Trán là bộ vị cực trọng yếu cho việc xem tướng: nhân luân lục thân ở đấy, công danh sự nghiệp ở đấy, tài cao trí cả ở đấy, sinh tử cũng ở đấy.
Trán đại biểu cho tiền vận từ 15 đến 30 tuổi, thuộc Ly cung, nam phương hoả địa.
Trán cao sáng, rộng lớn sung thực, phong mãn là tốt.
Trán ám hãm gân guốc, lõm bẹt phá khuyết là xấu.
Trên vầng trán chứa chấp nhiều mảnh xương liên hệ mật thiết đến công danh, sự nghiệp, phúc đức của cuộc đời.
Dục sát nhân luân tiên tòng ngách tướng.
Muốn xem xét nhân luân trước coi tướng trán.
Nhân luân là cha mẹ, quân thần, phu phụ, bằng hữu.
Phàm trán quá thấp, mồ côi, tiền vận truân chuyên, nhân luân hư hoại.
Trán có mấy khu vực quan trọng: Thiên sương, dịch mã, ấn đường, phúc đức (Xem hình vẽ) những khu vực ấy xương cốt và khí sắc ảnh hưởng đến vận mệnh nhiều.
Thiên hiệp hề tiện yểu túc ác
Tủng khoát hề phú quý khả thượng.
Đầu trán sợ nhất là lệch và hẹp, và đẹp nhất là cao rộng. Hẹp lệch chết non yểu, nghèo khổ. Cao rộng, phú quý.
Nếu thấy phục tê cốt là tướng nguyên thần.
Phục tê cốt là một loại xương nổi ụ lên ngay nơi ấn đường hoặc cao hơn trông như con tê giác phủ phục, hoặc nó là một miếng vuông ở giữa vầng trán.
Phục tê cốt là tướng thành công về danh vị quyền thế.
Còn có danh từ phục tê quán đỉnh là cái xương phục tê ấy nối liền với sống mũi.
Dịch mã có sắc ánh màu vàng. Công danh hơn người.
Dịch mã là khu vực nằm trên mi cốt hơi chếch về phía thái dương. Dịch mã cao, sắc sáng, danh phận hay. Dịch mã động là hiện sắc tốt hoặc sắc xấu báo hiệu những thay đổi trong đời lành hoặc dữ.
Phúc như can, lập như bích: Cao và um úp như lá gan heo gan bò, thẳng như bức tường đều là những cái trán mang tướng thực lộc vô lượng và phúc thọ.
Trần mông nhi thân vô sở tư.
Trán ai ảm đạm, lấm như có tro bụi bám, như có lũ quạ đen làm tổ ở thiên đình, sách tướng coi là một trong bốn ác sắc ghê gớm nhất. Dù trán cao rộng, dù trán mới có phục tê nếu gặp màu sắc lấm tro bụi này đều đại bại hết tiền, hết của. Nếu nó quá nặng tất thân bại danh liệt, gia phá nhân vong.
Trái lại, sắc trán mà nhuận sáng như ngọc thì danh cao hảo vận.
Có nhiều người trán nâu, rám lại như quả bưởi bị rám nắng thì vận bế tắc từ mười đến mười lăm năm.
Tây phương cho tư tưởng của ta nằm trong bộ não, nhân tâm chính, thiện ác đều do óc mà ra. Não khó nhìn thấy, muốn tìm họ nhìn qua đầu, hình thù, xương cốt của bộ đầu.
Họ chia ra làm sáu loại để phân biệt tính tình tâm lý:
a) Đầu cao
b) Đầu dài
c) Đầu rộng lớn
d) Đầu hẹp
e) Đầu thấp
f) Đầu ngắn Đầu cao có bảy đặc tính:
- Nhiều nguyện vọng.
- Nhiều tư tưởng cao thượng.
- Dễ làm chủ được bản thân.
- Lạc quan.
- Dễ hoà đồng.
- Chính trực.
- Tôn trọng chữ tín.
Đầu dài có ba đặc tính:
- Trí lực phát đạt.
- Trọng nhân đạo.
- Ưa động vật, thực vật.
Đầu rộng lớn có bốn đặc tính:
- Tinh thần cường kiện làm việc chu đáo.
- Có quyết tâm
- Ưa dùng võ lực hay biện pháp mạnh.
- Ưa phá hoại.
Đầu hẹp có bốn đặc tính:
- Ôn hòa thuận bình, chín bỏ làm mười.
- Ngoan cố, nhịn thì nhịn vẫn theo ý mình.
- Làm việc hơi cẩu thả.
- Cử chỉ xốc nổi.
Đầu thấp có năm đặc tính:
- Không có trí lớn.
- Bất cần đạo đức danh dự.
- Đa nghi.
- Dễ bi quan.
- Khó hoà đồng.
Đầu ngắn có năm đặc tính:
- Trí lực vừa phải, giỏi bắt chước kém sáng tác.
- Tính tình khéo léo.
- Ít tự kiềm chế bản thân.
- Dễ xung động.
- Không mê mệt ái tình.
Ngoài những loại đầu trên còn có những loại khác như cao dài mà rộng, hơi rộng, cao dài mà hẹp, thấp mà lớn.
Cao dài mà rộng thì nhiều tinh lực, giỏi văn học, tính bảo thủ.
Hơi rộng lớn thì có dũng khí, tự kiềm chế, ưa mạo hiểm.
Cao dài mà hẹp thì xử sự cẩn thận, có khiếu văn học và khoa học, ghét vũ lực.
Thấp mà rộng lớn thì kém dũng cảm, thiếu tự chế, tính bảo thủ, có quyết tâm.
Đằng trước cao, đằng sau thấp thì dễ khuất phục.
Đằng trước thấp, đằng sau cao thì tàn nhẫn ưa uy quyền, nhiều tham vọng.
Ngoài vấn đề tìm xét tâm lý, người Tây phương cũng đặt vấn đề tướng lý.
Đầu cao nhiều phúc trạch, gặp nguy vẫn an, chuyển nguy thành an.
Đầu dài sống lâu.
Đầu rộng lớn, giàu có.
Đầu hẹp, vất vả, khổ sở, may đấy rủi đấy.
Đầu ngắn, yểu chết, túng bấn.
Trước cao, sau thấp, giàu mà không sang.
Trước thấp sau cao, sang mà không giàu, có thể bị hung tử.
Tướng lý về hình dáng đầu của con người của Tây phương không khác với tướng lý Đông phương bao nhiêu. Người Tây phương chỉ không chú trọng đến sắc tướng mà chỉ chú ý đến hình tướng. Tướng lý Đông phương có thêm sắc tướng.
Nhân Luân Đại Thống Phú viết:
Phong long minh giả sinh tất tảo đạt
Tỉ bạc ám giả tử vô sở táng
Nghĩa là: Đầu trán mà nở nang, sáng sủa thành công sớm. Thấp mỏng hôn ám chết không có đất chôn.
Hình thế đầu trán sung thực, rộng rãi, cao ráo cùng với khí sắc minh nhuận lãng huy là người tài cao, chí cao, sức sống mạnh, làm việc hăng.
Hình thế đầu trán thấp, mỏng manh cùng với khí sắc ám hãm, kiển trệ là người thiếu ý chí lực, nhiều thói xấu và nguyên thần bất túc.
Tảo đạt hay vô sở táng, thiết tưởng tướng lý mà “Nhân Luân Thống Phú” đưa ra đâu có gì là hoang đường.
1. Thiên đình 5. Địa cát 9. Hiên môn
2. Trung chính 6. Địa khổ 10. Quyền cốt
3. Ấn đường 7. Dịch mã 11. Pháp lệnh
4. Chuẩn đầu 8. Thiên sương 12. Mệnh môn