Ung thư – Sự thật, hư cấu, gian lận và những phương pháp chữa lành không độc hại (Cancer – Step Outside The Box)

Chương 4: ĐIỀU TRỊ ĐỘC HẠI

 

“Kết quả của hầu hết hóa trị liệu đều kinh khủng. Phương pháp này không có bất kỳ bằng chứng khoa học nào cho thấy khả năng kéo dài sự sống của bệnh nhân ung thư. Hóa trị là thứ vô dụng trong khoa học.”

 

Bác sĩ Ulrich Abel

BIG 3

Nếu bạn bị ung thư, rất có khả năng bác sĩ của bạn đã hay sẽ sớm tư vấn cho bạn rằng chỉ có phẫu thuật, hóa trị, và/hoặc xạ trị là các phương pháp điều trị khả thi. Nếu bạn có một khối u, bác sĩ sẽ cố gắng cắt bỏ hoặc “cắt bớt” nhờ phẫu thuật. Sau khi cắt bỏ, họ thường đề nghị hóa trị để cố gắng tiêu diệt mọi tế bào ung thư còn lại bằng “độc chất”. Và họ sẽ kết thúc bằng xạ trị, để “đốt cháy” các tế bào ung thư còn sót lại. Đấy là lý do tại sao tôi và nhiều người khác xem phác đồ của Big 3 là “cắt bỏ, đầu độc và thiêu đốt”. Đây là phác đồ độc hại mà tất cả chúng ta đã bị làm cho mê muội để tin đó là cách điều trị ung thư tốt nhất.

Hiện nay, với những tiến bộ trong y học hiện đại, người ta sẽ nghĩ rằng Big 3 đã cải thiện chẩn đoán ung thư, phải vậy không? Có phải hiện nay chúng ta có tỷ lệ chữa khỏi những người mắc bệnh ung thư lớn hơn so với năm 1950 không? Câu trả lời là “KHÔNG!”. Thực tế là thành tích của Big 3 rất thảm hại đến nỗi công nghiệp ung thư chỉ có thể coi đó là “thành công” nếu so sánh tỷ lệ sống sót của bệnh nhân điều trị theo Big 3 với tỷ lệ sống sót của bệnh nhân không điều trị gì cả! Các liệu pháp điều trị này đều xâm lấn, gây tác dụng phụ nghiêm trọng và chỉ điều trị triệu chứng, chứ không phải nguyên nhân gây ung thư.

Thực tế là Big 3 gây ra sự di căn và tái phát ung thư! Theo số ra ngày 21 tháng 9 năm 1989 của tờ New England Journal of Medicine, “Những ung thư thứ phát là biến chứng phổ biến của liệu pháp hóa trị và xạ trị điều trị u lympho ác tính Hodgkin và phi Hodgkin cũng như các ung thư nguyên phát khác”. Bác sĩ Lucian Israel, một bác sĩ chuyên khoa ung thư nổi tiếng, đã lưu ý trong cuốn sách của ông Conquering Cancer (Chế ngự ung thư) rằng một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng bệnh nhân ung thư trải qua xạ trị có nhiều khả năng bị di căn ung thư đến các bộ phận khác trong cơ thể. Các chất phóng xạ sử dụng để tiêu diệt tế bào ung thư cũng gây nên các quá trình đột biến ADN tạo nên những tế bào ung thư mới loại khác.

Trong cuốn sách The Cancer Industry (Công nghiệp ung thư), bác sĩ Ralph Moss nói: “Năm 1902, một bác sĩ người Đức ghi nhận trường hợp đầu tiên bức xạ gây ung thư ở người: khối u đã xuất hiện ở chỗ vết loét sâu do tiếp xúc với tia X. Nghiên cứu thực nghiệm được thực hiện vào năm 1906 đề ra giả thuyết rằng ung thư bạch cầu (ung thư máu) có thể phát sinh bởi tiếp xúc với nguyên tố phóng xạ radium. Vào năm 1911, 94 trường hợp ung thư do phóng xạ đã được báo cáo, hơn một nửa trong số họ (54) là các bác sĩ hoặc kỹ thuật viên. Năm 1922, hơn 100 bác sĩ X quang đã chết do tia X gây ra ung thư… Tôi từng tiếp một chuyên gia ung thư não tại phòng khách nhà tôi và biết được rằng ông sẽ không bao giờ làm xạ trị nếu bị u não. Tôi hỏi ông: “Nhưng, anh có gửi bệnh nhân đi xạ trị không?” và ông trả lời “Tất nhiên. Tôi sẽ bị tống ra khỏi bệnh viện nếu không làm thế.”

Theo bác sĩ Robert F. Jones, viết trên Seattle Times ngày 27 tháng 7 năm 1980 “Các biến chứng sau xạ trị liều cao đối với ung thư vú là: ngực teo, rạn xương sườn, sẹo màng phổi và/hoặc sẹo phổi, tổn thương dây thần kinh, sẹo xung quanh tim… ngăn chặn tất cả tế bào máu, ức chế miễn dịch… Nhiều biến chứng xạ trị chỉ xảy ra vài năm sau khi điều trị. Tủy xương, trong đó các tế bào máu được sinh ra, bị phá hủy phần lớn trong môi trường chiếu xạ… Đây là một hiệu ứng không thể đảo ngược.” Trong cuốn sách Understanding Cancer (Hiểu về ung thư), bác sĩ John Laszlo (một cựu phó chủ tịch về nghiên cứu của ACS) chỉ ra khi hóa trị và xạ trị được làm cùng nhau, khả năng xảy ra ung thư thứ phát cao gấp 25 lần so với mức bình thường.

Theo một nghiên cứu công bố trong Archives of Internal Medicine (2009), chụp cắt lớp vi tính (CT) gây ra ít nhất 29.000 trường hợp ung thư và 14.500 trường hợp tử vong ở Mỹ mỗi năm. Các nhà nghiên cứu thấy rằng những người này có thể đã chịu lượng bức xạ gấp bốn lần so với ước tính của các nghiên cứu trước đó. Dựa trên những đo lường chính xác hơn, một bệnh nhân có thể nhận lượng bức xạ từ một lần chụp CT tương đương 74 lần chụp X quang tuyến vú hoặc 442 lần chụp X quang ngực!

Hầu như tất cả các phẫu thuật ung thư là không cần thiết. Theo bác sĩ Patrick McGrady: “Mặc dù việc phẫu thuật cắt bỏ hạch bạch huyết sau khi xạ trị đã được chứng minh là không thể ngăn chặn sự di căn của ung thư cổ tử cung, nhưng việc này vẫn thường xuyên được thực hiện trên cả nước. Đây rõ ràng là một phẫu thuật vô ích, chưa kể còn khiến phụ nữ rất khó chịu, sống không bằng chết.”

Phẫu thuật thường là nguyên nhân cho sự di căn của ung thư, vì chỉ cần bác sĩ phẫu thuật phạm một sai lầm nhỏ hoặc xử lý bất cẩn mô khối u là có thể làm tràn hàng triệu tế bào ung thư vào máu của bệnh nhân. Sinh thiết cũng có thể dẫn đến lan truyền ung thư. Theo bác sĩ William Donald Kelley trong cuốn sách One Answer to Cancer (Giải đáp duy nhất cho ung thư): “Thường thì trong khi làm sinh thiết khối u ác tính được cắt ngang qua, và có xu hướng lan rộng ra hoặc thúc đẩy tăng trưởng. Kim sinh thiết có thể gây ra những kết quả bi thảm như vậy.”

Một báo cáo năm 1986 trên tờ New England Journal of Medicine đánh giá tiến bộ chống ung thư ở Mỹ trong những năm 1950 đến 1982. Mặc dù có tiến bộ với một số hình thức ung thư hiếm gặp, chiếm 1‒2 % tổng số ca tử vong do căn bệnh này, báo cáo cho thấy tỷ lệ tử vong tổng đã tăng lên đáng kể từ năm 1950. “Khoảng 35 năm nỗ lực mạnh mẽ tập trung trên quy mô lớn vào cải thiện điều trị cần được đánh giá là thất bại”. Bản báo cáo kết luận thêm “Chúng ta đang thua trong cuộc chiến chống ung thư.”

Khi Tổng thống Nixon tuyên bố “cuộc chiến ung thư”, các nhà nghiên cứu đã được tiếp cận hàng tỷ đô la tiền nghiên cứu dành cho nghiên cứu thuốc điều trị ung thư. Vì vậy, nếu là một bác sĩ y khoa kiếm tiền thông qua công bố nghiên cứu ung thư, tốt hơn là bạn đừng động đến hiện trạng (ví dụ Big 3), bởi vì nếu bạn làm vậy, sau đó bạn có thể bị rút tài trợ. Ví dụ, năm 1966, bác sĩ Irwin D. Bross và bốn đồng nghiệp đã công bố một loạt các bài báo mang tính đột phá nhan đề Is Toxicity Really Necessary (Độc tính có thực sự cần thiết không). Trong những bài viết này, họ chỉ đơn thuần đặt câu hỏi liệu có thể tìm thấy sự thay thế cho hóa trị và xạ trị, vì cả hóa trị và xạ trị đều rất độc hại. Kết quả là họ nhanh chóng bị mất tài trợ chính phủ cho các nghiên cứu thử nghiệm thuốc.

Hóa trị mang tính chất độc hại, gây ung thư, phá hủy các tế bào hồng cầu, tàn phá hệ miễn dịch, và giết chết các cơ quan quan trọng. Hóa trị độc như thế nào? Hãy nghĩ xem… tóc bạn rụng, hệ miễn dịch bị phá hủy, bạn liên tục buồn nôn, ốm yếu, thường xuyên chóng mặt, và nhức đầu dữ dội. Có phải những dấu hiệu đó cho thấy những thứ này có lẽ là chất độc và không thể truyền vào cơ thể chăng? Tôi không phải là bác sĩ, nhưng đây rõ ràng là một phương pháp kỳ quái để “chữa lành” cho người khác.

Một trong những điều khó hiểu là chúng ta đang bị mafia y tế và công nghiệp ung thư lừa gạt với số liệu thống kê giả mạo, kém khoa học và nhiều nghiên cứu gian lận. Theo Webster Kehr, “Sự vô dụng của phẫu thuật, hóa trị và xạ trị ẩn đằng sau một mê cung các số liệu thống kê sai sự thật và giả dối rất tinh vi, định nghĩa sai lạc, khái niệm và nhiều kỹ thuật vô nghĩa khác”.

Một khi “mổ xẻ” số liệu thống kê giả mạo của công nghiệp ung thư, bạn sẽ thấy tỷ lệ chữa khỏi thực (ví dụ, sống được 5 năm) của hóa trị chỉ hơn 2%. Thực tế là, theo một nghiên cứu tại Trung tâm Ung thư Bắc Sydney được công bố trên số ra tháng 12 năm 2004 của Clinical Oncology, tỷ lệ sống 5 năm sau hóa trị ở người Mỹ trưởng thành là con số không đáng kể – 2,1%.

Thật đáng buồn, sự thật là nhiều người “chết do ung thư” đã chết do các liệu pháp điều trị chính thống rất lâu trước khi họ chết vì ung thư. Nói thẳng, việc điều trị đã giết chết họ trước khi ung thư giết chết họ. Thực tế là, thuốc hóa trị “5FU” đôi khi được các bác sĩ ám chỉ là “dưới 5 tấc đất” vì tác dụng phụ nguy hiểm của nó. Đối với hầu hết ung thư ở người trưởng thành, viễn cảnh tốt nhất là Big 3 kéo dài chút thời gian. Trong trường hợp xấu nhất, bạn sẽ chết vì điều trị chứ không phải vì bệnh tật.

Nhưng đừng vội tin tôi, dưới đây là những gì bác sĩ Allen Levin nói về chủ đề này: “Hầu hết các bệnh nhân ung thư trên đất nước này đều chết do hóa trị. Hóa trị không loại bỏ được ung thư vú, kết tràng hoặc phổi. Thực tế này đã được ghi nhận trong hơn một thập kỷ, nhưng các bác sĩ vẫn sử dụng hóa trị đối với những khối u này.” Đúng vậy, Big 3 thực sự cho thấy đang làm giảm tuổi thọ bệnh nhân trong nhiều trường hợp.

Trong cuốn sách The Topic of Cancer: When the Killing Has to Stop (Chủ đề ung thư: Bao giờ chấm dứt giết chóc), Dick Richards trích dẫn một số nghiên cứu khám nghiệm tử thi cho thấy bệnh nhân ung thư thực sự chết do liệu pháp điều trị chính thống trước khi khối u có cơ hội giết họ. Chỉ cần nghĩ chút thôi. Hóa trị luôn được phát triển từ hóa chất độc hại, phải vậy không? Vì thế, luôn có một ranh giới mong manh giữa một “liều điều trị” và một liều giết chết bệnh nhân ung thư. Nhiều bác sĩ bước qua ranh giới đó. Trong cuốn sách When Healing Becomes a Crime (Khi chữa bệnh trở thành tội ác), Kenny Ausubel lưu ý rằng trong lần thử nghiệm về một loại thuốc hóa trị cho ung thư bạch cầu, một con số khổng lồ là 42% bệnh nhân tử vong trực tiếp từ độc tính của thuốc hóa trị!

Một điều đáng lưu ý là các thuốc hóa trị đầu tiên bắt nguồn từ các thí nghiệm khí độc mù tạt nitơ trong Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai. Người ta nhận thấy rằng tiếp xúc với khí mù tạt phá hủy các mô phát triển nhanh, do đó người ta phỏng đoán rằng do ung thư phát triển rất nhanh, các chất độc này có thể tiêu diệt mô ung thư. Vâng, họ đã đúng… tiếp xúc với những chất khí này tiêu diệt được mô ung thư. Hóa trị và xạ trị làm nhỏ đi kích thước khối u và tiêu diệt các tế bào ung thư. Nhưng thu nhỏ một khối u có tương đương với chữa khỏi ung thư không? Có một mối tương quan trực tiếp nào không? Câu trả lời là “không”.

Theo bác sĩ Ralph Moss: “Nếu có thể thu nhỏ các khối u 50% hoặc hơn trong 28 ngày, bạn sẽ được xác nhận của FDA là thuốc có hiệu quả. Cái đó gọi là tỷ lệ đáp ứng, vì thế bạn có một sự đáp ứng… (nhưng) khi nhìn lại xem liệu có bất kỳ sự kéo dài cuộc sống nào từ việc điều trị này không thì những gì bạn thấy toàn là các loại phù phép và đánh trống lảng về người sống sót khỏi bệnh. Cuối cùng không có bằng chứng hóa trị trong phần lớn các trường hợp thực sự kéo dài tuổi thọ và đây là lời nói dối vĩ đại về hóa trị rằng bằng cách nào đó lại có một mối tương quan giữa thu nhỏ một khối u và kéo dài tuổi thọ bệnh nhân”.

Dưới đây là các sự kiện. Năm 1942, Trung tâm Ung thư Tưởng nhớ Sloan-Kettering lặng lẽ bắt đầu điều trị ung thư vú với các dẫn xuất khí mù tạt. Không ai được chữa khỏi. Hóa trị cũng được tiến hành tại đại học Yale khoảng năm 1943 với 160 bệnh nhân. Một lần nữa, không ai được chữa khỏi. Thế nhưng, do hóa trị thu nhỏ được khối u, các nhà nghiên cứu đã rất phấn khích và họ tuyên bố thử nghiệm hóa trị đã “thành công”. Tôi cho rằng chúng ta cần phải xác định chính xác “thành công” nghĩa là gì, đúng không?

Trong một lá thư táo bạo gửi cho bác sĩ Frank Rauscher (sếp của ông tại NCI), bác sĩ Dean Burk lên án chính sách của Viện tiếp tục ủng hộ các loại thuốc hóa trị khi tất cả mọi người đều biết rằng chúng gây ra bệnh ung thư. Ông tranh luận: “Trớ trêu thay, hầu như tất cả các chất hóa trị chống ung thư được FDA phê duyệt hiện nay để sử dụng hoặc thử nghiệm trên bệnh nhân ung thư đều (1) có độc tố rất cao hoặc biến đổi tùy theo liều áp dụng; (2) ức chế miễn dịch rõ rệt, nghĩa là phá hoại sức đề kháng vốn có của bệnh nhân đối với hàng loạt các loại bệnh, kể cả ung thư; và (3) thường là chất gây ung thư… Những thông tin có cơ sở vững chắc này hiện đã được báo cáo trong nhiều ấn phẩm của chính Viện Ung thư Quốc gia, cũng như trên khắp nước Mỹ và, quả thực là, trên khắp thế giới.”

Trong cuốn sách Questioning Chemotherapy (Nghi vấn hóa trị), bác sĩ Ralph Moss viết: “Lượng hóa chất độc hại cần thiết để tiêu diệt những tế bào ung thư cuối cùng đã giết chết bệnh nhân từ lâu trước khi nó loại bỏ được khối u… Tôi nhớ câu chuyện của một nhà hóa trị liệu nổi tiếng ở Sloan Kettering, khi phát hiện ra mình bị ung thư cấp, ông đã nói với đồng nghiệp ‘Hãy làm bất cứ điều gì tùy thích – trừ hóa trị’. Một bí mật ai cũng biết là một quan chức của Sloan Kettering đưa mẹ mình đến Đức để điều trị theo liệu pháp thay thế… Có lẽ điều kỳ lạ nhất về hóa trị liệu là rất nhiều trong số những loại thuốc này bản thân chúng là chất gây ung thư. Điều này có vẻ lạ lùng với những độc giả bình thường – sao các thuốc chống ung thư tự chúng lại gây ung thư. Song, đây là một thực tế không thể phủ nhận.”

Theo bác sĩ John Diamond: “Một nghiên cứu trên 10.000 bệnh nhân cho thấy rõ thành tích được cho là tốt của hóa trị với bệnh Hodgkin (u lympho) thực ra là nói dối. Những bệnh nhân trải qua hóa trị có khả năng phát triển ung thư bạch cầu gấp 14 lần và khả năng phát triển ung thư xương, khớp và các mô mềm gấp 6 lần so với những bệnh nhân không trải qua hóa trị”. Số ra ngày 21 tháng 3 năm 1996 của New England Journal of Medicine báo cáo rằng, “Trẻ em được điều trị thành công bệnh Hodgkin có khả năng sau này phát triển các khối u ác tính thứ phát cao gấp 18 lần. Các cô gái phải đối mặt với 35% nguy cơ phát triển ung thư vú khi họ 40 tuổi – cao hơn so với trung bình là 75 lần. Nguy cơ ung thư bạch cầu tăng lên rõ rệt 4 năm sau khi kết thúc điều trị thành công và duy trì ổn định ở mức cao sau 14 năm, nhưng nguy cơ phát triển các khối u rắn vẫn ở mức cao và lên đến 30% ở năm thứ 30”.

Bạn có nghĩ bác sĩ chuyên khoa ung thư sẽ chịu trao thân cho hóa trị nếu được chẩn đoán ung thư? Trung tâm Ung thư McGill ở Montreal, một trong những trung tâm điều trị ung thư lớn nhất và danh giá nhất trên thế giới, đã khảo sát 64 bác sĩ chuyên khoa ung thư để xem họ sẽ phản ứng thế nào với chẩn đoán ung thư. Kết quả sẽ làm bạn bất ngờ. 58 người nói hóa trị là không thể chấp nhận được đối với họ và các thành viên gia đình của họ do sự thực là các thuốc hóa trị không có kết quả và độc hại cho cơ thể. Có nghĩa là 91% các chuyên gia ung thư sẽ không dùng hóa trị cho bản thân! Bạn có nghĩ rằng họ biết điều gì đó mà không nói với công chúng không?

Trong phụ lục ấn bản lần hai của cuốn sách The Persecution and Trial of Gaston Naessens (Sự bức hại và phiên xử Gaston Naessens), Christopher Bird mô tả cuộc gặp gỡ của cá nhân ông với một số bác sĩ biết rõ họ đang điều trị cho bệnh nhân với các phác đồ không hiệu quả. “Mười ba bác sĩ gọi cho tôi sốt ruột muốn biết làm thế nào họ có thể được tiếp cận với các liệu pháp điều trị như phát minh của Gaston Naessens cho bản thân họ, cho vợ họ, hoặc cho những người thân của họ để chữa trị những trường hợp ung thư nghiêm trọng khiến họ đau xót. Trong mỗi trường hợp, tôi xen vào câu hỏi của riêng tôi: ‘Thưa bác sĩ, sao ông không tư vấn cho chính mình (hoặc những người gần gũi với ông) để theo cùng phác đồ mà ông khuyến cáo từ rất lâu cho các bệnh nhân của ông? Hóa trị, hay xạ trị, hay tương tự?’ Và mỗi lần, mặc dù diễn đạt có chút ít khác nhau, song câu trả lời vẫn lặp lại: ‘Bởi vì chúng tôi biết nó không hiệu quả!’ Khi nghe câu trả lời này, đôi khi vào lúc đêm muộn, tôi tự hỏi có phải mình đang sống trong một thế giới mà y học đã hóa điên rồi hay không?”

Ung thư là căn bệnh xảy ra do hệ miễn dịch bị tổn thương. Hóa trị tàn phá hệ miễn dịch. Câu hỏi hóc búa ở đây là: Làm thế nào có thể chữa một căn bệnh do hệ miễn dịch bị tổn thương bằng một loại thuốc gây tổn hại thêm cho hệ miễn dịch? Hãy suy nghĩ về điều đó. Không có chút ý nghĩa gì!

Trong những năm 1980, bác sĩ Ulrich Abel, một nhà dịch tễ học người Đức, đã làm một phân tích toàn diện về mọi nghiên cứu chính yếu và thử nghiệm lâm sàng của hóa trị từng được thực hiện. Để chắc chắn không bỏ sót bất cứ ai, ông liên hệ với hơn 350 trung tâm y tế trên toàn thế giới yêu cầu họ cung cấp bất cứ thứ gì họ đã công bố về chủ đề ung thư. Vào thời điểm ông công bố báo cáo, có khả năng ông là người biết về hóa trị nhiều hơn bất kỳ ai trên thế giới. Kết quả thật tuyệt vời! Trong báo cáo công bố trên The Lancet, tháng 8 năm 1991, bác sĩ Abel tuyên bố, “Kết quả của hầu hết hóa trị liệu đều kinh khủng. Phương pháp này không có bất kỳ bằng chứng khoa học nào cho thấy khả năng kéo dài sự sống của bệnh nhân ung thư. Hóa trị là thứ vô dụng trong khoa học.” Tất nhiên, mafia y tế ngay lập tức tấn công thanh danh của bác sĩ Abel vì họ không thể tấn công khoa học của ông. Đấy là quy trình hoạt động tiêu chuẩn. Không có gì ngạc nhiên, không báo đài nào của truyền thông chính thống còn nhắc đến nghiên cứu toàn diện của Abel: nó đã hoàn toàn bị chôn vùi.

Bác sĩ Glenn Warner là một trong những chuyên gia ung thư có trình độ chuyên môn được đánh giá cao nhất tại Mỹ. Ông đã thành công lớn trong vịêc sử dụng liệu pháp điều trị thay thế cho bệnh nhân ung thư. Về điều trị ung thư ở đất nước này, ông nói: “Chúng ta có một ngành công nghiệp nhiều tỷ đô la đang giết chết con người, khắp mọi ngõ ngách, chỉ vì lợi ích tài chính. Ý tưởng nghiên cứu của họ là xem liệu hai liều thuốc độc này có tốt hơn so với ba liều thuốc độc kia hay không.” Bác sĩ Alan C. Nixon, cựu chủ tịch của Hiệp hội Hóa học Mỹ khẳng định: “Là một nhà hóa học được đào tạo để phân tích dữ liệu, tôi thấy thật khó hiểu khi các bác sĩ có thể bỏ qua bằng chứng rõ ràng rằng hóa trị liệu gây hại nhiều, nhiều, nhiều hơn lợi”. Theo bác sĩ Charles Mathe, chuyên gia ung thư người Pháp: “Nếu bị ung thư, tôi sẽ không bao giờ đi đến một trung tâm điều trị ung thư tiêu chuẩn. Chỉ những bệnh nhân sống xa những trung tâm như vậy mới có cơ hội sống sót.”

Cho đến nay, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, Công nghiệp ung thư tiếp tục đưa hóa chất độc hại vào cơ thể bệnh nhân ung thư. Và bệnh nhân cứ để cho họ làm điều đó, thậm chí còn tình nguyện làm “chuột bạch” cho những nghiên cứu mới, đơn giản chỉ vì một người nào đó có bằng cấp từ một trường về bệnh tật (còn gọi là trường y) nói với họ đó là “lựa chọn duy nhất”. Để đầu độc cơ thể bệnh nhân ung thư tiêu tốn rất nhiều tiền, và bệnh nhân sẵn sàng trả tiền đó. Thật đáng buồn, một số người sẽ dành cả triệu đô la mỗi năm để đầu độc các bộ phận cơ thể họ chỉ vì “bác sĩ bảo họ làm thế”.

Tôi không ngạc nhiên khi biết nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng dược sĩ pha chế hóa trị có nguy cơ về “hóa trị trung gian”. Ấn bản ngày 10 tháng 7 năm 2010 của Seattle Times báo cáo: “Các nhà dịch tễ học Đan Mạch đã sử dụng dữ liệu đăng ký ung thư từ năm 1940 đến cuối những năm 1980 cho báo cáo đầu tiên về nguy cơ mắc ung thư bạch cầu ở các y tá và bác sĩ điều trị ung thư. Năm ngoái, một nghiên cứu khác của Đan Mạch với hơn 92.000 y tá cho thấy nguy cơ cao ung thư vú, tuyến giáp, hệ thần kinh và não… Một nghiên cứu vừa mới hoàn thành của Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Mỹ (CDC) – mất 10 năm thực hiện và là nghiên cứu lớn nhất cho đến nay – khẳng định hóa trị tiếp tục gây ô nhiễm không gian nơi làm việc có sử dụng nó và trong một số trường hợp vẫn được tìm thấy trong nước tiểu của những người xử lý nó”.

Theo Mike Adams: “Điều trị ung thư bằng hóa trị giống như điều trị nghiện rượu bằng vodka. Giống như điều trị bệnh tim bằng phô-mai, hoặc như điều trị bệnh tiểu đường bằng si-rô ngô có hàm lượng đường fructose cao. Ung thư không thể chữa khỏi bằng những thứ gây ra nó. Đừng để một số bác sĩ ung thư sử dụng chiến thuật đe dọa của họ để hướng bạn sử dụng hóa trị liệu. Họ giỏi làm việc đó lắm. Lần sau khi ông ta khẩn khoản bạn dùng một số thuốc hóa trị, hãy yêu cầu ông ta uống trước một ít. Nếu bác sĩ ung thư của bạn không sẵn sàng uống thuốc hóa trị trước mặt bạn để chứng minh nó an toàn, hà cớ gì bạn lại phải đồng ý tiêm nó vào cơ thể?”

Bóp méo các khái niệm

Truyền thông có nói dối không khi họ nói chúng ta đang chiến thắng cuộc chiến ung thư? “Có”, nhưng là vì công nghiệp ung thư đã nói dối truyền thông. Công nghiệp ung thư nói với chúng ta nhờ những tiến bộ của hóa trị liệu mà người ta sống thọ hơn. Đây là một lời nói dối. Họ có thể duy trì mãi chuyện hoang đường này bằng cách làm sai lệch các dữ liệu và khái niệm.

Bác sĩ John Bailer, người có 20 năm làm nhân viên NCI và là biên tập viên tạp chí của NCI, đã tiết lộ đôi điều về chủ đề này: “Con số thống kê sống sót 5 năm của Hiệp hội ung thư Mỹ (ACS) là rất sai lạc. Họ đang tính những thứ không phải ung thư, và, bởi hiện nay chúng ta có khả năng chẩn đoán bệnh này sớm hơn, lại giả dối là bệnh nhân sống lâu hơn. Toàn bộ nghiên cứu ung thư của chúng ta trong 20 năm qua đã hoàn toàn thất bại. Người chết vì ung thư ngoài 30 tuổi nhiều hơn bao giờ hết… Nhiều phụ nữ bệnh nhẹ hoặc lành tính được đưa vào số liệu thống kê và báo cáo như được ‘chữa khỏi’. Khi các quan chức chính phủ đưa ra con số sống sót và nói họ đang chiến thắng trong cuộc chiến chống ung thư là họ đang sử dụng những tỷ lệ sống sót không đúng.”

Sau đây là cách G. Edward Griffin đưa vấn đề trên vào cuốn World Without Cancer (Thế giới không ung thư) của ông: “Rõ ràng là Hiệp hội ung thư Mỹ – hoặc ít nhất là một số quan chức cao cấp trong đó, đang cố gắng cung cấp cho người dân Mỹ sự lừa phỉnh cũ mèm. Sự thật của vấn đề là – bất chấp những thống kê của ACS – y học chính thống vẫn không có ‘minh chứng chữa khỏi ung thư’ và những gì họ có là sự xem xét không thỏa đáng đến mức tầm thường uy tín họ đang hưởng, số tiền họ đang thu và sự ngạo mạn khinh miệt họ tích tụ chống lại những người không tán thành những liệu pháp điều trị của họ.”

Công nghiệp ung thư sử dụng thái độ trịch thượng, cố chấp, đe dọa, và làm sai lệch để giữ cho bệnh nhân ung thư hoàn toàn không biết gì về sự thật liên quan đến liệu pháp điều trị Big 3 độc hại và liệu pháp điều trị ung thư thay thế không độc hại. Tục ngữ cổ có câu: “Ai đặt ra luật lệ người đó thắng cuộc chơi”. Đây là cách Công nghiệp ung thư bóp méo dữ liệu và định nghĩa lại các khái niệm (nói dối chúng ta) về những tác động của Big 3:

- Công nghiệp ung thư định nghĩa thuật ngữ “chữa khỏi” áp dụng cho bệnh nhân ung thư sống sót hơn 5 năm kể từ ngày chẩn đoán. Nó không có nghĩa là “chữa lành bệnh” cũng không có nghĩa “thoát khỏi ung thư”. Nhờ những cải thiện trong chẩn đoán ung thư, ngày nay ta có thể phát hiện khối u sớm hơn hàng tháng nếu không phải là hàng năm so với trước đây bằng các xét nghiệm máu và thiết bị chẩn đoán hình ảnh phức tạp. Kết quả là bệnh nhân hiện nay sống lâu hơn kể từ khi được chẩn đoán vì được chẩn đoán sớm hơn. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân tái phát ung thư trở lại sau một khoảng thời gian tiến triển, hoặc nếu họ bị biến dạng do bệnh hoặc điều trị, hoặc nếu họ chết đột ngột hai ngày sau giai đoạn tiến triển, họ vẫn được coi là đã được “chữa khỏi”.

Công nghiệp ung thư thường bỏ qua một số nhóm người không cho vào số liệu thống kê và đưa vào một số nhóm nhất định sao cho số liệu thống kê của họ nhìn thuận lợi hơn cho Big 3. Đúng vậy. Họ lựa chọn mẫu. Ví dụ, bệnh nhân ung thư phổi thường được loại trừ khỏi số liệu thống kê, mặc dù thực tế ung thư phổi là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Và những loại ung thư như ung thư hắc tố da không melanin luôn được đưa vào các mẫu, do 99% bệnh nhân ung thư da hắc tố không melanin sống lâu hơn 5 năm, nên tỷ lệ “chữa khỏi” tăng lên. Ám muội nhỉ?

- Công nghiệp ung thư thường sẽ loại bỏ bệnh nhân chết trong thời gian theo phác đồ điều trị Big 3 khỏi số người lấy mẫu. Nghĩa là: nếu có 10 bệnh nhân theo phác đồ hóa trị kéo dài 60 ngày, mà 9 người trong số họ chết trước ngày thứ 60, trong khi chỉ có 1 bệnh nhân theo được đến cuối, thì 9 người này sẽ không được tính và điều trị đó được tuyên bố có tỷ lệ chữa khỏi 100%!

- Một mánh khóe khác công nghiệp ung thư sử dụng trong thống kê của họ là bỏ qua những người chết vì tác động của Big 3. Nói cách khác, giả sử rằng bạn đã lựa chọn hóa trị, và do hệ miễn dịch của bạn mới bị tổn thương, bạn bị viêm phổi và tử vong. Vâng, bạn có biết cái chết của bạn sẽ không được tính là chết do ung thư không? Điều này chính xác là những gì đã xảy ra với mẹ tôi. “Điều trị” ung thư khiến bà bị đột quỵ nghiêm trọng, và giấy chứng tử của bà chỉ rõ “chết do đột quỵ”. Vì vậy, trong quan niệm méo mó của công nghiệp ung thư, mặc dù thực tế bây giờ bà đã chết, nhưng việc điều trị ung thư của mẹ tôi lại là một thành công. Tệ hại làm sao?

- Ngoài ra, công nghiệp ung thư cho chúng ta biết rằng nếu một loại thuốc hóa trị thu nhỏ kích thước một khối u, thì nó được xem là hiệu quả. Nhưng hiệu quả nghĩa là gì? Có phải là bệnh nhân sẽ sống lâu hơn hay không? Không. Có đầy đủ tài liệu minh chứng rằng việc thu nhỏ khối u chẳng liên quan gì với tỷ lệ sống lâu hơn.

Khối u bối rối

Công nghiệp ung thư là một “khối u bối rối”. Hầu hết các chuyên gia ung thư đều bị ám ảnh với việc thu nhỏ kích thước khối u dẫn đến chệch hướng hoàn toàn. Bạn thấy đấy, hóa trị thu nhỏ được khối u; đó là sự thật. Tuy vậy, bất chấp thực tế là các bác sĩ ung bướu thành công trong việc thu nhỏ khối u, thường thì bệnh nhân ung thư vẫn chết. Nhưng tại sao? Lý do là kích thước khối u chẳng liên quan gì với chữa khỏi ung thư. Một khối u giống như đèn báo “kiểm tra” trong ô-tô của bạn. Nó chỉ xuất hiện khi có vấn đề, nhưng đèn báo tự nó không phải là vấn đề. Bạn định đập vỡ đèn báo hay bạn cố gắng sửa chữa nguyên nhân gây lỗi? Một khối u chỉ là dấu hiệu cho thấy có gì đó sai hỏng khủng khiếp trong cơ thể. Nó chỉ là phần nổi của tảng băng trôi.

Theo Webster Kehr: “Bằng sự tập trung vào khối u có lợi nhuận cao, y học chính thống đã tẩy não công chúng để họ nghĩ rằng khối u là ung thư. Tôi đã thực sự nhìn thấy các trang web chính thống nói rằng khối u được tạo nên chỉ bởi các tế bào ung thư. Tất cả điều này là nhảm nhí. Một khối u không thể được tạo nên chỉ bởi các tế bào ung thư. Tế bào ung thư không thể hình thành mô. Không cách nào một khối u có thể được tạo nên chỉ bởi các tế bào ung thư. Tế bào ung thư cư trú trong mô của khối u. Đó là lý do tại sao họ làm sinh thiết. Vì vậy, nếu bạn tiêu diệt các tế bào ung thư trong khối u, khối u chỉ là một mẩu mô vô hại! Liệu pháp điều trị ung thư thay thế ít chú trọng đến kích thước khối u. Nếu khối u bị to lên một chút, đối với nhiều loại ung thư thì đó không phải chuyện lớn. Các tế bào ung thư trong mô của khối u là quan trọng, chứ không phải chính mô đó. Thế nhưng ngay cả những tế bào ung thư trong các mô của một khối u cũng không đe dọa cuộc sống của bệnh nhân… mà là sự di căn của ung thư giết chết các bệnh nhân ung thư. Không gì trong y học chính thống quan tâm giải quyết sự di căn của ung thư”.

Trong cuốn sách Alive and Well (Sống và Khỏe mạnh), bác sĩ Binzel nói rằng ở ung thư nguyên phát (chỉ một vài ngoại lệ), khối u không gây nguy hiểm cho sức khỏe và cũng không đe dọa tính mạng. Sự lan truyền của ung thư qua phần còn lại của cơ thể mới là những gì gây nguy hiểm cho sức khỏe và đe dọa cuộc sống. Không có gì trong phẫu thuật ngày nay ngăn chặn được sự lan truyền của ung thư. Không có gì trong hóa trị hoặc xạ trị ngăn chặn được sự di căn của ung thư. Làm thế nào chúng ta biết được? Chỉ cần nhìn vào những con số thống kê. Thời gian sống của bệnh nhân ung thư ngày nay không khác gì so với nửa thế kỷ trước. Sự tiến bộ duy nhất trong 50 năm qua là đã cải thiện những cách tiêu diệt các khối u thông qua hóa trị và xạ trị.

Với việc chỉ tập trung vào khối u chứ không phải vào nguyên nhân thực sự của ung thư (hệ miễn dịch suy yếu), những liệu pháp điều trị ung thư chủ đạo đã để “con cáo trong chuồng gà”… và chắc chắn nó sẽ tấn công trở lại! Theo Binzel: “Vấn đề của số đông (không phải tất cả) các bác sĩ và các chuyên gia ung thư trong xã hội ngày nay là họ được đào tạo ‘chú trọng vào khối u’… Ví dụ, khi một bệnh nhân được phát hiện có một khối u, điều duy nhất bác sĩ trao đổi với bệnh nhân đó là những gì ông ta dự định sẽ làm với khối u… không ai hỏi tình trạng của bệnh nhân. Trong quá trình học y, tôi nhớ rõ những bệnh nhân đã chạy xạ trị và/hoặc hóa trị. Khối u thì ngày càng nhỏ hơn, nhưng bệnh nhân thì ngày càng ốm yếu. Lúc khám nghiệm tử thi, chúng tôi nghe thấy, ‘Kỳ diệu làm sao! Các khối u đã biến mất!’ Vâng, đúng thế, nhưng bệnh nhân cũng tử vong. Chúng ta sẽ phải lặp lại kịch bản này bao nhiêu triệu lần trước khi nhận ra rằng đang điều trị sai?”

Câu chuyện của Katie Werneckes

Katie Werneckes được chẩn đoán bị u lympho Hodgkin (ung thư hạch bạch huyết) vào tháng 1 năm 2005, khi cô bé mới 12 tuổi. Cha mẹ đã đưa em đến phòng cấp cứu và họ nghĩ là viêm phổi, nhưng hóa ra là tồi tệ hơn nhiều. Các bác sĩ thuyết phục họ rằng Katie cần chạy hóa trị, và họ chấp thuận. Song, các bác sĩ cũng khuyến cáo cả xạ trị nữa, nhưng Werneckes từ chối. Katie nói: “Cháu không cần xạ trị. Chẳng ai hỏi cháu muốn gì. Đây là cơ thể của cháu.”

Trong nỗ lực nhằm ép buộc gia đình Werneckes giao nộp Katie để điều trị ung thư chính thống, “chính quyền Gestapo” hiện đại ngày nay (Cơ quan bảo vệ trẻ em - CPS) đã tách Katie khỏi bố mẹ em vào năm 2005, sau khi nhận được thông tin là Katie và mẹ em đang trốn tại một nông trại gia đình để tránh xạ trị mà các bác sĩ phán em cần làm để sống sót. Các cơ quan chức năng đã kịp thời bắt giữ Katie và bắt giam mẹ em. Đúng vậy, chính quyền Texas đã bắt cóc một đứa trẻ từ gia đình em để đầu độc em, và sau đó họ bắt mẹ em vì bà nỗ lực giữ con mình khỏi bị đầu độc.

Mẹ em đã phải trả 50 nghìn đô la tiền bảo lãnh để được ra khỏi tù. Hãy tưởng tượng… 50 nghìn đô la để bảo vệ đứa con của bạn! Quá sức lố bịch! Tôi nghe nói những kẻ giết người được thả về với số tiền bảo lãnh còn ít hơn 50 nghìn đô la! Ngoài việc bắt cóc con gái bà, CPS còn đưa ba con trai bà vào một nhà nuôi dưỡng. Các luật sư của Cơ quan về gia đình và các hoạt động bảo hộ của bang Texas đã nói tại tòa rằng Werneckes “phớt lờ y tế” với việc từ chối xạ trị. Rõ ràng, các luật sư không biết gì về sự phi lý của câu nói đó. Vào cuối năm 2005, một thẩm phán Texas phán quyết Werneckes được “cho phép” mang Katie ra khỏi tiểu bang để tham vấn các bác sĩ ung thư thay thế, nhưng trước đó em phải chịu thêm năm ngày hóa trị. Cuối cùng, Katie được thả và đoàn tụ với gia đình. May mắn thay, hóa trị liệu đã không giết được Katie và em đã thoát chết dù trải qua quá trình điều trị ung thư khủng khiếp này. Câu chuyện này là một ví dụ điển hình về mức độ lộng hành của mafia y tế.

Nếu bạn nghĩ chúng ta đang sống trong một xã hội “tự do”, xin hãy nghĩ lại. Ngay bây giờ, dưới sự giám sát trực tiếp của những chuyên gia yếu kém, một thẩm phán có thể ra lệnh cho CPS bắt cóc chính những đứa con bạn từ nhà riêng của bạn, lôi chúng vào bệnh viện, và truyền chất độc hóa học vào tĩnh mạch của chúng!

Theo Mike Adams: “Đây chẳng phải là hệ thống chăm sóc y tế gì cả, thưa các bạn. Đó là một hệ thống kiểm soát. Làm thế nào để kiểm soát một dân tộc? Đánh thuốc mê họ, từ lúc sinh ra cho đến khi xuống mồ. Giữ họ trong mơ hồ. Làm họ lẫn lộn với hình ảnh truyền hình. Làm họ phá sản với các hóa đơn y tế. Và nếu họ không tuân thủ, chĩa súng bắt họ và khủng bố gia đình họ để làm gương. Tôi gọi đó là chủ nghĩa khủng bố y tế được nhà nước trợ cấp. Trong trường hợp này là Texas. Cá nhân tôi nghĩ rằng trong một xã hội công bằng, nhân viên CPS phải bị bắt và bị buộc tội bắt cóc tống tiền, và các chuyên gia ung bướu đã tham gia âm mưu ung thư này sẽ phải bị xét xử trong một tòa án quốc tế về những tội ác chống lại loài người. Đó chẳng phải là tội tiêm cho một đứa trẻ hóa chất nguy hiểm trái với ý muốn của nó và trái với ý muốn của cha mẹ nó hay sao? Nếu tôi nạp một ống tiêm với cùng hóa chất được sử dụng trên bé gái này, và tiêm chúng vào cánh tay của bạn mà không cần sự cho phép của bạn, tôi sẽ bị buộc tội cố ý giết người.”

Câu chuyện của Thomas Navarro

Trong bộ phim tài liệu sâu sắc và gây ngạc nhiên, Cut Poison Burn (Cắt bỏ, đầu độc, thiêu đốt), nhà sản xuất Louis Cimino và Wayne Chesler đưa ra ánh sáng bản chất nham hiểm của công nghiệp ung thư nhiều tỷ đô la, bản chất xảo quyệt của mafia y tế, sự đàn áp đối với liệu pháp điều trị ung thư tự nhiên, và “bắt buộc dùng thuốc” đối với các cá nhân muốn chọn cho riêng mình hình thức điều trị tự nhiên.

Tâm điểm là câu chuyện có thực rất thương tâm của Jim và Donna Navarro khi họ vấp phải rào cản và mất tự do trong việc lựa chọn các giải pháp điều trị cho cậu con trai Thomas (4 tuổi) được chẩn đoán bị u nguyên bào tủy với một khối u não ác tính. Những liệu pháp điều trị chính thống bao gồm thuốc hóa trị và xạ trị được sử dụng hầu như không đem lại hy vọng. Dù cho con trai họ có sống sót với loại điều trị này thì các tác dụng phụ có thể là suy giảm thính giác, tổn hại não, giảm dần IQ, v.v..

Thay vì chạy hóa trị và xạ trị, Navarro rất muốn theo phương pháp thay thế (điều trị chống ung thư không độc hại của bác sĩ Stanislaw Burzinski) đã cho thấy hiệu quả đặc biệt (từ 50% đến 60%) trong điều trị ung thư não, thế nhưng FDA đã ngăn cản họ tiếp cận với liệu pháp điều trị “chưa thẩm định” này. Bạn thấy đấy, nếu trẻ em ở dưới độ tuổi nào đó thì mafia y tế yêu cầu em bé phải trải qua quá trình điều trị quy chuẩn (như hóa trị độc hại và xạ trị) cho dù những phương cách điều trị này hầu như vô dụng đối với u nguyên bào tủy. Để xát thêm muối vào vết thương, tiểu bang đã đe dọa Donna và Jim rằng nếu họ không chịu đưa em ra điều trị bằng những chất độc man rợ này, họ sẽ bị tước quyền chăm sóc Thomas.

Giống như nhiều người khác, họ nhận ra rằng họ không có quyền tự do tìm kiếm bất cứ liệu pháp điều trị nào họ thấy phù hợp cho con mình. Vâng, thực vậy, nền tự do mà vì nó bao thế hệ tổ tiên người Mỹ đã hy sinh cuộc sống, xem ra đã dần dần bị xói mòn vì tình trạng đáng tiếc này. Trong phim, Jim Navarro nhấn mạnh vào sự lố bịch của phương pháp chữa trị ung thư hiện đại ngày nay. Mặc dù bác sĩ thừa nhận hóa trị “không hiệu quả” cho ung thư của con trai họ và cài vào tuyên bố thuốc “chưa được thẩm duyệt an toàn hoặc hiệu quả đối với trẻ em”, nhưng ông ta vẫn khăng khăng phải dùng hóa trị và nếu Navarro từ chối sử dụng “phương pháp chữa trị quy chuẩn” này thì họ có thể sẽ phải ngồi tù và con trai họ bị tước đoạt theo pháp luật. Đây là trò chơi điên rồ vô nhân tính, nơi đây giá trị sự sống và toàn bộ tương lai của đứa trẻ bị hất sang một bên để duy trì hiện trạng lợi nhuận cao cho công nghiệp ung thư.

Sau 18 tháng đấu tranh pháp lý với Federal Death Administration (Cơ quan Tử vong Liên bang) và 10 nghìn đô la chi phí pháp lý, Navarro cuối cùng đã “được phép” mang con trai họ đến bác sĩ Burzynski. Tuy nhiên, lúc đó em bé đã bị mổ não hai lần, đã bị buộc phải trải qua hóa trị và bị tái phát khối u do các độc tính của hóa trị. Thomas qua đời lúc 6 tuổi. Giấy chứng tử của em ghi nguyên nhân tử vong là: “Suy hô hấp và viêm phổi do nhiễm độc thường xuyên từ hóa trị liệu”. Kết cục, hóa trị giết chết Thomas… chứ không phải bệnh ung thư não của em.

Sao chúng ta có thể cho phép những kẻ giết người thoát tội? Sao giấy chứng tử có thể ghi (rõ ràng) là Thomas chết vì “độc tính của hóa trị”, nhưng các bác sĩ thực hiện hóa trị liệu lại không bị đi tù? Tôi không thể cất nên lời.