LỪA GẠT
Xử lý ống tủy răng là biện pháp an toàn và thường là cần thiết để tránh nhổ răng.
SỰ THẬT
Răng được lấy tủy luôn bị nhiễm trùng bất kể nhìn bề ngoài thế nào và không có triệu chứng gì.
Có thể bạn nghĩ thủy ngân là vấn đề “răng độc hại” duy nhất và rằng bạn không còn bị nữa! Đúng, nhưng không phải vậy nếu bạn đã xử lý ống tủy răng (root canal). Hàng năm, có khoảng 20.000.000 ca xử lý ống tủy răng được thực hiện tại Mỹ. Gần như tất cả các nha sĩ đều không biết về những nguy cơ sức khỏe nghiêm trọng mà thủ thuật này tạo ra. Trong khi nhiều nha sĩ thông minh từ chối đặt lớp trám thủy ngân vào miệng các bệnh nhân, thì cũng các nha sĩ này sẽ sẵn sàng thực hiện xử lý ống tủy răng, mà không hề biết rằng thủ thuật này gây tổn hại khủng khiếp cho các bệnh nhân. Theo bác sĩ James Howenstine: “Rất nhiều bệnh mạn tính, có lẽ phần lớn, là kết quả của phẫu thuật xử lý ống tủy răng.”
Phương pháp điều trị xử lý ống tủy răng là để bảo vệ răng khỏi phải nhổ bỏ, thường được thực hiện khi nhiễm trùng nặng đã lan đến chân răng. Ống tủy răng là một ống nhỏ kéo dài từ giữa răng xuống chân răng, được chôn trong xương hàm. Trong quy trình xử lý tủy răng, một lỗ được khoan vào răng để tiếp cận ống tủy răng, các dây thần kinh và mô đã chết hoặc nhiễm trùng được lấy ra, và khu vực ống tủy răng được làm sạch, khử trùng, tiêu độc. Sau đó, răng được trám đầy, và lỗ khoan thường được gắn lại bằng mão răng.
Mỗi năm, hàng triệu ca xử lý ống tủy răng được thực hiện với tỷ lệ thành công rõ rệt trên 90%. Nói cách khác, biện pháp này không đau, và x-quang cho thấy răng đã được “chữa lành”. Thật không may, việc này che đậy một vấn đề vẫn còn có thể xảy ra. Nhiều nha sĩ hiện công nhận không thể làm sạch tất cả các mô chết hoặc khử trùng hoàn toàn một chiếc răng. Trong mỗi chiếc răng có hơn 3 dặm (4,8 km) tiểu quản (ống nhỏ), và chỉ có nha sĩ nào quá kiêu ngạo (hoặc mất trí) mới nhận là có thể làm sạch hoặc khử trùng sạch 100% 3 dặm tiểu quản. Điều này cho phép những vùng mô hoại tử (chết) trong răng tiếp tục phân hủy và bị nhiễm trùng. Các tế bào máu trắng của hệ miễn dịch của chúng ta không đi vào tiểu quản, mà cũng chẳng xử lý lọc kháng sinh bên trong những khu vực này. Theo đó, các tiểu quản trở thành “thiên đường an toàn” cho vi sinh vật (vi-rút, nấm men, nấm, mốc, vi khuẩn, v.v). Và vì mô thần kinh, mạch máu, và mô sống trong răng đã bị hút ra, giờ đây nó đã chết.
Năm 1993, bác sĩ Hal Huggins giảng bài cho Hiệp hội Kiểm soát Ung thư (Cancer Control Society). Với phong cách hài hước, bác sĩ Huggins nói: “Thế rồi chúng ta tiến vào lĩnh vực dịch vụ xử lý ống tủy răng, và đó là bi kịch nhất. Chẳng phải là có thứ gì đó an toàn để bạn đặt vào giữa ống tủy răng hay sao? Vâng, có lẽ thế, nhưng vấn đề không phải là ở đó. Vấn đề của ống tủy răng là nó đã chết. Hãy làm một phép so sánh nhé. Giả sử, bạn bị thủng ruột thừa, thế nên bạn lấy cuốn danh bạ điện thoại, và bạn tìm kiếm ai đây? Hãy xem, chúng ta có một bác sĩ phẫu thuật và một người nhồi thú bông, bạn gọi cho ai? Bạn định mạ đồng cho nó ư? Đó chính là tất cả những gì chúng ta làm cho chiếc răng chết. Chúng ta chụp một thân răng vàng lên, trông như đã được mạ đồng. Thực ra bạn ướp răng chết với cái gì không thành vấn đề, nó vẫn chết, và bên trong chiếc răng chết đó là vi khuẩn, và những vi khuẩn này ở trong tình trạng thiếu ô-xy. Trong môi trường không có ô-xy, hầu hết mọi thứ đều chết trừ vi khuẩn. Chúng trải qua quá trình gọi là thay đổi đa hình… giống như một sự đột biến… chúng học cách sống trong môi trường không có ô-xy… và giờ đây sản sinh ra các thioether, thuộc vào những chất độc mạnh nhất trên hành tinh mà không phải phóng xạ.”
Nên nhớ ung thư và rất nhiều các bệnh khác có liên quan đến vi sinh vật (microbes). Để chữa ung thư, các vi sinh vật phải bị loại bỏ khỏi toàn bộ cơ thể, tạo điều kiện để hệ miễn dịch khôi phục cơ thể về trạng thái bình thường. Tuy nhiên, ống tủy răng là “cái nôi phát sinh” hoàn hảo cho vi sinh vật. Như bác sĩ Huggins đã nói ở trên, một vài trong số những sản phẩm nguy hiểm nhất của các vi sinh vật này là các thioether, trong đó có dimethyl sulfate. Bác sỹ chuyên khoa ung thư người Đức Josef Issels đã xác nhận các thioether giải phóng ra từ các vi sinh vật trong ống tủy răng có liên quan rất gần gũi với các hóa chất được người Đức sử dụng trong Thế chiến I để tạo khí mù tạt. Theo EPA, dimethyl sulfate đã được xếp vào nhóm chất gây ung thư người B2. Người ta đã phát hiện những khối u trong đường mũi, phổi, và ngực của động vật tiếp xúc với dimethyl sulfate.
Theo bác sĩ Karen Shrimplin, thioether rất độc hại vì chúng là hòa tan trong chất béo và do đó tập trung trong cấu trúc mỡ lipid (chất béo) của tế bào, đặc biệt là ty thể. Ty lạp thể là những “trạm sản xuất năng lượng của điện tế bào” và chịu trách nhiệm sản xuất năng lượng. Nếu các ty lạp thể bị hư hỏng, thì tế bào không thể tạo ra năng lượng qua hô hấp hiếu khí, và chúng buộc phải chuyển sang chế độ lên men (hô hấp kỵ khí) để sản xuất năng lượng. Nên nhớ, tất cả các tế bào ung thư đều sử dụng lên men làm phương cách sản xuất năng lượng.
Về cơ bản, những gì bác sĩ Shrimplin nói là các vi sinh vật đa hình (pleomorphic) ở trong tiểu quản của ống tủy răng ban đầu là vi khuẩn hiếu khí bình thường, nhưng khi chúng bị nhốt kín trong răng, môi trường thay đổi, chúng trở thành kỵ khí và sản xuất các độc tố như thioether. Những thioether này sau đó được giải phóng vào phần còn lại của cơ thể và làm tổn hại ty thể của tế bào chúng ta, theo đó làm chúng trở thành kỵ khí. Đó là cái vòng luẩn quẩn, tất cả bắt đầu bằng ống tủy răng! Những vi sinh vật kỵ khí này phát triển mạnh bên trong ống tủy răng, thải ra chất độc từ việc tiêu hóa mô hoại tử, điều này dẫn đến nhiễm trùng mạn tính và bệnh thoái hóa. Hãy nghĩ mà xem… nếu một cơ quan hay chân tay chết trong cơ thể, chúng ta sẽ loại bỏ nó. Nhưng không phải vậy với những chiếc răng đã chết!
Giả sử bạn đã đi khám bác sĩ và nói với ông ấy rằng bạn đau ruột thừa, nếu ông ấy nói với bạn rằng ông ấy sẽ cắt các dây thần kinh dẫn đến ruột thừa để bạn không cảm thấy đau đớn nữa, rồi sau đó tách động mạch khỏi ruột thừa để nó chết đi, tôi nghĩ bạn sẽ đi tìm một bác sĩ khác. Theo hiểu biết của tôi, nha sĩ là những bác sĩ duy nhất cố tình để lại mô đã chết trong cơ thể. Nha sĩ Frank Jerome nói: “Chỉ có giới nha sĩ coi việc giữ lại cơ quan nhiễm bệnh, đã chết trong cơ thể là ý tưởng tốt. Xử lý ống tủy răng luôn ảnh hưởng tiêu cực đến hệ miễn dịch của bạn.” Theo ví dụ trên, nếu ruột thừa chết và bạn không loại bỏ nó, thì bạn sẽ chết vì viêm phúc mạc. Thực tế y tế là thế này: TẤT CẢ MÔ CHẾT ĐỀU NHIỄM TRÙNG.
Trong một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Endodontists Journal (Endodontists nghĩa là chuyên gia về ống tủy răng), người ta chọn những người chuẩn bị nhổ răng khôn và tiến hành xử lý ống tủy răng một bên và sau đó loại bỏ tất cả răng khôn sau ba tháng. Kết quả là, những răng không xử lý gì cả chỉ có 1,1% tiểu quản bị viêm nhiễm (tức là 98,9% khỏe mạnh). Tuy nhiên, chiếc răng bị xử lý ống tủy ba tháng trước đó có 39% tiểu quản bị nhiễm bệnh và chỉ có 61% khỏe mạnh.
Trở lại những năm 1920, bác sĩ Weston A. Price thực hiện các thí nghiệm mà lúc đầu đã được Hiệp hội Nha khoa Mỹ hoan nghênh, nhưng sau này bị phớt lờ. Bác sĩ Price nghi ngờ rằng nhiễm khuẩn gắn liền với nhiều bệnh thoái hóa. Ông nghi ngờ những hiện tượng nhiễm trùng này phát sinh từ răng. Ông quyết định cấy một chiếc răng đã lấy tủy vào dưới da một con vật. Ông đã phát hiện ra rằng vì cấy răng đã lấy tủy, bệnh của bệnh nhân đã chuyển sang con vật. Bất kể bệnh nhân bị bệnh gì, con vật với chiếc răng gắn dưới da cũng phát triển bệnh y như thế. Ông cũng quan sát thấy khi răng đã xử lý tủy được lấy ra bằng kỹ thuật chính xác thì sau đó, một loạt các vấn đề sức khỏe được cải thiện, từ viêm khớp đến thận, đến ung thư. Điều này đã được thực hiện với hàng trăm bệnh nhân.
Bác sĩ Price đã phát hiện ra rằng trong số 100 chất khử trùng, không chất nào có thể xâm nhập và khử trùng được ngà răng, chất chiếm 95% trong cấu trúc răng. Cũng có bất kỳ loại thuốc kháng sinh nào cũng có khả năng khử trùng ống tủy răng. Rất ít nha sĩ nhận thức được hoặc sẵn sàng thừa nhận tiểu quản ngà răng luôn luôn nhiễm bệnh sau khi phẫu thuật ống tủy. Những vi khuẩn này thoát vào máu và dần dần khởi tạo rất nhiều các bệnh thoái hóa. Hầu hết các nha sĩ tin rằng các chất khử trùng được sử dụng để nhét vào ống tủy sau khi phẫu thuật có hiệu quả khử trùng ống tủy răng, tiếc là điều đó không đúng sự thật. Những gì bác sĩ Price báo cáo và tìm thấy với những thử nghiệm có liên quan đến 5.000 con vật trong thời gian 25 năm là răng được lấy tủy, dù trông khỏe mạnh đến đâu, hoặc không có triệu chứng gì, chúng vẫn luôn bị nhiễm trùng. Bác sĩ Price ghi nhận những phát hiện của ông trong hai bộ sách đồ sộ mang tên Dental Infection Oral & Systemic (Nhiễm trùng răng miệng & toàn cơ thể) và Dental Infection and the Degenerative Diseases (Nhiễm trùng răng và các bệnh thoái hóa). Không ngạc nhiên khi những cuốn sách đó bị vùi dập trong 50 năm cho đến khi bác sĩ George Meinig, một endodontist nghỉ hưu, phát hiện ra những cuốn sách này. Ông tái bản phiên bản rút gọn của những cuốn sách này trong cuốn Root Canal Cover-up (Che đậy trong xử lý tủy răng). Meinig, thực ra là người phát minh ra thủ thuật xử lý ống tủy răng, đã dành những năm cuối của sự nghiệp cố gắng để các nha sĩ ngừng thực hiện thủ thuật do chính ông phát minh ra.
Nếu răng bạn từng được xử lý ống tủy, bạn cần khám nha sĩ đặc biệt gọi là “nha sĩ sinh học” hay “nha sĩ toàn diện”. Những nha sĩ này đôi khi bị ADA bức hại, thế nên đừng mong đợi tìm thấy một người trong danh bạ điện thoại. Có thể khó tìm thấy họ. Bill Henderson có phương pháp điều trị ung thư thay thế quan trọng, trong đó yêu cầu loại bỏ răng đã xử lý ống tủy. Ông sẽ cùng bệnh nhân của mình tìm ra một nha sĩ sinh học. Trang web của ông là www.beating-cancer- gently.com.
Hãy xem xét công việc của Josef Issels tại Đức, ông điều trị bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối đã hơn 40 năm. Hệ miễn dịch của các bệnh nhân này đã bị phá hủy bởi các phương pháp điều trị truyền thống “Big 3”. Tuy nhiên, bác sĩ Issels chữa khỏi 24% trong 16.000 bệnh nhân giai đoạn cuối trong suốt 40 năm đó. Việc đầu tiên ông làm là gì? Ông yêu cầu nha sĩ nhổ bỏ những chiếc răng đã xử lý ống tủy!
Tuy nhiên, khi nhổ những răng đã xử lý ống tủy, có thể sinh ra rắc rối khác. Đó là tạo ra lỗ hổng trong xương (vì nhổ răng) nếu không xử lý đúng. Các mô trong lỗ hổng (chẳng hạn như những dây chằng cố định răng) bị nhiễm trùng. Vi khuẩn có độc tính cao sinh ra có thể gây hoại tử xương (xương chết), làm suy yếu sức khỏe tổng thể và dẫn đến các bệnh thoái hóa như ung thư… mà nhiều khi không có đau đớn rõ ràng nào ở vùng xương hàm!
Nếu bạn bị đau tủy răng, có lỗ hổng răng, hoặc bệnh nha chu (nướu răng), tôi khuyên dùng những thực phẩm bổ sung sau đây:
· ORAL GUARD – Đây là sản phẩm tốt nhất có trên thị trường để điều trị bệnh nha chu. Với danh mục các thành phần ấn tượng và hiệu quả như Wort St. John, CoQ-10, axit folic, chiết xuất trà xanh, axit lipoic, và vitamin K1, thì ORAL GUARD đơn giản là chất bảo vệ tiềm năng nhất chống lại bệnh nướu răng. Chúng tôi sử dụng sản phẩm này hằng ngày và mua nó trên trang web sau đây: www.naturalhealthteam.info
· DMSO – “DMSO 25% trong nước (tùy chọn). Một muỗng cà phê súc miệng, hai lần mỗi ngày. Súc từ từ qua các nướu. Ngậm vài phút. Nuốt để đạt hiệu quả tối đa. Việc này ‘đẩy’ thực phẩm bổ sung vào các mô. Nó cũng giúp kéo chất độc ra khỏi các lỗ hổng. Có thể cho thêm vài giọt dầu lộc đề (wintergreen) vào nước súc miệng. Dùng 50% DMSO thì tốt hơn, nếu được. Nhưng phải là DMSO dùng trong y tế.” (trích từ Cure for All Advanced Cancer, trang 198)
· Co-enzyme Q10 – Thực phẩm bổ sung này mang tác động bảo vệ và củng cố của nó đến tất cả các mô. Hoạt động từ cấp độ tế bào, làm vững chắc nướu cũng như cơ tim. Nhiều nhà khoa học tin rằng bệnh nha chu là dấu hiệu đáng tin cậy cho tình trạng thiếu Co-enzyme Q10 ở các mô.
· Vitamin C – Tôi biết một người sống ở Waco, Texas bị bệnh nướu răng. Ông ấy uống 15.000 mg vitamin C mỗi ngày (5.000 mg mỗi bữa ăn) và khỏi bệnh!
Hiển nhiên là có khả năng nhiều người xử lý tủy răng mà không có các tác động xấu. Vấn đề là chúng ta không có cách nào biết được mức độ độc hại có chạm ngưỡng không hay khi nào, hoặc nó sẽ tổn hại đến hệ miễn dịch tới đâu. Khi hệ miễn dịch của chúng ta yếu kém, vi sinh vật hoặc độc tố do vi khuẩn sinh ra sẽ di chuyển dễ dàng hơn tới cơ quan đích trong cơ thể dựa trên các đường kinh mạch. Nếu bạn không đau ốm và khỏe mạnh, thì các độc tố từ ống tủy sẽ bị cách ly và ít khả năng tác động lên cơ thể hơn.
Điểm mấu chốt là những phương pháp điều trị ung thư thay thế vẫn có thể thất bại nếu bệnh nhân tiếp tục ủ tình trạng nhiễm trùng trong miệng. Dạng nhiễm trùng gây tổn hại kinh niên cho hệ miễn dịch có thể đến từ tủy răng như thảo luận ở trên, những cũng có thể xuất phát từ răng bị nhiễm trùng, lỗ hổng, và bệnh nha chu (nướu). Điều rất quan trọng đối với bệnh nhân ung thư là phải tích cực điều trị nguy cơ nhiễm trùng phát sinh từ miệng. Nếu bạn quan tâm đến việc điều trị đau tủy răng của bạn và/hoặc điều trị ung thư có thể sinh ra do vấn đề về răng, tôi khuyên bạn nên ghé thăm trang web: www.breastcancercured.com.
Tôi xin kết thúc chương này bằng một trích dẫn từ một trong những người hâm mộ facebook của tôi, người đó đã gửi nhận xét này sau lời khuyên về sức khỏe hằng ngày của tôi (về tủy răng): “Tôi đã từ chối xử lý tủy ở chiếc răng đầu tiên cần xử lý. Thay vào đó, tôi đã chọn nhổ răng và tôi nghĩ vị nha sĩ đã phát rồ lên vì quyết định của tôi. Tôi khá sốc nhìn ông ấy hành xử kiểu rất ‘trẻ con’. Tôi đoán ông ấy quên mất là ông ấy làm việc cho tôi; sau đó tôi thôi ông ấy và đi nơi khác.”