơi khác (ung thư da) cơ thể sẽ tiêu hóa nó một cách hiệu quả trong quá trình gọi là phân giải (tự tiêu hóa).
Nhưng việc giảm hô hấp tế bào có gây tổn hại cho các tế bào bình thường không? Câu trả lời rõ ràng và đơn giản là “không”. Nên nhớ, các tế bào bình thường làm việc tốt trong phạm vi khả năng sản xuất năng lượng vì chúng ở gần đỉnh thang hô hấp. Vì các tế bào bình thường hoạt động ở mức độ cao của hệ thống ô-xy hóa khử, nên nếu khả năng hô hấp của chúng giảm đi đôi chút thì cũng không có gì thực sự rắc rối đối với chúng.
Theo James Sheridan: “Không đòi hỏi chế độ ăn uống đặc biệt nào… Tuy nhiên, không dùng liều lớn vitamin C và E trong khi dùng Entelev/Cancell. Hóa chất tạo nên hai loại vitamin này dịch chuyển các điểm trên thang ô-xy hóa khử nơi Entelev/Cancell làm việc.
Vì Entelev/Cancell được tạo ra để tác động mạnh nhất tại ‘điểm tới hạn’, nên bất kỳ sự thay đổi nào cũng sẽ giảm hiệu quả của Entelev/Cancell.”
Căn cứ vào thực tế sự thành công của liệu pháp này xoay quanh việc đẩy các tế bào ung thư xuống hơn nữa bên dưới thang hô hấp, rõ ràng là bạn không nên sử dụng liệu pháp này kết hợp với các sản phẩm được dành để gia tăng sản xuất năng lượng tế bào.
Những sản phẩm cần tránh bao gồm co-enzyme Q10, selen, axit alpha lipoic, creatine, IGF, tảo xoắn, rong tiểu cầu và siêu tảo.
Ghi nhớ: Nếu chọn liệu pháp điều trị này, bạn phải tuân theo các hướng dẫn về thực phẩm bổ sung, thực phẩm, và các liệu pháp điều trị thay thế khác có thể kết hợp với Protocel.
Nhiều người thông báo có kết quả trông thấy từ ba đến năm tuần sử dụng. Trong khoảng hai tháng, hầu hết mọi người đều thấy có kết quả. Tôi nghe nói Protocel không thực sự “giết” bản thân các tế bào ung thư, mà đúng hơn là cho phép cơ thể loại bỏ các tế bào ung thư thông qua những phương cách thông thường như phân giải. Tuy nhiên, sau cuộc nói chuyện dài với Tanya Harter Pierce, tôi tin rằng Protocel thực sự tiêu diệt các tế bào ung thư. Đừng bận tâm đến cơ chế chính xác chữa ung thư, hãy kiên nhẫn, vì việc này có thể mất một chút thời gian.
Theo Webster Kehr: “Nếu liệu pháp điều trị Protocel kém hiệu quả hơn sau một thời gian, thì có thể có một vài khả năng. Trước tiên, bạn ăn (kể cả thực phẩm bổ sung) hoặc uống thứ gì đó can thiệp vào Protocel? Hãy kiểm tra thật cẩn thận. Thứ hai, có khả năng vấn đề phức tạp hơn. Lý do Protocel trở nên kém hiệu quả là vì Protocel không có khả năng tiêu diệt các tế bào ung thư kháng đa thuốc ‘Multiple-Drug Resistant – MDR’ (đặc biệt là nếu bệnh nhân đã hóa trị). Nếu thấy đây nguyên nhân bạn nên lập tức thêm Paw Paw vào điều trị. Paw Paw sẽ không chỉ tiêu diệt tế bào MDR, mà nó còn tăng cường hiệu quả của Protocel theo những cách khác.”
Trong những năm 1970, NCI bắt đầu tài trợ cho bác sĩ Jerry McLaughlin ở Đại học Purdue để tìm các chất thực vật có tiềm năng cản trở phân bào (giết ung thư). Ông đã thử nghiệm và sàng lọc hơn 3.500 loài thực vật và thấy các hợp chất acetogenins của họ annonaceae là có tiềm năng nhất. Đó là những acetogenin ông tìm thấy làm giảm đáng kể việc ty thể tế bào sản xuất ATP. Ông đã làm với các loài khác nhau của họ này, gồm cả Paw Paw và mãng cầu xiêm. Sử dụng một số kỹ thuật mô hình hóa học rất phức tạp, ông đã tìm thấy và tách ra được trên 50 acetogenin trong Paw Paw và 28 trong mãng cầu xiêm.
Những acetogenin này cơ bản là chuỗi dài các nguyên tử carbon, nó làm giảm một cách hiệu quả sự tăng trưởng của các mạch máu nuôi dưỡng tế bào ung thư và đồng thời ức chế sự tăng trưởng các tế bào MDR. Cả Paw Paw và mãng cầu xiêm đều có thể sử dụng để nâng cao hiệu quả của Protocel như chúng ngăn chặn sản xuất ATP, do đó làm giảm điện áp của tế bào cho đến khi về cơ bản nó sụp đổ qua quá trình chết tự nhiên ở tế bào. Tuy nhiên, theo bác sĩ McLaughlin, Paw Paw hiệu quả hơn nhiều so với mãng cầu xiêm. Các thử nghiệm được thực hiện dưới sự chỉ đạo của bác sĩ McLaughlin trên hai sản phẩm hàng đầu của mãng cầu xiêm cho thấy Paw Paw có từ 24 đến 50 lần tiềm năng cản trở phân bào hơn so với mãng cầu xiêm.
Sự kết hợp của Paw Paw hoặc mãng cầu xiêm với Protocel là cocktail mạnh “chống ung thư”. Để tối đa hóa hiệu quả của cocktail này, uống 6 giờ một lần, uống thật đúng giờ, đều đặn 24 giờ một ngày, 7 ngày một tuần. Như tôi đã đề cập trước đó trong chương này, đã có giả thuyết Paw Paw và mãng cầu xiêm (giống Protocel) không hiệu quả nếu chúng được kết hợp với các chất chống ô-xy hóa nào đó. Hiện tại vẫn còn đang tranh cãi.
Để an toàn, xin khuyến cáo bạn không dùng vitamin C và vitamin E với những sản phẩm này, vì hai chất chống ô-xy hóa này làm tăng ATP và do đó sẽ triệt tiêu hiệu quả của chúng.
Điều quan trọng cần lưu ý là Protocel là tên thương mại cho các công thức. Protocel 23 là tên thương mại cho Entelev, và Protocel 50 là tên thương mại cho Cancell. Cái tên Protocel được đưa ra ngay trước khi Sheridan mất.
Tôi phải khen ngợi Tanya Harter Pierce về nghiên cứu tuyệt vời của bà về Protocel. Nhiều thông tin trong chương này lấy trực tiếp từ nghiên cứu của bà, các cuộc trò chuyện điện thoại và email giữa tôi và bà. Tôi không thể nói hết những điều tốt đẹp về cuốn sách Outsmart Your Cancer (Khôn ngoan hơn ung thư) của bà. Đó là nguồn thông tin tuyệt vời về các phác đồ điều trị Protocel. Nếu chọn sử dụng Protocel, thì bạn phải mua cuốn sách của bà ấy. Đây là sách “buộc phải đọc” và có tại trang web: www.outsmartyourcancer.com.
Sodium Bicarbonate
(Bác sĩ Tullio Simoncini)
Mặc dù thực tế tôi không đồng ý với tiên đề cơ bản của liệu pháp điều trị này (ung thư là một loại nấm), nhưng tôi phải đưa vào chương này vì đã có số đông bệnh nhân ung thư được chữa khỏi hoàn toàn nhờ sử dụng liệu pháp này. Một số thông tin lấy từ Vicente Estoque và tôi cám ơn ông về nghiên cứu của ông.
Bác sĩ Tullio Simoncini là bác sĩ người Ý có cách tiếp cận độc đáo để điều trị ung thư: ông sử dụng sodium bicarbonate, một hợp chất hóa học có công thức NaHCO3. Tất nhiên, bạn có thể đã quên từ lâu môn hóa học ở trường trung học và không quen thuộc với sodium bicarbonate… nhưng tôi cá là bạn đã nghe nói về thuốc muối!
Thuốc muối được sử dụng rộng rãi như thuốc giảm axit trong dạ dày để giảm nhẹ tạm thời rối loạn tiêu hóa, để chỉnh sửa sự nhiễm axit trong rối loạn thận, để “kiềm hóa” nước tiểu khi bàng quang bị nhiễm trùng và giảm thiểu axit uric kết tinh trong quá trình điều trị bệnh gút. Nhưng theo Simoncini, sodium bicarbonate rất hiệu quả khi nói đến ung thư mô. Liệu pháp điều trị thuốc muối của Simoncini dựa trên thuyết “ung thư là một loại nấm”, đó cũng là tựa đề của cuốn sách của ông. Trong khi tôi không đồng ý với tiên đề của ông, cụ thể ung thư là một loại nấm, ông đã có những thành công tuyệt vời với liệu pháp này.
Có lẽ thành công là do thực tế thuốc muối làm ngập tế bào ung thư với sóng va chạm của kiềm và ô-xy, do đó đảo ngược tình trạng thiếu ô-xy luôn gắn liền với các mô ung thư. Hoặc có lẽ nó hiệu quả vì so sánh mô ung thư với mô khỏe mạnh cho thấy mô ung thư luôn luôn có nồng độ các hóa chất độc hại và thuốc trừ sâu cao hơn so với mô bình thường, và sodium bicarbonate sở hữu đặc tính hấp thụ kim loại nặng, dioxin, và furan. Có lẽ đó là sự kết hợp của cả hai. Hoặc có lẽ có một liên kết nấm với ung thư. Trong mọi trường hợp, bất kể cơ chế diệt ung thư như thế nào, không nghi ngờ gì nữa, hàng ngàn bệnh nhân ung thư tin rằng liệu pháp điều trị sodium bicarbonate của Simoncini đã cứu sống họ.
Tác dụng phụ quan trọng nhất của điều trị này là khát nước và yếu mệt, không giống các liệu pháp điều trị truyền thống như hóa trị. Theo bác sĩ Simoncini: “Hóa trị thực ra phá hủy tất cả mọi thứ. Thực tế là nó làm kiệt quệ đáng kể tế bào tủy và máu, theo đó cho phép lan truyền nhiễm trùng rộng hơn. Nó gây nhiễm độc không thể phục hồi cho gan, do đó ngăn chặn thiết lập những yếu tố phòng thủ mới và hạ gục không thương tiếc tế bào thần kinh, theo đó làm suy yếu khả năng phản ứng của cơ quan và giao nộp nó cho những kẻ xâm nhập.”
Bác sĩ Simoncini tin rằng cách tốt nhất để loại bỏ một khối u là cho nó tiếp xúc với sodium bicarbonate càng sít sao càng tốt, bằng cách uống theo đường tiêu hóa, thụt cho trực tràng, thụt rửa cho âm đạo và tử cung, truyền tĩnh mạch cho phổi, não và hít cho đường hô hấp trên. Vú, hạch bạch huyết và các khối u dưới da có thể được điều trị bằng truyền dịch qua mô. Các cơ quan nội tạng có thể được điều trị bằng cách đặt ống thông thích hợp trong động mạch (của gan, tuyến tụy, tuyến tiền liệt, và chân tay) hoặc trong các khoang (của màng phổi hoặc màng bụng). Simoncini đưa ra giả thuyết rằng sodium bicarbonate phá hủy các nấm ở trung tâm các khối u ung thư.
Ông đã có báo cáo về các trường hợp khối u não (cả gốc và di căn) ngừng phát triển sau khi điều trị với dung dịch 5% sodium bicarbonate. Ông cũng thông báo thành công với ung thư tuyến tiền liệt, ung thư ruột, ung thư dạ dày, ung thư bàng quang, ung thư vú, ung thư lá lách, ung thư gan, ung thư phổi, ung thư họng, ung thư phúc mạc, ung thư tuyến tụy và các loại ung thư khác.
Theo bác sĩ Simoncini, liệu pháp này có thể tự áp dụng ở một số các loại ung thư (miệng, thực quản, dạ dày, trực tràng, ruột) nếu ung thư giới hạn ở các cơ quan và chưa di căn. Tuy nhiên, ông đề nghị có sự giám sát của bác sĩ trong những trường hợp này. Trong tất cả các trường hợp khác, bắt buộc phải có sự trợ giúp của bác sĩ để truyền, v.v..
Có rất nhiều mối tương quan và tương đồng giữa ung thư và nhiễm độc nấm. Có 400.000 loài nấm, trong đó có 400 loài là tác nhân gây bệnh. Năm 1990, Elizabeth Moore-Landecker tiết lộ nấm và độc tố nấm có thể gây ra các biến đổi và đột biến gen. Thực tế các độc tố nấm có thể gây ra ung thư không phải cho tất cả mọi người.
Sách giáo khoa về ung thư lâm sàng của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ nêu: “Độc tố nấm là chất gây ung thư nhiễm độc gen, tiếp xúc bắt đầu ở tử cung và trong sữa mẹ, tiếp nối trong suốt cuộc đời; đây là điều kiện thuận lợi cho nhiễm bệnh.”
Bác sĩ Doug Kaufman đã ghi nhận nhiều điểm tương đồng giữa ung thư và nấm. Chúng ta hãy xem một vài thực tế thú vị ông chỉ ra:
· Cả tế bào ung thư và nấm đều có thể chuyển hóa dinh dưỡng kị khí (không có ô-xy)
· Cả tế bào ung thư và nấm đều phải có đường để tồn tại và sẽ chết nếu không có đường
· Cả tế bào ung thư và nấm đều sản xuất axit lactic
· Cả tế bào ung thư và nấm đều có thể bị tác động bởi thuốc chống nấm.
Trong cuốn sách The Germ that Causes Cancer (Mầm mống gây ung thư), hoàn toàn đồng ý với bác sĩ Simoncini, Kaufman đưa ra giả thuyết rằng ung thư là nhiễm nấm rễ sâu mà hệ miễn dịch của chúng ta không nhận ra. Ông cũng tin rằng rất nhiều trong số thuốc kháng sinh bắt nguồn từ nấm có thể góp phần phát triển ung thư. Ông giả thuyết rằng có lẽ nhiều trường hợp ung thư được chẩn đoán nhầm và thực tế là nhiễm nấm. Nhiễm nấm không chỉ rất dễ lây lan, mà chúng còn liên quan chặt chẽ với ung thư bạch cầu (mọi bác sĩ chuyên ung thư đều biết). Ví dụ, vào năm 1999, bác sĩ Meinolf Karthaus đã quan sát ba trẻ em khác nhau bị “ung thư bạch cầu” đột nhiên thuyên giảm sau khi tăng gấp ba liều cocktail thuốc kháng nấm cho nhiễm nấm thứ cấp.
Theo bác sĩ Simoncini: “Phương pháp của tôi đã chữa khỏi cho mọi người trong 20 năm qua. Nhiều bệnh nhân của tôi đã phục hồi ung thư hoàn toàn, ngay cả các trường hợp đã bị chuyên khoa ung thư trả về”. Vậy tỷ lệ chữa khỏi của ông là gì? Bác sĩ Simoncini cho các số liệu thống kê sau đây: “Nếu là nấm nhạy cảm với sodium bicarbonate và kích thước khối u dưới 3 cm, tỷ lệ sẽ vào khoảng 90%, còn trong những trường hợp giai đoạn cuối mà tình trạng sức khỏe bệnh nhân khá tốt thì tỷ lệ là 50%”.
Bác sĩ Simoncini có trái tim nhân hậu và mong muốn của ông là chữa cho tất cả mọi người mắc ung thư. Ý định của ông thật cao cả – ông là người đáng kính và chính trực. Tôi nghĩ thật phù hợp để kết thúc phần này với một trích dẫn của bác sĩ Simoncini: “Điều ước sâu thẳm của tôi là làm cho liệu pháp này sẵn có cho toàn nhân loại.
Tôi hy vọng chắc chắn rằng sớm thôi, vai trò cơ bản của nấm trong phát triển bệnh về khối u sẽ được thừa nhận, vì vậy, với sự giúp đỡ của tất cả lực lượng hiện hữu của các cơ sở y tế, có thể tìm thấy các loại thuốc chống nấm và hệ thống liệu pháp điều trị có thể nhanh chóng đánh bại căn bệnh mang đến rất nhiều tàn phá đối với nhân loại mà không gây tổn hại và đau đớn”.
Liệu pháp chiếu xạ máu tia cực tím (UVBI)
Nghiên cứu đáng kể vào việc sử dụng tia cực tím (UV) trong điều trị bệnh đã được bắt đầu vào những năm 1870. Một trong những nhà nghiên cứu đầu tiên thử nghiệm chiếu UV là Niels Ryberg Finsen, người đoạt giải Nobel Y học và Sinh lý học năm 1903 cho liệu pháp điều trị UV của ông trên 300 bệnh nhân lupus ở Đan Mạch.
Một nhà nghiên cứu khác thử nghiệm liệu pháp chiếu là Kurt Naswitis, người trực tiếp chiếu xạ máu tia cực tím thông qua ống dẫn năm 1922. Sau đó, bắt đầu từ những năm 1920 và tiếp tục suốt những năm 1930, nhà khoa học – bác sĩ Emmett Knott ở Seattle tìm cách khai thác những đặc tính diệt khuẩn của tia UV để điều trị các bệnh nhiễm trùng máu. Liệu pháp chiếu xạ máu tia cực tím (UVBI) là tên khoa học chính xác cho cái mà trước đây gọi là liệu pháp quang sinh học, quang chuyển và phát quang hóa.
UVBI đã được sử dụng trong nhiều năm để vô hiệu hóa vi khuẩn, vi-rút, nấm, độc tố và những sinh vật xâm nhập khác. Liệu pháp này được thực hiện bằng cách chiếu xạ (tia UV) cho một lượng máu bệnh nhân tính toán cẩn thận (100-125 ml) trong khoảng 10 đến 30 phút, sau đó đưa máu trở lại vào cơ thể. Máu được chiếu xạ sau đó phát ra năng lượng quang tử cho phần còn lại của máu, kích thích một loạt những phản ứng thuận lợi và tạo ra một môi trường giàu ô-xy hóa. Việc này trở lại vô hiệu hóa độc tố, tăng lượng ô-xy, kích thích hệ miễn dịch, giảm độ nhớt máu, ức chế hình thành cục máu đông trong mạch lưu thông chính và cải thiện tuần hoàn máu bằng cách giãn mạch (mở rộng mạch máu). UVBI cũng giảm tập hợp tiểu cầu và kích thích ô-xy mức đơn tạo môi trường ô-xy hóa thúc đẩy sự tự hủy diệt của các tế bào bất thường (ung thư) qua quá trình tự chết của tế bào.
Mấu chốt để hiểu về hoạt động của UVBI là phát kiến của Alexander Gurvich vào năm 1922 rằng tất cả các tế bào sống thường phát ra biophoton (quang tử sinh học). Một photon là một hạt ánh sáng. Biophoton là đơn vị vật lý nhỏ nhất của ánh sáng được lưu giữ và sử dụng bởi tất cả các tổ chức sinh học (kể cả bạn). Năng lượng mặt trời cần cho sự sống tìm đường vào trong tế bào của bạn thông qua thực phẩm bạn ăn dưới hình thức những biophoton. Các tế bào hồng cầu đặc biệt nhạy cảm với ánh sáng và sẽ đáp lại bằng cách phát ra biophoton, nó trở lại kích thích các hồng cầu khác cũng làm như vậy. Vi khuẩn và vi-rút dễ bị tổn thương với bức xạ biophoton hơn những tế bào bình thường.
Các nhà nghiên cứu thời kỳ đầu đã lưu ý rằng UVBI có “tác dụng kép” lên hệ miễn dịch: những liều thông thường thì kích thích bạch cầu, còn liều cao lại tiêu diệt nhiều loại bạch cầu khác nhau. Hiệu ứng đầu là cơ sở giải thích đáp ứng miễn dịch về những tác dụng có ích của UVBI. Hiệu ứng thứ hai gợi ý nguyên nhân tại sao UVBI có vẻ như rất hiệu quả chống lại các bệnh tự miễn. Trong những rối loạn tự miễn dịch xuất hiện các tế bào T năng động chuyển hóa và các tế bào miễn dịch khác hấp thụ số lượng biophoton lớn hơn nhiều so với các tế bào cơ thể bình thường, và điều này tiêu diệt chúng, làm chậm hoặc ngưng bệnh. Như vậy, UVBI có thể là cả hai “kích thích miễn dịch” (immunostiumulatory) và “ức chế miễn dịch” (immuno-supperssive) tùy thuộc vào tập hợp tế bào nào được nói đến. Tương tự như vậy, liều UVBI ban đầu có thể kích thích tế bào nhưng liều lặp lại có thể cuối cùng lại ức chế hoặc tiêu diệt nó.
UVBI cũng ô-xy hóa và cải thiện các đặc tính của máu. Điều này xảy ra nhanh chóng sau khi truyền máu đã xử lý và có thể biến đổi các cụm tế bào hồng cầu thành máu chảy tự do trong vòng vài phút. Ô-xy hóa máu có thể có mối liên hệ với thực tế là UVBI tạo ra một lượng nhỏ ô-zôn trong máu. Những đặc tính đặc biệt nào đó của các tế bào hồng cầu cũng như con số tuyệt đối của chúng (25 nghìn tỷ ở người lớn) làm cho chúng đặc biệt hiệu quả như tác nhân của UVBI, đây được xem như liệu pháp miễn dịch tế bào hồng cầu. Việc kích thích các tế bào hồng cầu biến chúng thành “cánh tay thứ ba” của hệ miễn dịch. Cũng có khả năng những mảnh vỡ của vi khuẩn, vi-rút, và các tế bào bị phá hủy bởi UVBI tác động như một thứ “vaccine” trong huyết tương, thúc đẩy phản ứng miễn dịch. UVBI cũng đảo ngược ức chế chức năng giải độc của gan.
Bác sĩ Emmett Knott là người tiên phong trong liệu pháp này đã cùng với các cộng sự tìm cách giải thích chính xác liệu pháp điều trị UVBI có được hiệu quả điều trị như thế nào. Họ và các nhà nghiên cứu sau đó đã xác định được có hai khả năng:
1. UVBI phá hủy hoặc biến đổi vi-rút và vi khuẩn trong mẫu máu trích ra theo cách kích động hệ miễn dịch phản ứng khi đưa mẫu máu quay trở lại cơ thể và lần lượt phá hủy hầu hết hoặc tất cả các vi khuẩn hoặc vi-rút khác trong cơ thể; và
2. điều trị một phần nhỏ (5%) máu sau đó lan rộng suốt toàn bộ khối lượng máu sau khi trở lại cơ thể, và gây ra bức xạ thứ cấp tiêu diệt vi-rút, vi khuẩn và các tế bào máu trắng hoạt tính (bạch cầu).
Tạp chí Science Daily số ra ngày 02 tháng 11 năm 2007 có bài viết thú vị nêu bật các nhà khoa học tại Đại học Newcastle (Colin Self và Stephen Thompson) đã phát triển một công nghệ chống ung thư sử dụng ánh sáng UV để kích hoạt các kháng thể đặc trưng tấn công các khối u. Theo Giáo sư Colin Self: “Chúng tôi có một biện pháp có khả năng rọi sáng một khu vực để bật công tắc hệ miễn dịch nhằm tiêu diệt ung thư trong khu vực đó. Tôi cho là sự phát triển này tương đương với ‘thuốc tiên’ siêu đặc biệt. Có nghĩa là một bệnh nhân tới điều trị ung thư bàng quang sẽ được tiêm thuốc giả kháng thể. Bà ấy ngồi trong phòng chờ trong một giờ và sau đó trở lại để được chữa trị bằng tia sáng. Chỉ cần một vài phút liệu pháp tia sáng hướng đến khu vực của khối u sẽ kích hoạt các tế bào T gây ra hệ tự miễn dịch của cơ thể bà ấy để tấn công các khối u.”
Theo bác sĩ William Campbell Douglass, tác giả của một cuốn sách về liệu pháp tia sáng gọi là Into the Light (Vào trong Tia Sáng), UVBI mang lại kết quả đáng chú ý ở cả hai mặt: nhanh thuyên giảm ung thư và kéo dài cuộc sống bệnh nhân bị chẩn đoán mắc ung thư. Tại Trung tâm Ung thư Yale bác sĩ Richard L. Edelson đã phát triển hết sức thành công phương pháp chống u lymphô T-Cell da (CTCL) bằng cách sử dụng một biến thể UVBI. Ông gọi phiên bản này là “liệu pháp chuyển hóa miễn dịch”. Trong biến thể ấy, toàn bộ máu được xử lý, chứ không chỉ một mẫu nhỏ. Điều trị của bác sĩ Edelson (hết sức thành công) cũng rất tốn kém và ông chỉ chữa CTCL bằng phương pháp này. Tuy nhiên, tin tức tốt lành là có đủ lý do để tin rằng xử lý những mẫu máu nhỏ bằng ánh sáng tia UV có thể đạt hiệu quả như xử lý toàn bộ máu.
Theo lời bác sĩ Robert Rowen: “Nếu bạn làm cho máu thật sạch, khử hoạt tính các sinh vật bằng tia cực tím, và đưa trở lại vào cơ thể, thì cơ thể có thể nhìn thấy cấu trúc kháng nguyên của những sinh vật đó, hay nói cách khác, cấu trúc ba chiều. Cơ thể biết những sinh vật này đang ở đó, và các sinh vật này sẽ chết, vì thế chúng sẽ không làm tổn thương bạn. Sau đó cơ thể bạn có thể trông thấy các sinh vật đó và tạo ra đáp ứng miễn dịch hiệu quả hơn nhiều”.
Liệu pháp UVBI cần phải là một phần của tiếp cận đa chiều trong điều trị. Đó là liệu pháp điều trị hỗ trợ lý tưởng đối với ung thư ở chỗ nó bổ sung thêm ô-xy cho cơ thể, cắt cơn đau, giảm viêm, giảm nhiễm trùng. Lối sống, hệ miễn dịch, dinh dưỡng và giải độc, tất cả cùng với UVBI. Đừng quên, UVBI an toàn hơn nhiều so với Big 3.
Vitamin B17
Khi cha tôi qua đời hồi năm 1996, tôi bắt đầu hành trình nghiên cứu ung thư. Liệu pháp điều trị ung thư thay thế đầu tiên mà tôi phát hiện ra là Vitamin B17, còn gọi là Laetrile. Tôi thấy một video về nhà vô địch vật tay tên là Jason Vale, người đã được chữa khỏi ung thư bằng cách ăn những hạt táo và mơ (có chứa vitamin B17) và đọc rất nhiều thông tin hay trên trang web của anh ấy. Tính logic và khoa học của việc vitamin B17 tiêu diệt các tế bào ung thư đã hấp dẫn tôi. Liệu pháp Laetrile dựa trên lý thuyết cho rằng ung thư là hệ quả của thiếu hụt dinh dưỡng kết hợp với lý thuyết dưỡng mạc.
Trong những năm 1940, bác sĩ Ernst T. Krebs và con trai ông cùng các bác sĩ khác đã tham gia nghiên cứu công trình của Beard về lý thuyết dưỡng mạc với ung thư, và họ khẳng định ông đã đúng. Năm 1949, Krebs cha đã đăng một bài viết về nhiễm độc huyết thai nghén, vai trò của tuyến tụy và dưỡng mạc.
Trong những năm tiếp theo, nhóm cha và con đã tìm ra co-enzyme và khả năng ung thư là kết quả từ một bệnh thiếu vitamin. Trong những năm đầu thập niên 1950, họ đưa ra giả thuyết ung thư là do thiếu một hợp chất thực phẩm thiết yếu trong chế độ ăn uống của con người hiện đại, được xác định là một phần của họ nitriloside tìm thấy trong hơn 1200 loại cây ăn được. Krebs đã biết về vương quốc Hunza ở dãy Himalaya Bắc Pakistan, người dân ở đó được cho là “miễn dịch với ung thư”. Các bác sĩ Krebs cũng biết rằng người dân ở đó ăn một lượng lớn quả mơ, nhưng họ không tin rằng trái cây này chứa bất kỳ chất chống ung thư nào. Cho đến khi họ biết được rằng người Hunzakuts cũng ăn nhân hạt mơ, đó là một trong những nguồn giàu chất nitriloside nhất!
Nitrilosides đặc biệt thường thấy trong hạt quả mơ, đào, táo, hạt kê, giá đỗ, kiều mạch, và các loại trái cây và các loại hạt khác, gồm cả quả hạnh đắng. Bác sĩ Krebs có thể chiết xuất một số glycoside từ cây có chứa nitrolosides, và sau cùng nộp đơn xin cấp bằng sáng chế cho quá trình sản xuất một dạng chất chuyển hóa của các glycosides để sử dụng lâm sàng. Ông đặt tên cho nó là “Laetrile”. (LAE-vomandeloniTRILE-beta-glucuronoside).
Phải mất nhiều năm thử nghiệm lâm sàng thực tế trên toàn thế giới trước khi một mô hình được đề xuất giải thích tính thiết thực của Laetrile trong phòng ngừa cũng như điều trị ung thư, khi đó nó được mang tên “Vitamin B17”. Bây giờ, điều quan trọng là phải nhớ rằng một vitamin là một co-enzyme, điều đó về cơ bản có nghĩa là vitamin phải được liên kết với một enzyme để enzyme hoạt động tối ưu. Chúng tôi biết rằng tuyến tụy và các enzyme dựa vào nhiều yếu tố thiết yếu và co-enzyme. Hãy nhớ thông tin co-enzyme này cho chúng ta hiểu thêm một chút về người Hunzakut.
Người Hunzakut tiêu thụ B17 trong chế độ ăn uống của họ nhiều hơn từ 100-200 lần so với trung bình ở Mỹ, chủ yếu là do ăn hạt quả mơ và rất nhiều hạt kê. Điều thú vị là ở Hunza không có những thứ như tiền. Sự giàu có của một người được đo bằng số lượng cây mơ anh ta sở hữu. Và thực phẩm giá trị nhất là nhân hạt mơ, một trong những nguồn cung cấp B17 cao nhất trên Trái đất. Đội các bác sĩ thăm khám bệnh phát hiện người Hunzakut chưa từng mắc bệnh ung thư. Một trong những đội y tế đầu tiên nghiên cứu Hunza do nhà phẫu thuật người Anh nổi tiếng thế giới bác sĩ Robert McCarrison đứng đầu. Viết trên tạp chí AMA số 07 tháng 1 năm 1922, ông đã báo cáo: “Hunza được biết đến là không có ung thư. Người dân có vụ thu hoạch mơ phong phú. Họ phơi khô dưới ánh mặt trời và sử dụng nó rộng rãi trong thực phẩm của mình”.
Nhưng tại sao bạn lại không nghe nói về vitamin B17? Rất đơn giản! Vâng, thực tế là Công nghiệp ung thư ngăn chặn thông tin này và thậm chí còn làm cho việc bán B17 trở thành bất hợp pháp. Big Medicine gắn liền với những chiến dịch “đe dọa” rất thành công dựa trên thực tế là vitamin B17 chứa một lượng cyanide “nguy hiểm”. Điều này hiển nhiên là sai. Các nghiên cứu cho thấy vitamin B17 vô hại đối với mô khỏe mạnh.
Lý do là đây: Mỗi phân tử B17 có chứa một đơn vị của hydrogen cyanide, một đơn vị benzaldehyde và hai đơn vị glucose (đường) khóa chặt lại với nhau. Để hydrogen cyanide trở thành nguy hiểm thì điều cần thiết đầu tiên là mở khóa phân tử để giải thoát nó, thủ thuật này chỉ có thể được thực hiện bởi một enzyme gọi là beta-glucosidase, hiện diện khắp nơi trên cơ thể người chỉ với những số lượng rất nhỏ, thế nhưng với số lượng khổng lồ tại một nơi duy nhất: các tế bào ung thư.
Như vậy hydrogen cyanide được giải thoát chỉ tại vị trí ung thư cực mạnh và tàn phá dữ dội các tế bào ung thư vì benzaldehyde thoát ra cùng lúc. Các tế bào ung thư gặp phải hai thiên địch cyanide và benzaldeyhde! Benzaldehyde là chất cực kỳ độc, nhưng khi kết hợp với cyanide, thì độc tính tăng thêm 100 lần. Các tế bào ung thư thực sự bị xóa sạch!
Nhưng có gì gây hại cho phần còn lại của các tế bào trong cơ thể không? Có một enzyme khác là rhodanese luôn hiện diện với số lượng lớn hơn nhiều so với enzyme beta- glucosidase giải thoát trong các mô khỏe mạnh, có khả năng tách nhỏ hoàn toàn cả cyanide và benzaldehyde trở thành thiocyanate (một chất vô hại) và salicylate (là thuốc giảm đau tương tự như aspirin). Điều thú vị là các tế bào ung thư ác tính không hề chứa rhodanese, chúng hoàn toàn chịu trận trước hai chất độc chết chóc này. Toàn bộ quá trình này gọi là độc tính chọn lọc, vì chỉ nhắm tới và tiêu diệt các tế bào ung thư.
Bạn còn nhớ trước đây tôi quy cho vitamin B17 là một co-enzyme và nói rằng liệu pháp này dựa một phần vào lý thuyết dưỡng mạc về ung thư? Lý thuyết dưỡng mạc tập trung vào sự quan trọng của các enzyme tuyến tụy (trypsin, chymotrypsin và amylase) để tiêu hóa lớp phủ bảo vệ xung quanh các tế bào ung thư. Dưới đây là kết nối giữa lý thuyết này và vitamin B17: Trong sự hiện diện của các chất ức chế nhất định trong máu của chúng ta, trypsin bị khử hoạt tính và phải được tác động bằng hydrogen cyanide để hoạt động trở lại. Trên cơ sở đó, vitamin B17 tác động như một co-enzyme lên trypsin, vì nó cung cấp hydrogen cyanide, một phân tử vô hại kích hoạt trở lại trypsin cần thiết để tiêu hóa lớp bảo vệ tế bào ung thư. Thật hấp dẫn phải không?
Hàng trăm nghiên cứu lâm sàng tiến hành bởi nhiều bác sĩ giỏi trên toàn thế giới, bao gồm cả những nghiên cứu do bác sĩ Emesto Contreras lãnh đạo tại bệnh viện Oasis of Hope ở Mexico, cho chúng ta niềm tin trọn vẹn rằng điều trị B17 không gây ra mối đe dọa nào cho các tế bào bình thường. Đây là tin xấu cho Công nghiệp ung thư. Hạt mơ rất rẻ, còn lâu mới đắt như cocktail thuốc hóa trị liệu mới nhất của họ.
Những xét nghiệm laetrile lâu nhất và đình đám nhất từng có được thực hiện gần năm năm tại Trung tâm nghiên cứu ung thư có uy tín nhất của Mỹ, Trung tâm Ung thư Tưởng nhớ Sloan-Kettering ở New York. Bác sĩ Kanematsu Suguira, nhà nghiên cứu ung thư xuất sắc ở Mỹ đứng đầu nhóm các nhà nghiên cứu. Cuối cùng, ngày 15 tháng 6 năm 1977, họ ra thông cáo báo chí, “Laetrile được tìm thấy không có tác dụng phòng ngừa, cũng không thuyên giảm khối u, không chống di căn, cũng không có hoạt tính chống ung thư”.
Khi một phóng viên hỏi bác sĩ Sugiura “Ông có chắc chắn rằng laetrile làm ngừng sự lan rộng của ung thư không?” Ông trả lời: “Tôi chắc chắn”. Sau đó ông được hỏi lý do tại sao Sloan-Kettering không sử dụng laetrile để chống ung thư. Sugiura trả lời “Tôi không biết. Có lẽ ngành y không thích nó vì họ đang làm ra quá nhiều tiền”.
Bác sĩ Lloyd Schloen, nhà sinh học tại Sloan-Kettering, thực hiện thử nghiệm trên laetrile, nhưng ông cũng đã đưa vào các enzyme proteolytic để tiêm và đã báo cáo 100% tỷ lệ chữa khỏi những con chuột bạch của ông. Dữ liệu này buộc phải giấu đi. Sloan-Kettering đã hành động nhanh chóng. Họ tiến hành các thử nghiệm riêng được thiết kế để đối kháng với những phát hiện của Schloen. Sau đó, họ thay đổi biên bản của các xét nghiệm và lượng laetrile để chắc chắn rằng họ thất bại. Không ngạc nhiên, các xét nghiệm đã thất bại và đó là những gì họ báo cáo. Họ không thể để lọt tin đồn laetrile đã được chứng minh là chất tự nhiên và chữa ung thư hiệu quả. Điều này sẽ báo hiệu thảm họa kinh tế cho công nghiệp ung thư.
Phương pháp hiệu quả nhất trong điều trị B17 là truyền 6 gam dịch mỗi ngày một lần, thường dùng trong 3 tuần. Bạn nên bổ sung kẽm, vì nó là cái máy vận chuyển B17 trong cơ thể. Các nhà sinh hóa và các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng có thể cho bệnh nhân liều lớn B17, nhưng nếu bệnh nhân bị thiếu kẽm, thì B17 sẽ không đến được các mô của cơ thể. Các enzyme tuyến tụy cũng rất quan trọng với điều trị B17 do chúng hình thành tuyến phòng thủ đầu tiên để cơ thể chống lại ung thư. Nếu bạn có nguồn cung cấp các enzyme tiêu hóa này thấp thì sẽ khó khăn cho B17 làm việc. Ngoài ra, vitamin A nhũ thường được sử dụng như thực phẩm bổ sung cho điều trị B17. Và sử dụng liệu pháp laetrile tốt nhất là khi kết hợp với chế độ dinh dưỡng rất nghiêm ngặt, đôi khi với một chế độ ăn thực phẩm sống. Nếu bạn muốn dùng B17 phòng ngừa, bác sĩ Krebs khuyên mức tối thiểu 50 miligam mỗi ngày đối với người lớn khỏe mạnh bình thường.
Cuối cùng, một chút tin vắn: cây hạnh nhân đắng, một nguồn cung cấp tuyệt vời của nitriloside, đã bị nước Mỹ cấm vào năm 1995.