Khi trên trời đêm xuất hiện những tia sáng đầu tiên. Greg đã dẫn một nhóm tìm kiếm lên đường. Y làm như rất nôn nóng đi cứu Stephany và không chịu nghe bất cứ lời can ngăn nào.
- Ông cần phải ở đây để đón những người cứu nạn - Rider nới với y. Bởi chỉ có ông mới tả rõ cho họ được nơi xẩy ra chuyện đó để họ có thể bắt tay vào việc.
- Rider, tôi muốn là người đầu tiên tìm thấy vợ tôi - Greg nói với vẻ chân thành khiến bao nhiêu nghi ngờ cửa Rider tan biến cả - Ông cũng có thể nói được tai họa xẩy ra ở đâu. Cứ sau một khoảng thời gian nhất định, tôi sẽ bắn một phát súng để các ông biết tôi đang ở đâu. Bây giờ tôi không thể ngồi yên được!
Rider không thể không đồng ý với điều đó. Mặc dù rất tức giận Greg và cho rằng tự anh ta rước họa vào mình nhưng Rider vẫn thấy cảm thương. Ông hiểu rằng ngồi trong trại để đợi những người thợ rừng từ cacadu, những nhóm cứu nạn và những người tình nguyện tới lẻ tẻ là một việc chẳng lấy gì làm dễ chịu. Hơn nữa, tiếng gào của mụ đàn bà và sự im lặng thần bí của thằng thổ dân kia có thể làm bất kỳ ai cũng phải sởn gai ốc. So vai lại, Rider nghĩ rằng Greg đã giành được việc làm dễ chịu hơn cả trong buổi sáng hôm nay, mặc dù điều đó chẳng có gì đáng ghen tỵ.
Mãi xế trưa, chính quyền ở Darvin mới cử một đội cứu nạn khá đông tới vùng đầm lầy hẻo lánh ấy. Giữa trưa, Greg trở về trại sau những tiếng đồng hồ dùng sào khua khoắng nơi Stephany ngã xuống nước và các vùng chung quanh. Người y rất bẩn thỉu. Trả lời câu hỏi của Rider, y chỉ nhún vai chán nản. Người chỉ huy nhóm cứu nạn không hề tỏ ra có chút gì thông cảm với kẻ mà theo lời kể của Rider, đã gây ra cái chết khủng khiếp của người đàn bà ấy bằng những hành động bướng bỉnh, ngu ngốc. Tuy nhiên, ông ta cũng không đang tâm đánh kẻ đang gặp tai họa nên chỉ hỏi Greg vài câu ngắn về vị trí chính xác của chiếc thuyền khi Stephany bị ngã. Sau đó Greg bực tức và chán chường giở máy bộ đàm ra để liên lạc với Bill và thông báo cho ông biết tin dữ.
Bill, Bill!! - Có chuyện gì xẩy ra vậy?
Gia đình Macmaster rất quý trọng các ngày chủ nhật. Điều đó thật dễ hiểu bởi ngày thường, Bill suốt ngày cặm cụi ở bản doanh của "Harper Mining", kể cả buổi tối. Nhưng chủ nhật thì bao giờ ông cũng dành trọn cho cái gia đình nhỏ của mình. Ông và Rina chỉ có mỗi cậu con trai tên là Tom.
Rina hiểu có chuyện gì đó đã xẩy ra khi thấy Tom xuống phòng ăn một mình, mặc dù rất háu ăn, nhưng thằng bé ít khi rời bố khi ông ở nhà. Rina vội gác việc dọn bàn, lên phòng khách xem có việc gì xẩy ra.
Bà thấy Bill ngồi bất động trên đi văng, tay cầm ống nghe lúc này chỉ còn phát ra những tiếng tút... tút... Rina chạy bổ lại, đỡ vội lấy cái ống nghe đang chuội khỏi tay chồng, đặt nó lên máy. Mặt Bill xám ngoắt, trong đôi mắt ông đọng lại những giọt nước mắt và vẻ khủng khiếp. Rina chưa bao giờ thấy chồng ở trạng thái đáng sợ như vậy. Bà run lên mặc dù biết chắc cả hai con người yêu mến nhất của bà đều nguyên lành ngay cạnh bà.
- Có chuyện gì xẩy ra vậy anh? - Rina hỏi lại và cầm lấy tay Bill. Ông dần dần hồi tỉnh. Ánh mắt ông đã có thần hơn. Nhưng ông nhìn bà cứ như lần đầu tiên trông thấy bà trên đời.
Em sẽ không tin nổi đâu - Ông nói rồi đưa tay chùi nước mắt - Em không thể...
- Cái gì, cái gì Bill? Nói ngay đi nào.
Nhưng Bill vẫn ngồi với vẻ như ông vừa đột nhiên bị điếc, đầu lúc lắc, ông chậm rãi nhắc đi nhắc lại chỉ một câu:
- Em không tin nổi đâu... Em... Không... thể tin...
Một ngày sau người ta mới đưa được chiếc ca nô cánh chìm tới nơi xẩy ra tai nạn. Chúng là phương tiện đi lại tốt nhất trong vùng đầm lầy, Bill cảm thấy đôi chút nhẹ nhõm khi nhìn thấy chúng lao đi trên đầm: họ sẽ tìm được bà ấy, ông nghĩ. Ngoài ra hôm nay sẽ có một trong những người lãnh đạo của hãng "Atarper Mining” tới đây để trực tiếp chỉ huy công việc tìm kiếm. Sẽ có thêm nhiều người nữa đến. "Còn có cơ để hy vọng” - Rider nghĩ mình cũng chưa có ý định buông xuôi!
Ông còn thấy nhẹ nhõm vì đích thân Greg đứng ra chăm sóc "mụ đàn bà" ấy (ông gọi Jilly như vậy. Ông không hiểu chuyện gì xẩy ra, nhưng chiều tối qua, khi công việc tìm kiếm không thể tiến hành được nữa). Greg mang một chai rượu vào lều mụ ta và một lúc sau khi y bước ra thì tiếng nức nở, rên rỉ rốt cuộc ngừng bặt. "Khá lắm, anh bạn". Ông nói với Greg, nhưng y chỉ phẩy tay và bỏ đi. Sau đó Greg thông báo cho Rider hay rằng y sửa soạn cho Jilly rời khỏi trại, khi chồng cô ta bay tới Darvin để mang cô ta về nhà.
Suốt ngày hôm ấy, những chiếc ca nô cánh chìm đi lại không mệt mỏi, mỗi lúc càng mở rộng phạm vi khu vực tìm kiếm, nhưng vẫn chẳng tìm thấy gì cả. Rốt cuộc Rider cảm thấy chán ngấy việc ngồi ở trại bèn trao lại cho con trai quyền phối hợp hoạt động của những người cứu nạn, tự mình chỉ huy một nhóm đi sục sạo. Suất mấy giờ liền, họ kiên nhẫn tiến dần lên phía trước, xem kỹ lưỡng mỗi hõm nước do họ gốc cây tạo nên, dùng sào dài dò các vực nước sâu, lật từng mảng cỏ, từng chiếc lá, từng đống bùn, từng mô đất. Chẳng hề có dấu vết nào cả. Sự tự tin của Rider mỗi lúc một giảm sút trước buổi hoàng hôn đang buông xuống. Khi hoàng hôn nhường chỗ cho bóng đêm, niềm hy vọng cuối cùng của Rider tắt ngấm. Trở về trại, ông gặp Greg cũng vừa cùng một nhóm tìm kiếm trở về. Chẳng ai trong số những người cứu nạn lên tiếng hỏi người khác về kết quả tìm kiếm. Nhưng mỗi người đều giữ trong lòng mình dù chỉ là một tia hy vọng mỏng manh.
- Nghĩa là tất cả đã kết thúc? - Malk hỏi Rider sau khi nghe bố thổ lộ nỗi thất vọng.
- Ít ra là kết thúc đối với người đàn bà bất hạnh đó - Rider cau có nói - Nhưng chưa phải thế là xong. Bây giờ người ta sẽ không tìm kiếm bà ta nữa mà là những gì còn lại của bà ta. Có lẽ chỉ có mấy cái xương.
Bình minh. Sương mù là là trên mặt sông bao phủ lên toàn bộ cây cối. Có tiếng khóc khàn khàn, lạ tai của một con chim cô đơn nào đó. Một bóng người mờ ảo trong sương đang dùng chiếc sào đẩy con thuyền gỗ đi men theo bờ đầm lầy. Tên ông là Dave Wells, trước đây làm nghề tìm đá quý, giờ sống ẩn dật. Nhiều năm qua, ông sống ở đây trong cô đơn tuyệt đối. Những kẻ phiêu lưu từ xa đến đây không bao giờ thu hút được sự chú ý của ông.
Ông thường lánh vào một nơi nào đó cho đến khi họ đi hẳn, giờ đây, như thường lệ, ném lưới đánh cá và đồ đi săn vào ông chiếc thuyền gỗ, ông đi tìm thực phẩm dự trữ cho mình.
Bỗng nhiên ông để ý đến một vệt đỏ nổi lên giữa đám bùn nâu trên bờ đất. Đổi hướng để nhìn rõ xem đó là cái gì ông nghe phía trước có tiếng nước vỗ ì oạp nặng nề và bỗng trông thấy một con cá sấu cực lớn đang trườn đi trong nước. Xem ra nó cũng đang chú ý đến cái vật lạ kia. Bơi lại gần hơn Dave thấy một mô đất phủ bùn màu sẫm, bên trên có những vết loang đỏ tươi, còn bên cạnh - thật khủng khiếp - có một vật gì đó nom như cánh tay người. Con cá sấu cũng đang bơi vào bờ. Dave cố gắng hết sức ghé sát thuyền vào cái vật bất động kia khó khăn lắm ông mới nhận ra đó là thân hình của một người, nói rõ hơn là thân hình một người đàn bà. Chị ta nằm sấp, úp mặt xuống đất, vươn tay về phía trước, các ngón tay bám chặt vào bùn bẩn, rõ ràng chị ta đã bò lên từ đầm lầy, trước khi bị ngất đi. Dave dùng hết sức để gỡ chị ta ra khỏi đám bùn đặc quánh rồi nhấc cái thân thể bất động ấy lên.
- Hôm nay mày phải nhịn bữa sáng nhé. Ông nói to với con cá sấu lúc này đã leo lên được bờ đất và đang hùng hổ bò tới chỗ họ.
Thở một cách nặng nhọc, Dave đặt người đàn bà vào lòng thuyền, nhẩy xưống và đẩy thuyền ra khỏi bờ.
- Đừng lo gì cả, con ạ, ông nói với thân hình bất động kia - Việc gì già Dave này cũng làm được tất. Rồi đâu lại vào đấy cho mà xem. Thế đấy, ta lên đường nhé.
Cứ thế Dave tiếp tục nói chuyện với người ông tìm thấy không hề biết chị còn sống hay đã chết, cho đến khi ông về được tới túp lều bí mật giữa rừng của mình. Chật vật lắm ông mới đưa được chị vào nhà. Ông thận trọng cắt hết những mẩu vải còn sót lại trên người chị, cẩn thận lau rửa và ủ chị trong chiếc chăn ấm. Đến lúc đó ông mới hy vọng là có thể chị sẽ sống.
Đến trưa, khi mặt trời lên cao sưởi ấm cho túp lều, thân thể người đàn bà ấm dần lên. Ông nhận thấy ở cổ tay chị mạch đã đập nhè nhẹ. Dave hất chiếc mũ phong trần của mình ra sau gáy, thở phào. Chị ta còn sống. Thật là tuyệt vời!
Đến nửa đằng kia của túp lều, ông lấy cái đèn dầu, thắp lên và đem treo phía trên giường, nơi người đàn bà nằm. Trong ánh sáng vàng vọt của ngọn đèn, ông lấy cái hộp sắt tây, moi ra một cuốn chỉ khâu làm từ ruột cừu và một chiếc kim thô. Ông đứng lặng một giây, đăm đăm nhìn người đàn bà bằng đôi mắt đầy thương xót. Sau đó ông bắt tay vào việc. Tốt hơn hết là làm việc đó ngay bây giờ, khi chị còn chưa tỉnh. Ông cúi người trên mình người đàn bà, bắt đầu thận trọng khâu những mảnh da thịt rách nát với nhau.
- A... a... a! Chị rùng mình, rên lên và bám chặt vào vai ông. Dave vẫn tiếp tục khâu như không có chuyện gì, xẩy ra.
- Cố lên, cố lên con ạ... ông lẩm bẩm - Già Dave này sẽ sửa sang lại cho con. Chỉ cần chịu khó một lúc nữa thôi.
Cuối cùng công việc đã hoàn thành. Đứng lên, ông mệt mỏi xoa mặt. Sau đó ông lấy cái lọ con cạnh chân giường, rót ra tay một thứ keo màu vàng vàng đặc quánh thận trọng bôi một lớp dày lên vết thương của chị. Từ khi ông còn đang khâu vết thương, người đàn bà lại ngất đi một lần nữa. Đợi lớp keo khô bớt, ông đắp chăn cho chị, nhẹ nhàng âu yếm như bà mẹ. Trước khi đi ngủ, ông còn ngồi bên chị rất lâu.
Stephany không biết chị đã lay lắt bao lâu giữa cái sống và cái chết, lúc tỉnh lúc mê bởi sự đau đớn khôn cùng. Dần dần, chị bắt đầu nhận biết được đôi tay chằng chịt gân, một tay nâng đầu chị, tay kia đưa chén nước cho chị uống. Chị nhận biết được khuôn mặt hiền hậu thỉnh thoảng lại thấp thoáng trước tầm mắt chị. Chị cảm thấy lòng mình ấm áp, yên ổn khi ngày cũng như đêm, người kia không lúc nào rời chị. Khi hai mắt đã quen với cảnh vật xung quanh, chị nhận thấy mình đang ở trong một căn nhà nghèo nàn, trần thấp lè tè, ngổn ngang đồ đạc. Một người đàn ông đang ngồi nhìn chị với ánh mắt đầy thương cảm.
- Thế nào con! - Ông khẽ hỏi - Ta rất mừng là con đã tỉnh - Mấy hôm trước đây ta còn không chắc là con có sống nổi không. Tên ta là Dave Wells, hiện thời thì con chỉ cần biết thế thôi. Con cố gắng nuốt cái này đi và cứ nghỉ ngơi nhé.
Những ngày sau ông dần dần kể cho chị nghe từng đoạn một về chuyện đã xẩy ra, nhưng chị không hiểu gì lắm, vì trong trí nhớ của chị có những lỗ hổng lớn, thậm chí chị cũng không nhớ mình tên là gì.
- Từ hôm ta vớt con lên đến nay đã được hơn một tuần rồi đấy. Quả thật là một chuyện thần kỳ. Bọn cá sấu già ấy thường có thói quen giấu con mồi một thời gian trước khi ăn thịt. Nếu ta không lôi con ra khỏi cái kho dự trữ của nó thì bây giờ con đã không ở đây rồi. Xương hàm của con bị vỡ, vì vậy con cố gắng đừng nói năng gì cả. Nếu có cái gì đó trong người bị gẫy, tốt nhất là chớ động đậy, rồi nó sẽ liền lại thôi - Nhiều năm về trước, hồi còn làm ở mỏ đá hồng ngọc, ta đã rút ra được kết luận ấy. Còn bây giờ thì hãy uống một chút mừng già Dave, nào!...
Dần dần, chị bắt đầu lại sức, mặc dầu trí nhớ của chị chưa được phục hồi hẳn. Một lần chị cố gắng đưa tay xoa khắp người và phát hiện ra mình đang mặc bộ quần áo đàn ông, chiếc quần dài và áo sơ mi.
- Đó là quần áo của ta - Dave giải thích - Quần áo của con hầu như chẳng còn gì, ngoài mấy mẩu giẻ rách nát, nhưng ta vẫn còn giữ để cho con dễ nhớ lại con là ai.
Thế nhưng những mẩu vải thấm máu và dính đầy bùn đất đã không nói được với chị điều gì.
- Con có muốn đi lại một chút không? bây giờ lúc nào chị cũng cảm thấy đau.
Dần dần, dựa vào cánh tay rám nắng mạnh mẽ của Dave, chị bắt đầu tập đi. Đêm đêm, nằm trên giường, chị đưa tay sờ trên mặt, trên cổ, trên ngực và đùi, nơi vết thương đã liền sẹo, thô nhám, sần sùi. Dave liên tục động viên chị:
- Thế là con khỏi nhanh đấy, con ạ, - Ông nói - Chỗ nào cũng liền sẹo cả rồi. Cái thứ cao dán ông bạn thổ dân cho đã giúp con chóng khỏi. Bọn họ chế thứ cao này từ các loài hoa và đất sét, tuy mùi hơi hôi một chút nhưng mà tốt lắm. Nhờ nó mà con không bị nhiễm trùng.
Một lần Dave đến gần giường chị với vẻ mặt láu tỉnh và tự mãn:
- Hôm nay ta phải vào thành phố, hay ít ra cũng phải đến cái làng ngay trên đường tới đó. Ta sẽ kiếm cho con một ít quần áo. Bây giờ con đã sắp khỏi hẳn rồi. Chúng ta sửa sang cho con sớm chừng nào thì con càng chóng liên lạc được với người thân và bạn bè con sớm chừng ấy. Đừng lo ta chỉ vắng nhà vài tiếng đồng hồ thôi. Ta sẽ trở về nhà trước khi trời tối.
Sau khi Dave lên đường chị nằm rất lâu, trong đầu chỉ quanh quẩn một ý nghĩ: Người thân ư! Bạn bè ư! Tại sao những từ ấy lại làm cho chị run lên và có cảm giác rằng ở nơi đây chị mới được yên thân! Chị đã lạc đến đây như thế nào! Chị là ai? "Thậm chí mình cũng không biết được mặt mũi mình ra sao" - Chị nghĩ ngợi với một nỗi tuyệt vọng âm thầm. Trong túp lều của Dave không hề có một mảnh gương nào. "Mình là ai?" Đầu chị cứ ong ong lên vì câu hỏi đó.
Cuối cùng, mệt mỏi vì những ý nghĩ lộn xộn, chị quyết định ngồi dậy. Dave sắp về rồi, chị phải ra cái thùng gỗ, múc nước đổ vào siêu để đun lên, chuẩn bị pha trà chờ ông về. Lê bước một cách chậm chạp bước ra cửa. Đứng lặng trên ngưỡng cửa, tâm hồn rách nát của chị thoáng sống dậy trước quang cảnh một ngày đẹp trời. Mặt trời rực rỡ trên bầu trời cao quang mây, chim chóc líu lo trong vườn cây. Cái hang tồi tàn của Dave khác gì chốn thiên đường. Để cho những mầm hy vọng yếu ớt đầu tiên hé nở trong trái tim mình, Stephany bước ra ngoài đó tới gần chiến thùng gỗ đựng nước đặt ở góc sân, ngay dưới ông máng dẫn nước thô kệch.
Vào đúng khoảnh khắc ấy chị trông thấy cái bóng rung rinh giữa những vệt ánh sáng mặt trời đang nhảy nhót trong thùng nước. Một khuôn mặt méo mó khủng khiếp đang nhìn chị. Ở một góc nào đó thẳm sâu trong ký ức thoáng hiện lên cảm giác sợ hãi khôn cùng. Không có lẽ mặt mũi chị lại như vậy! Chị ép mình trấn tĩnh, hai tay bám chặt vào cái thùng gỗ đến nỗi ngón tay trắng bệch ra. Cố chờ cho mặt nước yên lặng trở lại. Lần này thì không thể nhầm được rồi. Trên làn nước phẳng như gương hiện ra một khuôn mặt quái dị đến nỗi Stephany không nhận ra chính chị. Những chiếc răng sắc như dao bài của con cá sấu già đã cào rách một nửa da mặt chị thành những dải nhỏ, bây giờ chúng đã liền vào nhau, tạo thành những vết sẹo nhỏ đỏ hỏn. Số phận mỉa mai độc ác đã để nửa mặt kia hoàn toàn nguyên vẹn, không sây sát gì, và bây giờ đây nó giống như bức tranh biếm họa cay độc nhìn chị. Ở nửa mặt bị thương mí mắt và khóe miệng trễ xuống giống như bị bại liệt. Đó hoàn toàn là một khuôn mặt không quen biết, khuôn mặt của một bà già, một mụ phù thuỷ.
- Không! - Tiếng thét của Stephany xuyên qua vòm cây Nghe tiếng thét man dại đầy tuyệt vọng đó, chim chóc sợ hãi bay vụt lên trời, những con thú nhỏ vội vàng trốn vào hang.
- Không! Không! Không!
Một niềm tuyệt vọng đen thẳm bao trùm lấy chị.
Vài tiếng sau Dave trở về nhà và tìm thấy chị bên cạnh thùng nước. Co dúm người lại, chị lặng lẽ khóc, thỉnh thoảng lại lẩm bẩm những tiếng gì không rõ. Ông nhẹ nhàng, nhưng kiên quyết đỡ chị dậy, và dẫn vào nhà. Ông đặt chị xuống giường và ngồi xuống bên cạnh.
- Ta biết rằng con đau khổ lắm, con yêu quý. ạ. Nhưng mà phải khắc phục thôi. Bởi vì khi đã vượt qua được một tai họa như vậy thì bao giờ cũng nhẹ nhõm hơn và không còn gì đáng sợ nữa. Con đã lãnh đủ với con cá sấu ấy. Con sống sót. Điều đó phải có một ý nghĩa nào đó. Con được cứu sống để làm một điều gì đó. Hoặc cho một người nào đó. Bây giờ con cần phải tìm hiểu xem. Cho ai, vì điều gì?
Giọng nói của Dave vọng vào tâm trí chị một cách khó khăn. Vì điều gì! và cho ai! Chị đáp lại:
- Thậm chí con cũng chẳng nhớ con tên là gì.
- Nhưng con có đeo nhẫn cưới. Có lẽ là con có chồng.Ta thấy trong thành phố rất nhiều cảnh sát. Những người gác rừng đang tìm kiếm một người nào đó, ta nghĩ rằng họ tìm con.
- Dave, con sợ đi khỏi nơi đây lắm. Con không biết nên đi đâu, phải bắt đầu từ cái gì.
Dave lặng đi một lúc trước khi trả lời, và khi ông cất tiếng nói, trong giọng ông rung lên những nốt buồn.
- Hãy chờ đợi, con yêu quý ạ, hãy chờ đã. Mọi cái đều có thời điểm của nó. Ta sẽ cho con một cái tên, nếu con muốn. Ngày xưa trước khi ta cảm thấy chán ghét cuộc đời này, ta đã từng phải lòng một cô bé người vùng Maun Aida. Cô ta tên là Tara, con gái ông chủ quán bia. Con biết không, mẹ cô ta cả đời chỉ được xem mỗi bộ phim độc nhất là "Cuốn theo chiều gió”. Ta rất thích cái tên đó, nó rất hợp với cô bé. Tình yêu của chúng ta kéo dài cho đến cái ngày khủng khiếp đó, khi cô bé bỏ đi Town Svin để lấy một lão hàng thịt làm chồng. Dave phá lên cười để giấu sự xúc động. Cho nên, nếu con muốn, ta sẽ gọi con là Tara.
Chị mỉm cười biết ơn và xiết chặt tay ông.
- Bây giờ chúng ta phải chữa cho con khỏi hẳn và giúp con trở lại cuộc sống bình thường Tara ạ. Tất nhiên, con có thể ở đây yên ổn với ta, cho đến cuối đời. Nhưng con đến đây từ nơi ấy: - Ông hất hàm về phía cửa - Vậy thì con cũng phải tìm câu trả lời cho câu hỏi của mình ở nơi ấy. Chuyến đi của ta hôm nay thành công lắm, ta kiếm cho con được một ít áo quần để thay thế cho những thứ cũ rách này.
Ông tới bàn và mở cái gói ra. Trong đó có một cái áo dài màu hồng, một cái nịt ngực, một chiếc mũ rơm, một khăn quàng nhỏ và thậm chí có cả một đôi giầy.
- Ôi Dave, bác kiếm đâu ra những thứ này thế?
- Ta tìm được trên dây phơi ở sân sau và cả trên ghế bành ở ngoài thềm của một ngôi nhà - Dave trả lời với ánh mắt vui vẻ - Tất nhiên là ta chẳng biết con mặc cỡ nào, nhưng dù sao đi nữa thì con cũng có cái mà mặc khi trở về thành phố.
Một tuần sau chị cùng Dave đứng bên đường cái chờ vẫy xe tải - Phương tiện giao thông duy nhất mà người ta có thể mong đợi, giữa vùng sa mạc mênh mông này. Sau những cuộc nói chuyện rất lâu với Dave, một kế hoạch đã nẩy sinh trong đầu chị. Xuất phát từ một nỗi lo sợ bí hiểm không giải thích được. Chị không thể đến nhờ cảnh sát hoặc những người gác rừng ở đây giúp đỡ. Chị chỉ biết rằng chị phải đi, càng xa càng tốt. Rồi điều gì xảy ra - chị chưa biết, nhưng chị biết rõ phải bắt đầu từ điểm gì và quyết định sẽ theo hoàn cảnh nào mà hành động.
Mặt trời trút lửa không thương xót, chiếc mũ rơm mà mấy ngày trước Dave kiếm về cho chị tỏ ra rất có ích.
Hơn nữa, cùng với mái tóc rậm chị chải rủ trước trán, chiếc mũ đã giúp chị giấu đi khuôn mặt dị dạng của mình. Chị vụng về sửa lại chiếc áo dài màu hồng rộng lùng thùng, thoáng rùng mình trong bộ quần áo lạ. Xe sắp đến kia rồi – Dave nói. Đôi mắt rất tinh của ông nhìn xuyên đám bụi màu đỏ còn nhỏ xíu ở phía chân trời: đó dấu hiệu chứng tỏ có một chiếc xe tải đang chạy đến - Xe sẽ chở con đến Darvin, sau đó, đi tiếp đến đâu thì tự con phải quyết định lấy.
Ông quay lại phía chị với nụ cười dịu dàng, làm cho những nếp nhăn càng rõ hơn trên khuôn mặt rám nắng của ông. Ông cho tay vào túi và lấy ra một cái hộp sắt tây trước đây có lẽ là hộp đựng chè, nay khó xác định hình thù.
- Ta cho con - ông nói, giọng tỉnh bơ và ấn cái hộp vào tay chị - quà chia tay của ta đấy. Trong cái hộp là này là những mơ ước xa xưa của ta mà đã đến lúc ta phải quên đi. Con cứ mở ra mà xem.
Chị mở nắp hộp - bên trong trên lớp giẻ bẩn thỉu là những viên hồng ngọc tuyệt đẹp: Viên nhỏ nhất cũng bằng móng tay đàn ông, viên to nhất phải bằng nắm tay đứa bé mới đẻ, viên nào cũng đẹp tuyệt vời.
- Con soi lên ánh sáng mà xem - ông kiêu hãnh nói - Giống hệt như đốm lửa trong đêm tối. Những viên đá này sẽ giúp con.
- Dave, con không dám nhận đâu.
- Con cứ cầm lấy, cầm lấy.
Dù sao đi nữa ta cũng chẳng cần chúng làm gì. Khi đào được những viên đá này, ta định dùng chúng để dưỡng già, vì thế ta đã bán hết những thứ khác trừ mấy viên đá này. Nhưng bây giờ... Ông mỉm cười với vẻ mãn nguyện - bây giờ thì ta không cần chúng nữa, con yêu quý ạ. Ta đã có đủ mọi thứ cần thiết. Ta không có ý định chuyển đi sống ở nơi khác. Riêng đối với con, những viên đá này sẽ rất có ích.
Mắt Stephany nhòa đi, không biết nói gì hơn, chị chỉ im lặng gật đầu.
- Còn điều này nữa Tara ạ, khi tới Darvin con đừng có ngại mặc cả nhé. Đừng để người ta bịp mình.
Chiếc xe tải đã tới gần, làm tung lên từng đám bụi lớn. Với phong thái lịch sự kiểu xưa, Dave bỏ chiếc mũ phong trần của mình xuống:
- Vậy là vĩnh biệt con, Tara nhé. Hay làm ơn giúp ta điều này nữa: nếu có người nào đó có ý định tìm ta thì con chớ có bảo là ta ở đây nhé. Và con cũng đừng quay lại đây tìm ta. Con cứ ra đi đừng ngoái lại, đừng nhớ tiếc gì cả, được chứ con?
- Vâng ạ - chị cười qua làn nước mắt.
Chiếc xe tải dừng lại, trùm lên họ một lớp bụi mỏng.
- Vĩnh biệt bác Dave! - Chị nói, gắng hết sức để ghìm nước mắt - Xin cảm ơn bác về tất cả mọi điều.
- Tara, nhớ nhé - Ông gọi với theo chị - Cho một điều gì đó - Hoặc là cho ai đó. Rồi con sẽ biết được là cho ai và cho điều gì.
Người lái xe tải tỏ ra mừng vì có khách đi cùng; dọc đường có người để nói chuyện cho đỡ buồn tẻ. Mặc dù phải tập trung hết tâm trí để giữ cho chiếc xe dài dằng dặc của mình bám vững mặt đường ở những đoạn cua gấp anh ta đã kịp liếc mắt nhìn người đàn bà mấy lần: mà những gì anh ta trông thấy đều hợp sở thích cả. Khi ngồi vào ca bin chị đã cố giấu khuôn mặt dị dạng của mình bằng cách đội nghiêng chiếc mũ. Chị ngồi ở tư thế mà người lái xe chỉ có thể nhìn thấy nửa mặt lành lặn của chị đang chìm đắm trong một nỗi buồn mà anh ta không thể nào hiểu nổi.
- Cô làm gì ở đây một thân một mình thế? - Anh ta hỏi - Hỏng xe có phải không?
Chị gật đầu.
- Gì chứ chuyện đó thì khỏi lo - Anh ta nói tiếp - Tôi sẽ chở cô đến tận Darvin. Tôi rất mừng vì có bạn cùng đi hơn nữa, lại là bạn gái.
Không có tiếng trả lời. Người lái xe có đủ kinh nghiệm trong việc tán tỉnh phái yếu nên quyết định nói thẳng, không vòng vo gì nữa:
- Chúng ta có thể tán chuyện với nhau rất vui vẻ, cô em ạ. Đường đến Darvin nào phải là ngắn ngủi. Thiếu gì cách tiêu khiển cho đỡ buồn chán. - Anh ta im lặng, rồi đặt tay lên đùi chị, véo mạnh một cái - Chúng ta có thể tiêu khiển thời gian một cách tuyệt vời. Anh ta ngạc nhiên thấy cơ bắp của chị co rúm lại và trở nên cứng như sắt dưới tay mình. Chậm rãi một cách cố ý, chị từ từ quay mặt sang phía người lái xe. Trông thấy khuôn mặt dị dạng của chị, nụ cười si tình trên mặt anh ta lập tức biến mất. Bây giờ anh ta chỉ cảm thấy xấu hổ, giận dữ và thất vọng.
- Thế có nghĩa là đến tận Darvin - Cuối cùng, anh ta nói vậy.
Ở sân bay Darvin, người bán vé bỗng chú ý tới một phụ nữ ăn mặc lịch sự đang chậm rãi bước vào phòng vé mắt nhìn quanh như thể chị ta chưa thật tin rằng đây chính là nơi mình cần đến. Không giống những người đàn bà Úc khác, chị ta đội một chiếc mũ lông có lớp chàng mạng khá dày che kín mặt. Chị ta bước tới gần quầy bán vé với dáng đi thẳng căng như thể vừa trải qua một tai nạn nặng nề. Có thể vì thế mà chị ta đeo mạng che mặt chăng? - Người bán vé nghĩ thầm. Nhưng dù sao đi nữa thì chị ta cũng có một nét gì đó thật lôi cuốn và hấp dẫn.
Chị dừng lại giữa phòng bán vé để xem bảng giờ bay, sau đó tiến đến bàn của anh ta.
- Xin ông bán cho một vé đi Town Svin - giọng chị cất lên rất trầm và nghe khàn khàn lạ tai.
- Thưa bà, vé một chiều hay hai chiều ạ?
Người đàn bà ngập ngừng rồi trả lời:
- Một chiều thôi.
Người bán vé bấm máy tính rồi thông báo giá vé với người đàn bà.
- Xin bà cho biết họ tên.
Người đàn bà chưa trả lời ngay. Chị mở túi xách để lấy tiền. Người bán vé vô cùng sửng sốt khi thấy túi chị đầy ắp đô la. Chị ngẩng lên, không chú ý tới vẻ mặt của anh ta và kiêu hãnh trả lời:
- Tên tôi là Tara Wells.