“Hành nhược phù vân, toạ như đỉnh thạch
Đoạn hậu cẩn ngôn, tính tình khoan dật”.
Nghĩa là: Đi nhẹ như mây bay, ngồi chắc như tảng đá. Nghiêm trang, ăn nói cẩn thận, tính tình khoan dật.
Có dáng dấp phong thái như trên thì sẽ: Quan sùng vị hiển, tử tôn vinh (Quan to chức trọng, con cháu đề huề).
Trái lại, nếu đi mà đầu lắc lư, ngồi cúi gằm mặt thì bần tiện chung thân.
Dáng dấp phong thái quan trọng như thế đấy.
Toạ như đỉnh thạch, ngồi chắc như tảng đá là ngồi không nhấp nhổm, chốc chốc lại đứng dậy ngả bên nọ, nghiêng bên kia, giơ tay giơ chân rung đùi, rung vế chứng tỏ thần khí đủ nên không mỏi mệt.
Tinh thần càng sung túc, sự nghiệp càng hay, người Trung Hoa nói một phân tinh thần, một phân sự nghiệp.
Không cứ to lớn, hay nhỏ bé, hễ ngồi không ấm chỗ được lâu, sự nghiệp khó bền bỉ.
Tinh thần đã suy nhược tất nhiên lười, không quyết đoán, ỷ lại làm sao khá được?
Làm nên sự nghiệp là những người có tinh lực dồi dào, ý chí kiên cường, khí phách khoát đạt, tinh minh lỗi lạc.
Thiếu thần khí dù có mệnh vận tốt chẳng qua là nhất thời phong vận, càng cao lắm càng làm trò cho thiên hạ cười như Trương Tôn Xương, ông tướng thịt chó dưới thời Bắc Dương.
Thần khí là cái tốt tiềm phục bên trong, nhất đán gặp cơ hội là phát huy kiến lập sự nghiệp lẫy lừng.
Tướng mệnh học đào sâu hơn nữa về dáng dấp phong thái qua tướng ăn ngủ. Những việc thường ngày trong sinh hoạt có thể báo hiệu cát hung hoạ phúc.
Trương Phi lúc ngủ mở mắt nghiến răng, ngáy ran như sấm, ngủ say như chết đúng là anh chàng lỗ mãng chết vì đâm chém.
Gia Cát Khổng Minh ngủ như ông đã tả trong bốn câu thơ:
Đại mộng thùy tiêu giác
Bình sinh ngã tự tri
Thảo đường xuân thụy túc
Song ngoại nhất trì trì
(Giấc mộng lớn nào ai tỉnh trước
Bình sinh ta lại biết mình ta
Ngày xuân đẫy giấc trong am cỏ
Ngoài cửa trì bóng ngựa qua)
Ngủ với dáng dấp ấy nên Khổng Minh với hai bàn tay trắng mà giúp Lưu Bị chia ba thiên hạ, suốt đời ông giữ được phong thái của một trung thần chí sĩ.
Hoàng Hoa Thám, nhà cách mạng kháng Pháp ngủ mở mắt, sau bị phản mà bất đắc kỳ tử.
THÀNH BẠI Ở CHỖ QUYẾT ĐOÁN HAY DO DỰ
Việc thành bại của cá nhân do nhiều lẽ. Tuy nhiên, quyết đoán hay do dự là quan kiện trọng yếu cho thành bại. Cái nghĩa cao nhất của hai chữ quyết đoán khác hẳn hai chữ quyết liệt và bừa liều.
Trương Lương quyết thắng việc ngoài ngàn dặm chỉ cần ngồi trong doanh trại, khác hẳn Hạng Võ hôm nay quyết liều một trận.
Sách tướng dạy rằng:
“Kẻ nhiều ngạo khí hay liều
Kẻ thần bất túc không quyết đoán”.
Xem tướng để biết ai quyết đoán, ai liều, ai do dự, xem ở đâu?
Hãy nhìn vào các bộ vị trên mặt, nếu thấy mi cốt (xương dưới lông mày) cao ngang, sống mũi nổi, quyền cốt cao, cằm đưa lên như chầu vào mũi. Đó là tướng dũng cảm quả quyết. Xong nhìn vào nhãn thần (ánh mắt) thấy sáng trong chứng tỏ trí tuệ cao minh, mắt thẳng thắn con người không trâng tráo, đảo điên chứng tỏ tâm lý kiên quyết không thay đổi. Cộng với đôi mắt cắn chỉ (Ngậm chặt rất khít) cũng là dấu hiệu của tính quyết đoán. Có những tướng trên rất dễ thành công.
Đời Tam Quốc, Tuân Úc trong một cuộc đàm thoại với Tào Tháo đã nói về Viên Thiệu như sau:
- Ngoài mặt thì bao dung nhưng lòng lại đố kỵ
- Do dự không quyết đoán dễ hỏng việc về sau.
- Trị quân lỏng lẻo, pháp lệnh không nghiêm, quân mã nhiều mà vô dụng.
- Cậy là kẻ quyền thế, chuộng hư danh nên chỉ có những kẻ hẹp hòi thấy lợi thì tôn thờ, nịnh bợ.
Tất cả những tính kể trên của Viên Thiệu bởi do dự không quyết đoán mà ra.
Quyết tâm có tạo khí thế cho sự nghiệp như sao đẩu, sao ngưu, đẹp như cầu vồng mọc ngang trên trời.
Tỉ dụ: Phạm Hồng Thái vác bom ném vào tên toàn quyền thực dân Pháp Merlin. Thành bại hay không không ở chỗ tên trùm thực dân có chết hay không mà ở chỗ nó làm nổ lên một quyết tâm diệt thù.
Lòng quyết tử tiến lên đường gió bụi
Hai bàn tay thề phục lại sơn hà
Thái Bình Dương lấp bằng niềm tủi nhục
Lấy máu đào rửa sạch máu yêu ma
(Thơ Thái Dịch)
KHÍ TRONG SÁNG NHƯNG HÌNH YẾU ĐUỐI
TÀI CAO MÀ MỆNH BẠC
Hồn tài tử vơi đầy ngụ oan khổ
Khúc đoạn trường nên tuyệt cổ văn chương
Hồn tài tử là khí chất trong sáng. Oan khổ với đoạn trường bởi trưng hình thể doanh hư. Hữu tài vô mệnh. Ngoại biểu thanh tú thông tuệ, bản chất thân thể yếu đuối, lúc nào cũng tựa người ốm đau mà không phải ốm đau. Sách tướng gọi là hình bất túc. Khí thanh nên tài cao, thế chất yếu đuối nên không lâu bền. Cho nên có mấy câu: “Khí thanh thế doanh tuy tài cao nhi bất cửu. Ta nói khí độ, khí phách, khí vũ, khí vận, khí thế tức là nói một cái gì trừu tượng biểu xuất ra bên ngoài mà gốc của nó là tinh lực vô hình. Chẳng những nó quan hệ đến thọ yểu con người, còn quan hệ đến giàu sang, nghèo hèn, cát hung họa phúc”.
Sách “Linh Sơn Bí Quyết” nói:
- Hình là chất vậy khí làm cho chất đầy đủ sung thực. Hình nhờ khí mà nảy nở tươi tốt, thần nhờ chất mà an định. Thần an thì khí tĩnh. Được thua còn mất không làm cho khí hao tổn. Mừng giận không làm cho kinh động tinh thần. Lúc nào cũng điềm đạm, bao dung khí độ.
Người nào không uống rượu mà trông như say, không nói chuyện buồn mà trông âu sầu, dễ kinh hoàng sợ hãi, tinh thần bất định không thể có sự nghiệp, hoặc có sự nghiệp cũng nửa đời sụp đổ.
Hình là thân xác con người thuộc về thực chất. Khí là linh hồn con người thuộc về tinh thần. Cả hai liên hệ như dầu với đèn. Dầu khô đèn không sáng. Đèn không bấc, bóng đèn vỡ, đèn không cháy.
Sách “Ngọc Quản Chiếu thần” nói:
- Đá có ngọc nên núi rực rỡ. Ngọc là khí, đá và núi là người vậy.
Thầy Nhan Hồi, học trò giỏi của Khổng Phu Tử, mặt sáng đẹp cực thông tuệ nhưng mới ba mươi tuổi đã chết chỉ vì ngũ tạng hư, thân thể yếu đuối.
Nhà văn Vương Bột, tác giả bài phú “Đằng Vương Các” chết năm 29 tuổi cũng chỉ do cái tướng khí, thanh thể doanh hư. Hình bất túc cho nên khí thanh chẳng tụ vào đâu được.
TINH THẦN MẠNH, XƯƠNG CỐT KHỎE, QÚY PHÚ THỌ KHANG NINH
Nóng rét gió mưa, tật bệnh là đại địch, mệt nhọc, đói khổ là tai họa của con người. Nếu muốn chống lại những đại địch và những tai họa đó, con người ta cần phải đầy đủ tinh lực.
Thần cường cốt tráng mới chịu được gió mưa, nóng rét, mệt nhọc, đói khổ. Có chịu được mới kiên trì chiến đấu mà tạo nên sự nghiệp.
Kiên trì và nhẫn nại
Không chịu lùi một phân
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần.
Tôn Tẫn bị Bàng Quyên cắt gót, giả điên lăn lộn trong chuồng heo nếu không thần cường cốt tráng thì hỏi làm sao sống để rửa hận giết Bàng Quyên.
Hầu như hết thảy các vĩ nhân trong lịch sử thế giới chẳng ai là thiếu cái lực nhẫn nại kể trên.
Thần cường cốt tráng đã, số mệnh tính sau.
Thần cường cốt tráng hiện ra hình tướng như thế nào?
a) Quyền cốt cao rộng,
b) Lông mày dài,
c) Sống mũi hữu lực,
d) Nhân trung dài, sâu,
e) Da đầu không quá căng. (Nếu căng như da trống là chết. Đầu ở đây kể cả mặt).
f) Răng lớn, chặt chẽ khít khao,
g) Huyết sắc vinh phát. (Da mặt hồng hào, không trơn như mỡ, không ám hãm),
h) Pháp lệnh dài, sâu,
i) Tiếng nói lớn mà không cụt,
j) Hơi thở đều đặn.
Thần cường cốt tráng nhưng có rất nhiều trường hợp cốt tráng mà tinh thần bạc nhược, như mấy anh thân hình thì to lớn nhưng ngu độn, gọi là hình hữu dư thần bất túc, thì lại thuộc tướng cách khác.
Thần cường là căn bản rồi mới đến cốt tráng.
Bốn câu thơ:
Hỡi tráng sĩ đấu tranh đầy khổ ải
Hãy trau dồi thể hiện những đau thương
Đông thê thê tuốt gươm mài khẳng khái
Hận du du đúc trí ngọc phong sương.
(Thơ Thái Dịch)
Mài khẳng khái, hận du du, đúc trí ngọc là thần cường, chịu khổ ải, đau thương và phong sương là cốt tráng.
Thường thường nếu không có thần cường thì cốt tráng cũng không chịu nổi khổ ải.
Phú quý thọ khang ninh là những gì đến sau thần cường cốt tráng. Đến sau nhưng ở lâu bền.
MẶT SÁNG NHƯ NGỌC
Sách tướng có ghi tướng cách: Nhan như quan ngoc (Mặt mũi sáng như ngọc quan). Quan ngọc là một loại ngọc tốt không bị vết là cực đẹp. Người Trung Quốc xưa dùng loại ngọc này để gắn lên mũ các quan đại thần.
Nhan như quan ngọc là tướng phú quý. Người trẻ tuổi mặt sáng như quan ngọc đi thi là đỗ đạt cao, hoặc cha mẹ giàu có hiển vinh. Tướng này chỉ có một điểm đáng chê trách là những anh mặt sáng như ngọc quan tính nhút nhát, nếu không nhát thì kém kiên trì. Muốn biết phải nhận xét cho tinh vì nhan như ngọc có nhiều loại: Nếu bộ mặt trắng như ngọc ấy hốt nhiên đổi thành giống như xoa phấn thì đâm ra phản trắc, bất lương gọi là phấn diện sở khanh, đàng điếm.
Nhân vật chính trị cận đại là Uông Tinh Vệ lúc thiếu niên nhan như quan ngọc sau đổi ra phấn diện khiến phải chết ô danh.
Mặt trắng sáng có mị thái thiếu nghiêm túc là bọn cợt nhả lẳng lơ.
Mặt trắng sáng cần thân thể khôi vĩ, đẹp mà không mị (nịnh nọt mơn trớn).
Xin nhớ thêm: Diện như quan ngọc chỉ là một tướng cách thôi. Nó không có nghĩa cứ phải mặt hồng hào, trắng sáng mới quý cách và sắc diện xanh, đen, nâu là tiện cách. Còn tùy hình cục kim, mộc, thủy, hỏa, thổ của mỗi người.
Nói chung về sắc trạch có hai yếu kiện:
1) Màu da nên bền bỉ, ngồi lâu không biến đổi,
2) Phải có quang ánh khác thường.
Nếu không chỉ là loại mặt trắng đi hát tuồng hoặc đi hầu.
Mặt trắng tối kỵ vô tu (không râu), sách tướng có câu: Bạch diện vô tu chung thân phá bại (mặt trắng không râu về già phá bại).
Bạch diện vô tu tức là mặt đít ếch. Trắng nhẵn thín như đít con ếch.
Lịch sử dân quốc có hai đại nhân vật vì tướng cách sinh ra phạm diện bạch vô tu nên lúc già bị phá bại, danh tiếng bị bôi lọ.
Vị thứ nhất là Uông Tinh Vệ, nhân vật bi kịch của chính trị; Uông Tinh Vệ tướng mạo rất đẹp, phong độ hiên ngang, ngũ quan đoan chính khả dĩ gọi là “đẹp trai”. Họ Uông tuyệt thế thông minh, thi tứ văn chương đều thông hiểu. Lúc trẻ dám làm chuyện kinh thiên động địa hành thích “nhiếp chính vương” nhà Thanh. Tôn Văn về nước rất trọng dụng Uông Tinh Vệ khiến cho công nghiệp của ông sáng lạn như mặt trời giữa trưa. Trong khi mọi người đều ngưỡng mộ họ Uông thì riêng ông Ngô Trĩ Huy cũng là một nhân vật chính trị tỏ ra khinh thị Uông. Lý do Huy biết xem tướng nên nhìn thấu cuộc đời Uông Tinh Vệ. Theo sự phẩm bình của ông Huy về tướng Uông Tinh Vệ thì:
Mắt Uông Tinh vệ đã tròn sáng lại thêm dị quang, lòng mắt trong vắt xanh da trời chứng tỏ hiệp khí và linh mẫn. Chỉ tiếc một điều là diện bạch vô tu. Hậu vận hư hết, danh tiếng bị phỉ nhổ.
Lời đoán của Huy bị anh em chê cho rằng họ Ngô chủ ý ganh ghét nên dùng tướng học để dèm.
Kháng chiến chống Nhật bùng nổ, Uông Tinh Vệ đi theo Nhật cam tâm lập chính phủ bù nhìn. Nửa đường đứt gánh, Uông Tinh Vệ lo nghĩ quá thành bệnh mà chết. Nhật đem chôn ở núi Hoa Sơn. Nhật đầu hàng, mộ của Uông Tinh Vệ bị nhóm thanh niên ái quốc đem mìn lên phá, rồi tiếp đến hàng trăm quyển sách, hàng nghìn bài thơ thống mạ Uông Tinh Vệ.
Người thứ hai là Đường Kế Nghiêu.
Nghiêu cùng Sái Ngạc đem quân lên phía Bắc đánh Viên Thế Khải, thành công, danh vọng vang lừng toàn quốc. Về phương Nam, ông cắt đất lập giang sơn riêng.
Giữa lúc Đường Kế Nghiêu đắc ý nhất thì tại Vân Nam bỗng có một vị sư không biết từ đâu tới căng biển ngữ xem tướng. Trên biển đề mấy chữ: “Chỉ theo duyên nghiệp mà chỉ bảo cho mười anh hùng nhân vật” dưới ký Nga Mi Sơn cao tăng.
Đường Kế Nghiêu thấy lạ bèn cho vời vị cao tăng kia tới khẩn khoản xin cho biết cuộc đời mình.
Trông Đường Kế Nghiêu hồi lâu rồi vị cao tăng viết:
- Mi nhãn dữ các bộ vị cực tương đối (mi và mắt cùng các bộ vị rất hợp).
Ngoại biểu anh tuấn bất phàm (tướng bên ngoài anh tuấn khác thường).
Duy thị bạch diện vô tu nam ngôn vĩnh thọ (tiếc vì mặt trắng không râu nên khó lòng lâu bền).
Hữu thập niên đại vận (có mười năm đại vận).
Thập niên hậu ưng nghi cấp lưu dũng thoái quảng kết thiện duyên, tích đức bảo thọ (mười năm sau nên rút cho mau, gắng làm điều thiện mới mong khỏi tai họa).
Đường Kế Nghiêu kiêu hãnh về thân phận chắc như bàn thạch của mình nên bao nhiêu lời vị cao tăng đều bỏ ngoài tai.
Dân quốc thứ 16, liên tiếp biến chuyển, hết Bắc phạt đến Vân Nam chinh chiến. Đường Kế Nghiêu bị đánh bại uất ức quá mà chết trong cảnh bần khổ đáng thương.
Nghiêu chết năm bốn tám tuổi, ứng với tướng Diện bạch vô tu chung thân phá bại.
Cái kỵ thứ hai của mặt trắng là nộn sắc trông trẻ con. Người ta lớn lên giống như vỏ cây theo với tuổi tác mà già dặn, đanh thép. Nếu lúc nào mặt cũng bụ bẫm nõn ra như đứa trẻ là phản tướng chết yểu hoặc nghèo hèn. Ông Quỉ Cốc Tử nói:
- Sắc nộn khí gian tà tiểu nhân, túng hữu thành lập, diệc bất trường cửu, (sắc non khí non, tiểu nhân gian tà, dù có thành việc gì cũng chỉ trong một thời gian ngắn). Cùng diện bạch mà giá trị khác nhau rất xa, cái khó của xem tướng là thế. Cần biết vàng si vàng thực mới là mắt tinh đời.
THANH TƯỚNG (Xem tướng tiếng nói)
Chuông có âm thanh, người có tiếng nói.
Chuông làm bằng đồng tốt, da tốt thì âm thanh tốt. Người ta cũng vậy.
Xem tướng phân ra: Nhất thanh nhị sắc tam hình. Tiếng nói quan trọng bậc nhất, thứ đến sắc diện, sau tới hình thể.
Thầy Tử Lộ ngồi gảy đàn, tiếng đàn nghe sát phạt. Đức Khổng Tử lấy làm kinh sợ chạy vào trong nhà xem thì ra lúc ấy đang có con mèo đuổi bắt giết con chuột nên ảnh hưởng đến tình tự người gảy đàn. Đàn mà còn vậy huống hồ tiếng nói con người ta. Thời kỳ tổng thống Roosevelt còn tại vị, mỗi tối ông lên đài phát thanh kể chuyện cho trẻ em Mỹ nghe trước giờ chúng đi ngủ. Tiếng ông đầm ấm, cả nước Mỹ cứ vào giờ ấy lắng nghe Roosevelt.
Macr Antoine chỉ dùng tiếng nói của mình mà đánh đuổi được nhóm Brutus để phục hồi lại quyền vị Cesar.
Muốn thuyết phục ai trước hết phải có một âm thanh truyền cảm cái đã. Nói nghĩa lý mà âm thanh nhức nhối lỗ tai chẳng ai thèm nghe. Sách tướng đưa “thanh” lên hàng đầu là đúng. Oai của con sư tử là ở tiếng gầm chuyển động trời đất của nó. Nếu con sư tử mà kêu chin chít như chuột thì thật khôi hài.
Cổ nhân thường ca ngợi tiếng tốt của các lãnh tụ vua chúa bằng tiếng nói như tiếng chuông, thanh nhược trản chung. Tại sao ví tiếng nói như âm thanh của chuông đồng? Vì tiếng âm hưởng lan rộng và ngân. Tiếng nói của con người cao quý cũng phải có âm hưởng và vĩ thanh (tức tiếng vang ngân còn vẳng lại bên tai). Nếu nghiên cứu về âm thanh học (acouistique) thì mới thấy sách tướng nói rất đúng.
Muốn có tiếng ngân và âm hưởng lan rộng thì nơi phát ra âm thanh phải đủ mọi điều kiện để âm thanh lan rộng và ngân. Điều kiện ấy cho tiếng nói con người là khí lực, nguyên khí, nơi đan điền (bộ phận nằm ở trong bụng dưới).
“Quý nhân chi thanh xuất ư đan điền
Tiểu nhân chi thanh căn tại thiệt đoan”.
Nghĩa là tiếng nói quý nhân xuất ra từ đan điền còn tiếng nói tiểu nhân từ đầu lưỡi.
Thanh tướng tốt xấu như thế nào?
Trầm ấm, có âm điệu, đĩnh đạc, hơi dài là tốt. Líu ríu, láu táu, thều thào, lí nhí, hơi ngắn là xấu.
“To như âm vang chuông trống
Nhỏ như ngọc thuỷ lưu minh”.
(Nước suối mát chảy róc rách, thanh khiết âm điệu) là tốt. Tiếng đục, tiếng thô, the thé là xấu.
Người to tiếng nói nhỏ dễ gặp hung tai. Người nhỏ tiếng nói lớn đại quý.
Tiếng nói trì trệ, khô cằn, trước nhanh sau chậm, trước chậm sau nhanh, chưa hết tiếng hơi thở đã mất, chưa nói mặt đã biến sắc đều thuộc loại tiện tướng.
Với phụ nữ, thanh tướng càng quan trọng. Đàn bà chỉ cần một tiếng nói sang cũng đủ làm mệnh phụ phu nhân. Chỉ cần tiếng nói đàn ông cũng đủ ăn thịt vài ông chồng.
Đời nhà Thanh có ông Đới Hồng Từ người Quảng Đông, thuở nhỏ nổi danh thần đồng. Chưa đầy hai mươi tuổi đỗ tiến sĩ vào triều làm quan tới hình bộ thượng thư. Hồng Từ còn có hai anh em nữa cũng đỗ đạt quan cao. Theo dân cư kể lại thì sở dĩ anh em Đới Hồng Từ được hoạn đồ đắc ý là nhờ dị tướng của bà mẹ. Nguyên lai, Đới Công, cha của Đới Hồng Từ vốn hiểu biết thâm sâu về khoa xem tướng, học rộng nhưng vì mệnh số hẩm hiu nên không đạt đành phải bỏ đường làm quan vào đường buôn bán. Tuổi đã cao vẫn chưa lấy vợ. Ngày ngày miễn cưỡng ghi sổ, ghi sách, đủ chi dùng độ nhật vì cơ sở buôn bán cũng chẳng phát triển bao nhiêu. Một hôm có một cô gái vào tiệm mua hàng. Trông mặt cô ta xấu nhưng được cái sống mũi chính trực, mắt trong sáng nhất là tiếng nói réo rắt âm điệu hơi dài nghe dễ chịu. Đới Công lấy làm lạ, xấu là tướng dục nhưng âm thanh như vậy là thần tú. Dĩ nhiên cái đẹp ấy không hợp với tục nhãn nên cô chưa có chồng. Đới Công tìm người mai mối hỏi cô gái làm vợ.
Kể từ sau khi lập gia đình, cửa tiệm buôn bán của Đới Công mỗi ngày mỗi đông người mua bán. Vợ chồng hòa thuận, đẻ liền ba con trai đặt tên là Đới Hồng Hiến, Đới Hồng Huệ, và Đới Hồng Từ. Bà mẹ dạy con rất khéo, tối tối trong nhà tiếng học ran ran. Họ Đới phát phú quý làm dân vùng Quảng Đông đi đến đâu cũng nghe kể.
Trong thiên nhiên, âm thanh vĩ đại không gì bằng sấm sét.
Tiếng sấm mùa xuân làm cho vạn vật tỉnh giấc, tiếng sét mùa hạ làm cho mưa gào gió thét. Sấm sét để tuyên thị cái oai của trời đất. Nay lấy sấm sét ví với tiếng nói của người để tạo hình ảnh cho cái oai đó.
Sách có câu: Tâm hữu sở dục thanh tất tuỳ chi (Mình muốn thế nào, âm thanh tuỳ ý muốn ấy). Thanh âm biểu hiện tinh thần thể phách, trí tuệ và khí chất của một người.
Sách “Lễ Ký” viết:
“Cảm ư vật nhi động, cố hình ư thanh, thanh tương ứng cố sinh biến, biến thành phương vị chi âm”.
Qua nghĩa câu trên, danh từ thanh âm thì âm là dư âm của thanh, như tiếng ngân vang của chuông kêu. Thanh mà vô âm là thanh xấu.
Âm thanh cao quý nhất xuất phát từ đan điền chứng tỏ thần khí đầy đủ, có cương có nhu, nghe xa thấy hùng vĩ, nghe gần thấy du dương dậy lên như cưỡi gió, im mà vẫn văng vẳng như dây đàn.
Có tiếng nói như thế, giàu sang phú quý kiêm phúc thọ vô lượng.
Âm thanh xấu nhất nghe héo hắt, khô khan, nhức tai, vẩn đục, gián đoạn, nặng nề, vỡ nứt, tràn đổ ra ngoài. Héo hắt, chủ bần cùng đoản thọ. Khô rít, chủ khốn đốn ức uất suốt đời. Vỡ nứt, chủ phá bại cơ khổ. Nặng đục, chủ thô lỗ. Tràn đầy nước bọt bắn tung toé, đoản thọ vạn sự vô thành. Nhức tai, chủ tài lộc bất định dù có trọng quyền cũng lận đận, lao đao. Gián đoạn, chủ hữu danh vô thực, cuối cùng thân bại danh liệt.
Coi tướng âm thanh cần phối hợp với thái độ khi nói chuyện. Người nào cười nói tự nhiên mới tốt. Vừa nói chuyện mà mặt đã đỏ lên không nên cùng người đó bàn chuyện bí mật. Lúc cười nói phảng phất có khốc âm (tiếng khóc) tất là cô độc bi khổ. Hay cười nhạt, âm thanh bạc bẽo là loại vô tình, vô nghĩa, thú đội lốt người. Tiếng nói từ đầu lưỡi xuất phát đa số làm nô tì. Đàn ông tối kỵ nói ỏn ẻn như đàn bà cũng như đàn bà tiếng ồ ồ đàn ông.
Nữ hữu nam thanh tất hình phu khắc tử. Nam hữu nữ thanh thoát bất tiện bần. Biểu hiện nỗi mừng chớ quá trớn thành phóng túng, nên thanh khiết không thô tục. Biểu hiện nỗi giận nên hùng tráng chớ cay nghiệt, mạnh mà không ác. Biểu hiện nỗi sầu thảm nên bùng ra chớ tàn úa héo hon, khóc như mưa rào mà không uất ức mỏi mòn. Biểu hiện nỗi vui thú nên nhẹ nhàng chớ điên cuồng.
TƯỚNG BẤT ĐẮC KỲ TỬ
Đặng Diễn Đạt quê quán ở Mai Huyện, tỉnh Quảng Đông. Thời kỳ Quốc Cộng phân liệt, Đạt là một trong những lãnh tụ Quốc Dân Đảng bèn tách rời Đảng để tổ chức lập Đảng thứ ba, tự tôn mình làm Đảng trưởng. Lúc ấy Đạt mới có ba mươi tuổi.
Dân Quảng Đông không mấy người biết mặt Đạt vì ông ta xuất ngoại du học từ thuở nhỏ. Về nước giữa khi Tưởng Giới Thạch hoàn thành Bắc phạt lật đổ Viên Thế Khải. Đặng Diễn Đạt được giữ chức chủ nhiệm tổng chính trị bộ kiêm giáo dục trưởng trường Võ bị Hoàng Phố.
Một hôm Đặng Diễn Đạt cùng Borodine ngồi xe song mã đi chơi phố ở tỉnh Vũ Xương. Borodine là trưởng phái đoàn Xô Viết sang Tầu để giúp đỡ Cộng sản Trung Quốc hoạt động cho nên thiên hạ thấy hai người dừng xe ở đâu là xúm lại xem đông đảo. Có những người liên hệ với trường Hoàng Phố chỉ bảo xầm xì cho dân chúng biết đó là Đặng Diễn Đạt, nhân vật chính trị quan trọng. Đây là lần đầu họ trông thấy mặt họ Đặng.
Trong đám quần chúng có thầy tướng trứ danh tên Dã Hạc đạo nhân. Với dân chúng và con mắt tục thì ai ai cũng trầm trồ khen ngợi Diễn Đạt khí vũ hiên ngang, mặt to tai lớn, có oai xứng đáng bậc yếu nhân của chính phủ.
Chỉ riêng Dã Hạc đạo nhân lắc đầu than tiếc: Hung tướng 38 tuổi bất đắc kỳ tử. Có người hỏi lý do. Dã Hạc đạo nhân cười mà rằng:
- Tướng cục họ Đặng thuộc quý cách đã đành nhưng đi đôi với quý cách ấy còn tướng đoản mệnh bất đắc kì tử. Cái tướng ấy nằm ở đôi mắt, mắt như mắt heo mà lại đầu lớn, má to như đầu heo tránh sao cho khỏi hung tử.
Đảng thứ ba của Đặng Diễn Đạt có nhiều người ủng hộ nên thế lực chính trị của ông không phải nhỏ. Ít lâu sau, Đạt qua Âu Châu. Đi theo Đạt là người họ Chương. Có người biết chuyện đoán tướng của Dã Hạc đạo nhân, khuyên họ Chương chớ theo Đạt. Họ Chương không tin tướng số chỉ tin vào sự thành công của đệ tam Đảng.
Khi Đạt ở Bá Linh thì tại Mạc Tư Khoa, Staline chú ý đến Đạt nên đánh điện mời Đạt qua Nga. Đạt dự tính chuyến đi này ngoại giao với Điện Cẩm Linh sẽ qua đường Tây Bá Lợi về nước. Trước khi đi, nhân uống rượu vui mừng, Đặng Diễn Đạt thấy Chương nói chuyện Dã Hạc đại nhân nên mới chứng minh với bạn, Đạt rủ Chương đến thăm một cụ già Trung Quốc ở Bá Linh đã lâu đời, giỏi xem tướng tên là Thượng lão nhân hỏi tướng cách mình, chuyến đi thành công hay không? Hỏi cho vui chứ thiệt Đạt chẳng tin. Thượng lão nhân cho biết chuyến đi vô ích và Đạt phải trở lại Bá Linh. Đạt và Chương nhìn nhau cười.
Qua Mạc Tư Khoa ăn chực nằm chờ gần một tháng, Đạt mới gặp Staline. Mục đích của Staline là dùng Đặng Diễn Đạt thay thế cho Trần Độc Tú, lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng khi gặp mặt thì Đạt nói cho Staline hay rằng mình không phải là đảng viên Đảng Cộng sản nên Staline đổi ý lập tức và ra lệnh cho các cơ quan an ninh trục xuất Đạt ra khỏi nước Nga ngay. Do đó, Đạt không qua Tây Bá Lợi Á về nước mà phải quay lại Bá Linh đúng như lời Thượng lão nhân.
Thâm tâm Đạt có ý thầm phục lão đoán tướng số. Thượng lão nhân nói:
- Cái lý của tướng học tương tự như tâm lý học, trong lòng vui nét mặt vui, trong lòng buồn nét mặt buồn.
Đặng Diễn Đạt cãi:
- Đấy là hiện tượng tâm lý chứ không phải hiện tượng tướng lý.
Thượng lão nhân vốn ít ưa tranh luận nên bảo người nhà đưa cho Đạt gương soi mặt nói:
- Ông hãy soi gương rồi cho tôi hay mặt ông có những điều gì đáng chú ý.
Đặng Diễn Đạt nhìn gương hồi lâu nói:
- Tôi chỉ thấy đầu tôi lớn quá mà mắt tôi nhỏ quá.
Thượng lão nhân nói:
- Chẳng những mắt nhỏ, nó còn hơi đục. Hậu vận của ông tùy thuộc đôi mắt. Riêng tôi e khó lòng thiện chung. Đảng thứ ba của ông chắc chẳng thành cơm cháo gì đâu. Ông nên học hai chữ tri mệnh là hơn.
Đạt trả lời:
- Làm chính trị hơn nữa là một lãnh tụ, trách nhiệm ở chỗ xung phá khó khăn trở ngại. Tôi đã nghĩ kỹ, khi về nước tất phải gặp nhiều nguy hiểm, nếu tôi không vượt qua thì ai vượt qua cho tôi, cho nên tôi quyết làm cho đến cùng, bất quá ngồi tù. Tù còn có nghĩa là một hành động, chứ chẳng làm gì cả nghe không được.
Thượng lão nhân nói:
- Tôi chỉ nhân danh nhà tướng số mà khuyên ông thôi. Mắt ông thuộc loại mắt hung tử. Nếu ông không ở lại ngoại quốc, tướng ông thuộc loại Nam nhân Bắc tướng. Nếu ông không ẩn thân về phương Nam, chỉ ba năm nữa nhất định ông chết thảm.
Đặng Diễn Đạt không nói gì. Về Trung Quốc, Đạt trương cờ đệ tam Đảng hoạt động. Nhờ bà Tống Khánh Linh, vợ của Tôn Trung Sơn ủng hộ, Đạt thiết lập đại bản doanh tại Thượng hải chiêu tập hội nghị toàn quốc.
Trong khi ấy, phe Quốc Dân Đảng thế lực ngày mỗi lớn. Tưởng Giới Thạch từ bỏ chính sách liên hiệp với C. S. của Tôn Văn bằng cách dùng vũ lực bắt giết phe Cộng sản luôn thể cả những lực lượng chính trị không theo đường lối Quốc Dân Đảng.
Thấy Đặng Diễn Đạt có Tống Khánh Linh hỗ trợ, Tưởng Giới Thạch càng thấy cần phải đập nát Đảng thứ ba trước khi nó thành trưởng. Đằng sau Tưởng là những thế lực tư bản ngoại quốc nên việc thỏa thuận với nhà đương cuộc Tô Giới Thượng Hải dễ dàng. Chờ đúng ngày đại hội nghị toàn quốc, Tưởng Giới Thạch xua mật vụ quét một mẻ. Đạt bị giải về giam trong nhà ngục Nam Kinh. Mặc dầu có lời xin của Tống Khánh Linh nhưng Tưởng Giới Thạch vẫn ngầm sai người mang Đặng Diễn Đạt ra vùng ngoại ô bắn chết. Nơi Đạt bị bắn là Vũ Hoa Đài.
Hung tử có nhiều cái chết khác nhau: chết trận, chết vì trúng gió, chết treo hay bị tử hình, chết do đánh nhau đâm chém, chết tai nạn, chết vì ngộ độc, tự sát, chết vì gái v. v...
Xem tướng chỉ thấy những dấu hiệu hung tử, nhưng hung tử ra sao thì khó lòng đoán ra. Còn phải tuỳ tính, tuỳ môi trường xã hội mỗi người. Tỉ dụ: tính tình mê gái, mãn diện đào hoa nên đoán là chết vì gái. Tính tình hiên ngang, bộ vị anh hùng nên đoán là chết trong lao ngục hoặc ám sát chính trị. Tính tình keo kiệt, tham lam nên đoán chết vì thù oán hoặc cướp bóc. Cùng hung tử nhưng phải phân biệt anh hùng tiểu nhân để luận đoán cho tường. Qua các sách tướng pháp như: Tướng lý hành chân, Thuỷ Kính, Liễu Trang, Thiết Quan Đạo nhân Luân Đại Thống, Ngọc Quản Chiếu Thần thì những tướng hung tử như sau:
- Diện hữu sát khí, trên mặt có sát khí, thông thường ta gọi là mặt sát nhân. Ai trông thấy cũng ghê sợ mà chẳng phải oai nghiêm. Sắc diện sam sám, mắt dữ, răng sám khô, đại khái như thế. Sát khí cảm thấy nhiều hơn nhìn rõ được hình thù.
- Nhãn tướng hung tử gồm chín loại:
a) Mắt tam giác (Tam giác nhãn).
b) Mắt chữ nhất chảy thẳng một vệt nhỏ như ti hí mắt lươn.
c) Mắt cá vàng (kim ngư nhãn) lồi ra, con ngươi nhỏ.
d) Quỷ nhãn, đuôi con mắt không xếch lên mà quặp xuống.
e) Lộ quang, mắt long lên sòng sọc hoặc sáng quá.
f) Tẩu quang, (Tôi chưa biên nhận được quang ánh này nên không dám nói, chỉ ghi nguyên văn trong sách để quý vị độc giả xem tẩu quan là mục quan tiết ư nhãn ngoại).
g) Tán quang, ánh mắt đã tan rã trông mắt như mất hồn (Mục vô thần).
h) Có gân máu chạy ngang con ngươi.
i) Tứ bạch, bốn phía lòng trắng.
- Hàm bạch, đứng đằng sau trông thấy xương quai hàm bạch ra, xương càng khô không có thịt càng ác liệt. Tỉ dụ: hàm tổng thống Abraham Licoln, thủ tướng Mussolini, Rudolph Hess; tướng ngữ gọi bằng hàm long, hàm chắn.
- Trán hãm mũi nguy, trán hãm thế nào?
Một là lồi lõm không đều, bên nhô bên lõm.
Hai là trán lệch vẹo không ngay ngắn.
Ba là trán quá thấp, tóc xâm chiếm phần nửa trán.
Mũi nguy thế nào? Có 6 loại:
1) Sống mũi cong gẫy khúc.
2) Mũi tẹt dí xuống.
3) Mũi vẹo.
4) Mặt quá to mũi quá nhỏ.
5) Mũi thật cao mà lưỡng quyền quá thấp.
6) Quyền quá cao mà mũi quá thấp.
- Đứng ngồi không yên: Đứng ngồi nhấp nhổm không yên lúc nào cũng như có lửa đốt trong tâm can. Con gái là tiện tướng, con trai là hung tướng.
Tuy nhiên, nếu cách cục thuộc tướng khỉ thì lại phải hiếu động mới tốt. Nên lưu ý:
- Khí bạo, tính cấp, kiêu ngạo và kinh bạc, lạnh lùng, tàn nhẫn là nói về tâm tướng của hung tử.
Phá cách: Thường thấy tài tử, trung thần, hiếu tử, chân nhân tướng mạo thanh kỳ tú lệ mà bất đắc kỳ tử là do một cách phá cách nào đó (xin xem ở những chương khác).
Ngoài ra, cần phải biết những câu phú sau đây:
Hình như trư tướng tử tất phân thi
(Hình giống con heo, chết thây bị mổ xẻ).
Si lộ thần hân tu phòng dã tử
(Răng lộ môi cong, đề phòng chết đường).
Mã diện xà tinh tu tạo hoành tử
(Mặt dài mặt ngựa, mắt con rắn chết bất kỳ).