Từ Hy Thái Hậu

Phần II - 14 -

Docsach24.com
ió lạnh ở phương bắc thổi xuống, thủ phủ Bắc Kinh chìm đắm trong tiết mùa đông, tháng giá. Và mùa hè, cây cối trong tỉnh tốt tươi cành lá xum xuê. Sang đông, gió lạnh, sương tuyết, cây cối như bị tróc hết lá, còn trơ những cành khẳng khiu như những bộ xương leo kheo đứng giữa trời. Các ao hồ, ngòi lạch như có một đường viền trắng nước đông đóng giá. Những người đi đường, rét run, co ro, gió lạnh buốt như cào da, xé thịt. Mấy người bán khoai lang lùi là đắt hàng nhất. Người nghèo mất ít tiền được ăn no lòng, mà lưỡng lợi được sưởi hai bàn tay rét cóng. Mở mồm nói như có một làn khói ở trong mồm phun ra, các bà mẹ cấm con không được khóc vì nhiệt độ trong người bốc ra hết. Mùa đông năm đó, trời rét lạ lùng, gió lạnh buốt đến xương tủy như cào da xé thịt, rét từ trong bụng rét ra.

Giờ đây, linh hoàng của cố hoàng thượng đặt ở một ngôi chùa trong hoàng thành, chờ đến ngày làm lễ quy lăng. Việc kế vị đã được ổn định, cả quốc dân như hồi hộp lo sợ trước viễn ảnh những năm kế tiếp đen tối cho vận mạng quốc gia.

Bản thõa ước Cung thân vương ký với quân ngoại xâm đã thừa nhận quân địch hoàn toàn đắc thắng.

Một hôm, trong mùa đông năm đó, hoàng thái hậu ngồi một mình trong cung, nghiên cứu tỉ mỉ những điều khoảng trong bản thỏa ước.

Bà ngồi một mình, tên thái giám Lý Liên Anh đứng hầu gần đó, túc trực để chờ lệnh sai khiến. Nhiệm vụ của tên thái giám phải để mắt nhìn mọi cử chỉ, để tai nghe mọi lời nói của hoàng thái hậu để thi hành mệnh lệnh. Bà thái hậu dùng tên thái giám để sai vặt, còn ngoài ra bà coi như phần tử ngu độn, không đáng để ý.

Sáng hôm đó, bầu trời ảm đạm, tuyết sương lạnh lẽo, bà ngồi một mình, đọc đi đọc lại những điều khoản trong thỏa ước. Với trí giàu tưởng tượng của bà, những điều khoản càng thêm linh động.

Theo bản thỏa ước, từ nay trở đi và tiếp tục mãi mãi về sau này, người Anh, người Pháp và những người ở các nước ngoại quốc đến đây, ở trên đất nước này với tư cách đại biểu cho chính phủ họ. Bọn người này đến, lẽ tất nhiênm họ đem theo vợ con, gia nhân, đầy tớ, gia đình họ, binh lính họ. Bọn người bạch chủng man di đó có dịp kết thân với những thiếu nữ người Hán trẻ đẹp, một nguyên nhân của sự hỗn loạn.

Bản thỏa ước còn cưỡng bách bà hoàng thái hậu kiệm nhiệm nhiếp chính vương phải trả cho bọn người ngoại quốc hàng ngàn lạng vàng. Ôi! Còn đâu là công lý, là lẽ phải. Tự dưng vô cớ lại đem quân đến đánh phá một dân tộc rồi cưỡng bách dân tộc đó phải bồi thường chiến tranh?

Lại còn những điều khoản khác cũng rất phi lý. Trung Quốc phải mở rộng hải cảng, giang cảng cho tàu bè ngoại quốc lui tới, kể cả giang cảng Thiên Tân, chỉ cách xa kinh thành có 150 cây số. Không những người họ mà còn tất cả hàng hóa của họ được thông thương khắp trong nội địa Trung Hoa. Người dân thấy hàng hóa của người ta híp mắt lại. Lại một nguyên nhân sinh ra hỗn loạn.

Theo bản thỏa ước, Trung Quốc phải mở rộng cửa đón nhận những người đi truyền giáo. Bọn người này có quyền đi lại trên khắp lãnh thổ, muốn ở đâu tùy ý, để mê hoặc, dụ dỗ dân chúng tôn thờ những vị thần lai căng. Kinh nghiệm đã thấy, những tôn giáo du nhập chỉ đem lại cho quốc gia nhiều tai họa.

Đó, đại cương những điều khoản của bản thỏa ước, những điều khoản tai hại nặng nề cho xứ sở. Bà ngồi một mình trong một cung vắng vẻ, một ngày ảm đạm, tiết mùa đông. Bọn a hoàn dọn bàn ăn, bưng cơm lên, nhưng bà không đụng đũa. Trời đã xâm xẩm tối, bà không để ý về thời gian, không ai dám nói một lời, mời bà xơi cơm hay đi nghỉ. Tên thái giám rón rén bưng lại để gần bà, ấm nước trà xanh, thứ trà bà ưa dùng, nhưng bà cũng không đụng tới.

Bà ngồi, thức suốt đêm, bản thỏa ước đặt trên mặt bàn trước mặt. Về gần sáng, bà hất bản thỏa ước sang một bên, bà vẫn ngồi không đứng dậy. Những cây nến đỏ gắn trên giá nến bằng vàng cháy hết, thái giám lại thay tiếp. Bà ngồi lặng yên, hai tay ôm cằm, trong một tư thế trầm tư mặc tưởng. Ấu đế, con bà mới được năm tuổi, chỉ được chính thức bước lên ngôi rồng trị vì vào ngày mừng sinh nhật năm thứ mười sáu. Trong thời gian khoảng cách mười năm, bà phải đảm nhiệm chức vụ quốc trưởng, một trọng trách vô cùng nặng nề. Một nước đất đai vô cùng rộng lớn, bà không sao tưởng tượng được, lịch sử dân tộc có thời Bàn Cổ với một dân số khổng lồ không thể ước lượng nổi. Dân tộc đó coi bà như một ngoại nhân. Trong thời bình, cai trị một dân số như thế cũng đã là một gánh nặng khủng khiếp. Hiện nay, nước bị rách nát, giặc giã nổi lên như ong, tên Hùng cầm đầu một bọn giặc chiếm giữ Nam Kinh, nơi xưa kia nhà Minh lập kinh đô. Triều đình phái quân đội đi tiễu trừ, nhưng chưa triệt hạ được tên soán nghịch. Hai bên cam cự, đánh nhau mãi, dân chúng lâm vào tình trạng phá sản, không làm ăn gì được, chết đói. Bà thái hậu cũng thừa hiểu quân đội hoàng triều cũng không hơn gì quân nghịch, vì lương hậu thất thường, một tháng có, mười tháng không, bắt buộc họ phải vào các làng mạc kiếm lấy cái ăn.

Người dân nhìn thấy cửa nhà bị thiêu rụi tan hoàng, thóc lúa, trâu, bò bị cướp phá, đồng ruộng bị bỏ phế, họ căm thù cả hai bên, giặc cũng như quân đội hoàng triều.

Bổn phận bà phải cải thiện, cải tổ lại quân đội, mới mong hùng mạnh, được dân chúng tin tưởng.

Lại một vấn đề nữa cũng nan giải, đè trĩu trên vai bà. Đó là tính một người phụ nữ chấp chính cầm quyền. Người Hán không mấy thiện cảm mấy đối với một phụ nữ lãng đạo quốc gia. Người ta quan niệm, người đàn bà dù sao cũng kém cõi không bằng người đàn ông. Lịch sử Trung Quốc đã chứng minh điều đó. Người dân liệu có tin tưởng một phụ nữ như bà lãng đạo luồng máy quốc gia sẽ đem lại công bằng, cơm no, áo ấm cho dân không?

Bổn phận bà phải chứng minh bà có đủ khả năng để lái con thuyền quốc gia trong cơn sóng gió.

Nhưng tất cả gánh nặng, trọng trách đó, trọng trách lớn nhất chính là bản thân bà, làm sao tự khắc kỷ, tự chế phục được mình. Bà cũng tự biết bà còn rất nhiều khuyết điểm, những cạm bẫy cám dỗ của trái tim non nớt hăng say, cá tính phức tạp bà còn rất nhiều nhược điểm. Lòng bà vẫn ấp ủ một dục vọng chưa được mãn nguyện, bà mơ ước một người đàn ông, người đó cả tinh thần lẫn thể chất hoàn toàn phải hơn bà, nghĩa là bà có thể đặt tin tưởng vào người đó. Người như thế là ai, hiện ở đâu? Nghĩ đến vấn đề đó, mộng tưởng của bà chấm dứt, bà đứng dậy, thấy lạnh tự trong đáy lòng, từ trong tâm hồn lạnh ra. Lý Liên Anh tiến lại gần.

- Tâu thái hậu, mời thái hậu đi nghỉ.

Người thái giám đưa cánh tay bà vịn vào đưa bà về tư phòng. Người nữ tỳ ngồi chờ ở cửa.

Trời đã hửng sáng, bà nằm yên trên giường, kiểm điểm lại những ý nghĩ chiều hôm trước. Bà có nhiều trọng trách, đè trĩu hai vai, nhưng bà nhận thấy có đủ sức, đủ lực để gánh vác. Bà đang ở trong tuổi thanh xuân, khí huyết phương cương, tinh thần minh mẫn, điều kiện cần thiết để đảm nhận những công việc khó khăn, nặng nề. Là một phụ nữ, nhưng bà đã sinh ra đức kim thượng. Bà tránh không theo những vết xe cũ của những người đàn bà có quyền thế trong tay, muốn lúc nào cũng đứng trên tột đỉnh hơn cả mọi người cả người con lên ngôi, trị vì. Đối với con bà lên ngôi thiên tử, bà muốn được mai danh ẩn tích không muốn giẫm chân lên quyền của con. Trong thời gian đảm nhiệm chức vụ nhiếp chính, bà muốn giữ một thái độ ôn hòa, thận trọng đối với tất cả mọi người, xếp đặt mọi công việc nội trị, ngoại giao, ổn định tình thế để cho con lên chấp chính sau này. Bà sẽ giao lại cho con toàn vẹn lãnh thổ, tất cả quy về một mối rồi bà rút lui, an hưởng thanh nhàn, bà không muốn tranh giành quyền với con. Bà sẽ chứng minh cho quốc dân biết triều đại của bà sẽ thái bình, thịnh trị. Bà còn trẻ, có thiện tâm, thiện chí, bà sẽ đạt tới đỉnh. Bà đứng dậy, vững lòng tin tưởng, tâm hồn phấn khởi.

Từ nay, đình thần có một vị tân vương, một người đàn bà tuy cương nghị nhưng rất ôn hòa, không nhìn ai thẳng vào mặt, cả những tên thái giám, nói năng ôn hòa, lịch sự, bất luận phẩm trật, cấp bực, dáng điệu rất uy nghi, đường bệ. Không ai có thể biết được chuyện thầm kín, riêng tư, những tư tưởng, ý nghĩ, mơ vọng của bà. Bà hoàng thái hậu sống cô đơn, nơi thâm cung sau những bức tường thành cao ngất, bất khả xâm phạm.

Để khởi diễn một kỷ nguyên trong đời bà, bà dời tư cung dọn đến ở Ôn cung, trong hoàng thành, nơi đó gọi là Tây Lộ. Ôn cung có tất cả sáu phòng lớn, nhiều hoa viên và một thư viện đồ sộ có tới ba mươi sáu ngàn cuốn cổ thư. Trước Ôn cung có chín con rồng vàng bằng sứ, tô điểm đủ màu sắc như một tấm bình phong. Tấm bình phong có tác dụng vừa để trang trí và trấn áp tà thần. Sau tấm bình phong là một gian phòng rất rộng, gian phòng dùng làm nơi thiết triều, trước mặt là một sân lát đá hoa. Trước mỗi gian phòng có một cái sân lớn. Bà chọn một gian phòng tiếp kiến các vị thân vương và các quan trong triều. Bà ở một gian phòng, từ đó bà có thể đi thẳng vào phòng ngủ. Giường xây bằng gạch sát vào tường. Trên giường có trãi một tấm đệm bọc vóc vàng, xung quang giường có căn tấm màn the màu vàng thêu những bông hoa lựu màu đỏ mà bà ưa thích. Sau gian phòng ngủ có thiết lập một ban thờ Phật, trên có một pho tượng Phật bằng vàng, hai bên có hai vị Bồ tát;Quan âm và Thế Chí. Đằng sau ban thờ có một khuôn cửa vào một gian phòng, bọn thái giám ẩn kín ở đó, sẵn sàng hầu hạ, phục vụ bà.

Cung điện hoa mỹ, tráng lệ.Trong cung bày biện, trang trí những đồ đạt rất quý, trên phủ những tấm thêu bằng vóc đỏ. Bà cũng cho đem lại những đồng hồ của các nước Tây phương sưu tập, những chậu bông, những lồng chim, những chiếc đệm thêu, đàn chó, những sách của bà, chiếc án thư, chiếc tủ kính bày những đồ mỹ thuật trang trí. Cáckhuôn cửa sơn son thiếp vàng, trên mỗi khuôn cửa có mái hiên mạ vàng. Trong tư phòng, những khuôn cửa hình bán nguyệt xung quanh có gắn đá hoa, chạm trổ rất tỉ mỉ công phu, trông ra một hoa viên kín, những bức tường có cẩn đá hoa. Dưới những bức thông cổ thụ, hương bay ngào ngạt, phía xa một thảm cỏ xanh ngắt.

Phía trong cùng hoa viên có một gian phòng, cửa lúc nào cũng đóng kín. Bà thái hậu giữ chìa khóa gian phòng đó.

Giữa khung cảnh lặng lẽ, trang nghiêm đó bà thái hậu trẻ thường tha thẩn đi chơi một mình, nét mặt trầm ngâm, tư lự. Chỉ những người nào mạnh khỏe, cường tráng mới có thể thấu hiểu những trận bão lòng của bà trong một nếp sống bà đã tự vạch ra.

Ngày nào bà cũng dậy rất sớm, trời chưa tỏ sáng. Bà ra gian phòng thiết triều. Với chính sách ôn hòa, lễ độ, bà không ngự triều một mình, bà cho mời bà Đông cung đến cùng chủ tọa. Bà tuyên bố, ngai rồng tạm dể không cho đến khi ấu đế thành niên. Bà khướt từ không ngồi trên ngai, xung quanh có các thể nữ, thái giám đứng thị hầu. Hai bà nghe những sớ, điệp của các thân vương và các quan quì trước bệ rồng đọc lên. Cung thân vương đứng bên tay mặt của chiếc ngai bỏ trống.

Một hôm mùa đông, lưỡng cung cho vào bệ kiến hai thần dân đến khẩn cầu triều đình cho quân tiễu trừ tên phản loạn Hùng ở tỉnh Nam Kinh, một tỉnh ở miền Nam. Đó là hai viên tuần phủ của hai tỉnh miền Nam bị quân giặc đánh đuổi, hai vị quan này đến xin tạ tội vì để hai tỉnh thất thủ.

Bà hoàng thái hậu nghe lời tâu, bừng bừng nổi cơn lôi đình, có lẽ nào để cho một tên giặc tung hoành phá hoại cả một quốc gia trong khi con bà còn ấu trĩ vị thành niên. Bất cứ giá nào cũng phải tổ chức lại quân đội hoàng gia và phong nhiều người lên cấp tướng, cầm quân đánh giặc. Trong những địa hạt khác nhau, bà không thể nào dung tha được, không thể để chúng hoành hành, đe dọa, chiếm đoạt toàn quốc. Nếu để lâu, chúng thêm vây cánh, việc tiểu trừ sẽ trở nên khó khăn.

Cũng ngày hôm đó, theo thường lệ, Cung thân vương đến xin tư yết (audience privée). Thân vương thấy nét mặt bà thay đổi khác, lạnh lùng, kiêu căng, cương quyết. Đó là một sắc thái đa diện của bà. Thường nhật bà rất nhã nhặn, ôn hòa, gần xa ai cũng biết, nên dân chúng đã đặt cho bà mỹ danh là một hiền mẫu, là Quan Âm năng cứu khổ, cứu nạn. Nhưng bà cũng có một sắc thái tương phản, rất độc ác, tàn bạo. Hôm đó, Cung thân vương thấy bà không phải tứơng mạo của vị Phật Quan Âm, thái độ của một hiền mẫu, nhân từ, khoan dung, đại độ. Bà uy nghi, hùng dũng, phẫn nộ vì sự yếu hèn nhu nhược của đình thần. Bà hỏi:

- Viên tướng chỉ huy đạo quân hoàng triều hiện nay ở đâu? Tên Trương Quế Phân đâu? Làm sao hắn dám tự tiện để cả một đạo quân bao nhiêu người ngồi chơi không trong khi quân giặc chiếm hết tỉnh này đến tỉnh khác ở miền Nam. Nếu như thế này mãi, một ngày kia giặc chiếm hết nước, quân đội còn để dùng làm gì?

Cung thân vương tâu:

- Tâu thái hậu, quân đội ta không thể ứng phó khắp các mặt trận cùng một lúc.

- Dù sao cũng phải ứng phó. Bổn phận làm tuớng phải thế, phải biết tiên liệu những gì có thể xảy đến, chỗ nào quân giặc tấn công, nơi nào quân giặc định tấn công, phải đem quân tấn công trước để tiêu diệt chúng.

- Tâu thái hậu, hạ thần mạn phép đệ lên thái hậu một giải pháp. Chúng ta đang đình chiến với quân hồng mao, bọn này yêu cầu chấp nhận một vị tướng của họ để tổ chức cuộc tiểu trừ quân thảo khấu. Trước kia quân bạch chủng tán trợ tên giặc Hùng, vì hắn nói có đạo Thiên Chúa; bây giờ họ đã biết tên Hùng là một thằng điên khùng. Như thế là một thắng lợi lớn cho triều đình.

Bà thái hậu ngồi trên ngai, suy nghĩ. Những ngón tay búp măng của bà đặt trên hai tay ngai, như những chuỗi kim cương, gõ lắc cắt trên gỗ. Các đầu ngón tay bà có đeo tháp bằng vàng. Bà hỏi:

- Trương Quế Phân có biết đề nghị của quân hồng mao không?

- Tâu thái hậu, hắn có biết nhưng hắn không chịu nghe theo. Hạ thần biết vị tướng đó có tính câu nệ, hắn nói chẳng thà cả nước bị giặc tàn phá còn hơn đi đầu cạnh ngoại nhân đến cứu mình.

Hoàng thái hậu nghe mấy lời đó, đột nhiên sinh lòng thiện cảm với tướng Trương Quế Phân. Bà hỏi:

- Vì lẽ gì hắn không muốn?

- Tâu thái hậu theo ý hắn, ngoại nhân đề nghị giúp mình chẳng qua vụ lợi. Họ sẽ yêu sách một cái gì tương xứng với sự giúp đỡ của họ.

Mấy ngón tay đeo đầy nhẫn của bà nắm chặt hai tay ngai. Bà nói lớn:

- Hắn nhận xét rất đúng, rất đúng. Họ sẽ đòi chiếm đoạt những vùng họ giải tỏa. Bây giờ ta mới biết tên Trương Quế Phân biết trông xa. Việc này tối quan trọng, ta muốn dềnh dàng, phải tranh thủ thời gian, phải lập tức tấn công quân giặc, phải giải tỏa Nam Kinh. Nếu giết được tên Hùng, hàng ngũ của chúng sẽ bị tán loạn ngay.

Cung thân vương lạnh lùng trả lời:

- Tâu thái hậu, hạ thần xin mạn phép trình bày một yếu điểm. Hạ thần ngờ những lời khuyến dụ và chiến lược của thái hậu cho tên tướng Trương Quế Phân có được vững vàng, theo đúng binh pháp không?

Bà thái hậu nguýt dài, mắt nhìn sang một bên:

- Ta không hỏi ý kiến thân vương.

Giọng bà nói nhỏ nhẹ, mềm mại, song thân vương thấy mặt bà tái đi, người run lên, cơn phẫn nộ lên đến cực điểm.

Mấy lời tường trình đó đã chạm mạnh vào lòng tự ái của bà. Thân vương nghiêng đầu, cố nén lòng căm phẫn rút lui ngay lập tức. Khi ông hoàng này đi khỏi, bà xuống ngai ra ngồi ở án thư, thảo tờ sắc lệnh cho tên tướng Trương Quế Phân.

- Sắc lệnh:

(Sau mấy lời chào hỏi, xã giaọ..)

"Mặc dù, hiện nay gặp rất nhiều khó khăn, tướng công đã đến lúc phải nỗ lực, tận dụng tất cả khả năng, uy lực sẵn có với sự tán trợ của quý bào đệ Trương Quốc Chuân, triệu thỉnh y ở Quảng Tây về, đem đại quân tiến về An Huy. Bước đầu tiên khởi để vây hãm Nam Kinh. Quân giặc chiếm cứ Nam Kinh đã chín năm nay, quân đội ta phải lo thu hồi phần lãnh thổ đó, tiêu diệt quân thảo khấu.

Để phụ giúp tướng công trong công việc bình định, phải cấp tốc triệu thỉnh viên tướng Lý Thường Giám chuyên về vấn đề đánh du kích. Hắn là vị tướng gan dạ và tận trung với ngai vàng. Hẳn tướng công cũng chưa quên viên tướng đó đã đánh bại quân giặc ở Tương, Hoài. Tướng công nên kết nạp hắn dưới trướng, đem quân vây hãm Nam Kinh, mỗi ngày nên thắt chặt vòng vây. Nếu quân giặc tấn công Quảng Tây, tướng công phái Lý Thường Giám đem quân tiễu trừ, tướng công có hai nhiệm vụ, giết bằng được tên tướng giặc Hùng, đập tan tất cả những cuộc nổi dậym nếu có. Tướng công không phải tâu trình những sự khó khăn, phải kiên trì để vượt mọi khó khăn nguy hiểm. Tướng công phải nổ lực hy sinh, đoạt công đầu chiếm Nam Kinh, triệt hạ được tên giặc Hùng. Một phần thưởng đích đáng sẽ giành cho tướng công".

Đó là đại cương lời lẽ hoàng thái hậu viết trong sắc lệnh. Bà đọc lại, đóng ngọc tỷ vào bản văn, giao cho tên thái giám đem đến cho Cung thân vương để sao lại, cất giữ trong văn khố quốc gia. Bản chánh gửi theo bưu trạm tống đạt cho tướng Trương Quế Phân.

Viên thái giám trở về nạp bà bản phái lai (chứng tỏ cung thân vương đã nhận được bản sắc lệnh, theo đúng chỉ thị thi hành). Nhìn bản phái lai, bà mỉm cười, đắc ý, hai mắt sáng ngời dưới hàng lông mi đen. Bà hỏi:

- Hắn có nói gì không?

- Tâu thái hậu, thân vương đọc hết bản sắc lệnh, ông có nói: "Một người đàn bà có chí khí như một bậc đại đế".

Bà mỉm cười, lấy ống tay áo che khuất. Bà hỏi:

- Thật thế à?...Hắn nói thế à?...

Tên tổng quản thái giám biết tính bà thích những lời khen ngợi, ca tụng, hắn bịa thêm cho câu chuyện thêm đậm đà:

- Muôn tâu thái hậu, chúng hạ thần vẫn thường nói với nhau, cùng một ý nghĩ với thân vương.

Hắn nói xong cáo lui đi ra, bà thái hậu chưa kịp có một lời nào phê bình hay khiển trách.