Một là uy tôn oai nghiêm cho người nể phục gọi bằng Uy tướng, chủ về quyền thế như con chim ưng bắt con thỏ khiến cho trăm giống chim khác phải run sợ.
Hai là hậu trọng to lớn, bề thế gọi bằng Hậu tướng, chủ về phúc lộc, thân hình như con thuyền chở vạn đấu thóc, sóng to gió lớn không làm lay chuyển tâm hồn từ tốn bao dung.
Ba là tinh thần thanh sảng, thông minh, sáng suốt gọi bằng Thanh tướng như cây quế tốt giữa đám cây trong rừng, như viên ngọc sáng không lấm bụi, chủ về học hành, tài cán hơn người.
Bốn là thân hình cô hàn, cổ dài, vai so, chân cong, đầu méo, ăn ngủ nằm ngồi lệch lẹo, đi như muốn đổ xuống hoặc đầu lắc lư như cò bợ trời mưa, gọi bằng Cô độc tướng chủ về nghèo khổ bần hàn, tứ cố vô thân.
Năm là thể mạo ẻo lả, mong manh, yếu đuối, hay sợ hãi, tinh thần hôn ám, hỉ nộ ái ố lộ rõ ra nét mặt, như con thuyền lá giữa cơn phong ba, gọi bằng Bạc tướng chủ về nghèo hèn.
Sáu là xương cốt tiêu tuấn, hình dung cổ quái, mắt sáng, tinh thần cường kiện, gọi bằng Cổ tướng chủ về sang quý, nếu xương thô lộ, tinh thần hôn ám là tục tướng.
Bảy là tướng mạo ngu bướng, hung ác, hình dáng như rắn, như chuột, như sài lang, tính tình bạo cấp gọi bằng Ác tướng chủ về bôn ba hình ngục.
Tám là hình mạo thô tục, tinh thần si ngốc, mặt mũi lấm lem như đồ vật để trong tro than gọi bằng Tục tướng chủ về chuân chuyên, suốt đời cơm không đủ no, áo không đủ ấm.
Cách đây hơn 40 năm, tỉnh Quảng Đông trộm cướp nổi lên như chấu, nhất là vùng Chu Giang, Tam Giốc Châu. Những tên cướp khét tiếng lúc ấy là La Kê Hồng, La Bố, Bộc Nho, Đàm Lục, Trương Định Cơ. Chúng nhiều bè đảng hoành hoành giết chóc. Quan quân phải mất bao nhiêu công lao mới giết hết.
Tướng cách bọn đó mục diện hung hãn, thô tục không bút nào tả xiết.
Báo chí Trung Quốc có đăng lời các thầy tướng đoán La Kê Hồng quyền cao, mũi nhỏ, trán hẹp, hàm chắp loại sát nhân, bất đắc kỳ tử và Trương Định Cơ mi thô (lông mày chổi xể), mắt lớn, mũi gầy gồ, thân thể mập thô bỉ loại hung bạo vong mạng.
Thời kỳ kháng Nhật, những tên cướp nhẩy lên làm hán gian quyền thế nhất phương tự phong làm hoàng đế, tiền của vàng bạc nhiều vô số, điển hình là hai tên Thị Kiều hoàng đế Lý Lãng Kê ở Phiên Ngung và Phật Sơn hoàng đế Trúc Thăng Bính ở Nam Hải.
Tại sao cũng một phường trộm cướp mà bọn La Kê Hồng, Trương Định Cơ sống lẩn sống lút trong khi bọn Lý Lãng Kê và Trúc Thăng Bính lại tự xưng hoàng đế thịnh cực một thời?
Tại thời thế và tại số mệnh.
Lãng Kê chỉ là cái tên hiệu, vì họ Lý vốn không tên, cha mẹ nghèo hèn thất học, kiếm ăn lấm lưỡi còn thì giờ đâu mà đặt tên, nên lấy họ để gọi.
Lý theo bọn du thủ du thực nay làm ma cô, mai gác sòng bạc, tập thói xấu thành người hút xách đổ bác.
Đánh bạc thua hết tiền ăn tiền hút, Lý chìa tay vay tiền người được. Bao giờ hắn cũng vay lưỡng nguyên (hai đồng) vì hắn nói ngọng nên tiếng lưỡng nguyên thành ra lãng kê. Lần lần, dân bài bạc đặt cho hắn là Lý Lãng Kê.
Một hôm, ở trong tiệm hút, Lãng Kê gặp ông thầy tướng rong khá giỏi tên Ngưỡng Sơn đạo sĩ thường đến xem cho khách tại các trà thất, tiệm hút. Thầy Ngưỡng Sơn thấy đa số trong tiệm tỏ vẻ khinh thị Lý Lãng Kê, cần gì thì sai bảo Lý, làm xong cho một vài xu. Ông mới chú ý xem tướng cho, không lấy tiền và bảo Lý Lãng Kê rằng:
- Tướng chú thuộc kim, thuỷ hình, lưỡng quyền và mũi có uy, đôi mắt quang ánh nhưng vì thần tán nên hữu dũng vô mưu. Hai bàn tay chú mềm mại, đỏ hồng như cánh hoa đào. Chỉ chừng vài bốn năm nữa vận tốt đến. Quá khứ chẳng nói làm chi, tương lai thành tựu khá giả lắm. Chú phải vào đất chết để tìm cái sống, cơ hội ở trong chỗ nguy hiểm ra.
Lý Lãng Kê bán tín bán nghi nói:
- Nếu quả vài bốn năm nữa tôi mà khá, tôi sẽ đến tìm thầy để báo đáp ơn nghĩa.
Vài năm sau, Lý Lãng Kê gia nhập một đảng ăn cướp. Nhờ gan dạ và cũng có đôi chút nghĩa khí, lại quen thung quen thổ nên bọn cướp tôn hắn lên chức vị đại ca.
Quân Nhật vào chiếm Quảng Đông, Uông Tinh Vệ thành lập chính phủ. Lý Lãng Kê đem bộ hạ gia nhập quân đội của Uông Tinh Vệ đóng tại Thị Kiều. Từ đấy Thị Kiều trở thành giang sơn của Lý Lãng Kê. Lại được Trần Bích Quân, vợ Uông Tinh Vệ giao phó nhiệm vụ kinh tài, Kê như hổ mọc cánh, muốn làm trời làm đất sao thì làm. Kê mở sòng bạc kiếm tiền và xây một toà nhà lớn cho hắn, đặt tên là Quần Viên, đồ đạc trang hoàng chẳng kém gì cung điện.
Đắc thời đắc thế, Lý Lãng Kê cho đi mời Ngưỡng Sơn đạo sĩ từ Hương Cảng về Thị Kiều làm quân sư cho hắn. Ngưỡng Sơn đạo sĩ tới Thị Kiều thấy Lãng Kê bây giờ mập mạp, mắt hung dữ giống hệt một con heo, tướng thuộc “Trư hình” thế nào cũng gặp hoạ lớn, nên ở với Lý vài ngày rồi tìm cớ thoái thác trở lại Hương Cảng.
Không bao lâu, Uông Tinh Vệ chết, kháng chiến thắng lợi, bao nhiêu tài sản của Lý bị tịch thu, còn Lý thì bị xử tử.
Phật Sơn Hoàng đế Trúc Thăng Bính cùng một tướng cách như Lý Lãng Kê nên chung số phận làm Hán gian thịnh cực nhất thời rồi chết thảm.
Tục tướng, ác tướng hung tử là bọn Lý, Trúc nhưng quý tướng có hung tử hay không?
Quý tướng mà phạm tướng hung tử lẽ đương nhiên sẽ chịu cái chết bất toàn. Không phải chỉ ác tướng và tục tướng mới hung tử. Có điều là hai tính chất của hai cái chết quý tiện khác hẳn nhau.
Như trường hợp đại tướng Tùng Tỉnh, tướng Đông Điều Anh Cơ của Nhật Bản.
Tùng Tỉnh qua Trung Quốc vào thời Hồ Hán Dân làm Thủ tướng Trung Hoa Dân Quốc, chiến tranh Trung Nhật chưa bùng nổ. Nhật cử Tùng Tỉnh là vì ông thân với Hồ Hán Dân, đồng thời Tỉnh có nhiều khả năng gián điệp.
Một lần, Tùng Tỉnh ở Hàng Châu ăn mặc giả làm thương nhân Trung Quốc, ông nói tiếng Tàu hệt người Tàu, dáng người nhỏ nhắn, mặt mũi đặc dân Trung Hoa, mang giấy thông hành tên Trương Thiện Tài nguyên quán Phúc Kiến, nghề nghiệp buôn trà. Vào mùa mưa dầm, Tùng Tỉnh nán lại Hàng Châu cả tháng trời. Những lần đi phố, ông chú ý đến tấm bảng đề mấy chữ “Trần tri thiên, thiện quan khí sắc” mới rắp tâm tới xem để tìm hiểu nghề tướng số của Trung Hoa quả có như sách vở vẫn ca tụng chăng?
- Trần tiên sinh, xin tiên sinh coi tướng cho tôi năm nay buôn trà liệu việc làm có trôi chảy đủ cơm nuôi cháu không?
Thầy tướng định thần coi hồi lâu rồi nói:
- Ngài nói ngài gốc gác Phúc Kiến đi buôn trà, tôi xem ra thì không đúng, tôi e tướng ngài đã biến cách. Bởi vì tỉnh Phúc Kiến ở phương Nam thật đấy và hình dáng của ngài thuộc người Nam nhưng nhất định các cụ thân sinh ra ngài phải ở phương Bắc. Nếu thực ngài là người Phúc Kiến thì Nam nhân Nam tướng chẳng có gì là quý, tuy nhiên, theo tôi ngài là người Bắc mà tướng người Nam. Bắc nhân Nam tướng thế mới thực là quý tướng. Ngài cũng không tay nhà buôn, tất là công chức làm việc cho nhà nước.
Tùng Tỉnh giật mình mà vẫn điềm nhiên nói:
- Tiên sinh nói đúng, tôi vốn là người ưa giang hồ ngao du ở phương Bắc nên chẳng muốn thổ lộ tung tích của mình cho ai hay. Nay tiên sinh đã nhận ra, tôi không dám giấu. Tiện đây xin hỏi tiên sinh tương lai của tôi liệu thế nào, cát hay hung.
- Ồ tốt lắm, ngài Bắc nhân Nam tướng lại thêm tướng ngũ đoản ngũ tàng (tàng là ẩn giấu) nhất sinh phú quý.
- Tôi đã từng được nghe tướng ngũ đoản, còn tướng ngũ tàng thì chưa nghe nói bao giờ, xin tiên sinh chỉ dạy cho.
- Ngũ tàng là khí tàng, thanh tàng, ý tàng, sắc tàng và thần tàng. Cả năm thứ đó không thứ nào lộ ra ngoài cả. Nếu như ngài ở ngành võ tất phải xuất tướng nhập tướng không sai. Tôi xin có lời mừng.
- Tôi nghĩ tiên sinh quá khen chứ tôi làm gì mà xuất tướng nhập tướng, chỉ mong ngày hai bữa cũng đủ sung sướng, dám đâu cao vọng phú quý.
Thầy tướng Trần Thiên Tri cười mà rằng:
- Phú quý đâu có phải cứ cầu mong là nó tới cũng như nghèo hèn dù có đuổi nó cũng không đi. Tôi chỉ muốn hỏi ngài đã từng học võ nghiệp chưa hay hiện tại đã cầm quân rồi?
Trước đôi mắt quá tinh tường của thầy tướng, Tùng Tỉnh đành phải nói mình sinh ra ở phương Bắc, lớn lên tại Thượng Hải, từng học trường quân sự, còn nghề nghiệp hiện tại thì giang hồ ngao du và buôn trà sinh sống.
Thầy tướng lắc đầu nói:
- Nhất định không phải ngài từ Thượng Hải tới đây mà từ Phương Nam lên đây vì cung Dịch Mã động theo Nam hướng Bắc hành rồi sau đấy tiếp tục đi lên hướng Bắc nữa chứ không trở về Thượng Hải đâu.
Tùng Tỉnh mặt lại đờ ra hết đường chối cãi, vội nói:
- Vâng vâng quả vậy, ba tháng trước tôi ở Thượng Hải đi Phúc Kiến rồi tôi qua đường thuỷ từ Phúc Kiến về đây.
Thầy tướng gật gù nói:
- Thôi đấy là chuyện quá khứ, bây giờ nói chuyện tương lai. Khí sắc và tướng cách ngài không thể nào là lái buôn, ngài tất là người trong giới quân sự hoặc chính trị. Các việc buôn trà của ngài lúc này, theo tôi cũng chỉ để phục vụ cho chính trị hay quân sự chứ đâu phải để kiếm sống. Nay dù cho là kiếm sống đi nữa thì ngài chớ nên bám vào cái nghiệp ấy lâu, hãy trở về quân giới mới mong hiển đạt hơn.
Tùng Tỉnh thoạt đầu trời mưa nhàn rỗi đến xem chơi mà thôi, nào ngờ gặp thầy tướng nhìn thấy cả lòng ruột mình nên luôn tiện hỏi cho thật kỹ.
- Thưa tiên sinh, tôi thân hình thấp nhỏ vào vũ nghiệp có tốt không? Hay nên theo văn chức? Văn hay võ tương lai thành tựu thế nào? Nếu làm võ sẽ chết tại sa trường hay thọ chung chính tẩm?
Trần Tri Thiên tiên sinh đáp:
- Tôi xin trả lời ngài từng câu một. Trước hết, nghi biểu bên ngoài trông hợp văn hơn võ nếu không quan sát tường tận, nhưng đôi mắt ẩn chứa quang sáng quắc, lưỡng quyền chạy dài đến thiên sương, nhất định không phải tướng văn. Tương lai đây, ngài sẽ chỉ huy ba quân lập đại công cho đất nước, vào độ trung niên ngài sẽ gặp cơ hội xuất tướng. Mệnh của ngài không chết nơi sa trường, có quyết đoán là không bị thương nữa. Được tuổi thọ ít nhất ngoài 60 đến 70. Còn như có thọ chung chính tẩm hay chết phi mệnh tôi sẽ ghi vào mảnh giấy, khi nào ngài làm tướng hãy đọc.
Trần tiên sinh đã ghi vào những gì chỉ có Tùng Tỉnh biết. Về sau, Tùng Tỉnh bị kêu án phạm tội chiến tranh sau ngày Nhật Bản đầu hàng, xử treo cổ, báo chí mới đọc mảnh giấy đó với mấy hàng chữ sau đây:
Người này tướng hoả mà thấp nhỏ, cực tinh anh, năm nay 24 tuổi, lúc phát như sấm sét. Mắt có hung quang, lưỡng quyền phối hợp, nên ở quân đội không nên ở văn chính. Tương lai đăng đàn bái tướng, lớn đến bậc đại tướng. Chung thân vinh hoa phú quý. Nhưng chết phi mệnh bất đắc kỳ tử, tuy nhiên, thân thể không bị chia lìa, không chảy máu, không thân bại danh liệt. Đợi việc xảy đến chứng minh.