Những lời của Hồng Tuyên Kiều đồng thời cũng thu hút sự chú ý của An Long Nhi, bàn tay cậu thò vào trong ngực áo mò mẫm một cách vô thức. Trong áo cậu có một cái túi giấy dầu, xưa nay vẫn dùng để lưu giữ những món đồ kỷ niệm Lục Kiều Kiều cho cậu, và cả những thứ cậu tự mình thu thập, bên trong có ngân phiếu, bút ký và mấy món lặt vặt, thậm chí có cả tóc cậu nhặt được lúc dọn dẹp giường cho Lục Kiều Kiều nữa. Ngoài ra, còn có lá bùa đầu tiên Lục Kiều Kiều đưa cho cậu, chính là Diêm vương điếu hồn phùnăm xưa cô vẽ ra để truy tìm tung tích của Lý Tiểu Văn ở đồi Song Long, mũi Diêm vương điếu hồn châm mãi mãi có thể tìm được Lý Tiểu Văn đến nay vẫn cắm trên lá bùa gấp thành hình tam giác ấy.
“Có chị Kiều chăm sóc cô ấy nhất định là rất ổn rồi.” Lục Kiều Kiều vội vã nói vuốt theo lời Jack, không để Hồng Tuyên Kiều lên tiếng nữa.
Ba năm trước, khi thu nhận Lý Tiểu Văn, Hồng Tuyên Kiều cũng không cảm thấy giữa cô và Jack có quan hệ gì đặc biệt, song hôm nay thì đã hiểu ra tất cả; lại thấy Jack và Lục Kiều Kiều đã thành vợ chồng, cô càng hiểu rõ ý tứ của ám hiệu bằng tay cũng như ẩn ý trong lời nói của Lục Kiều Kiều, Lục Kiều Kiều không muốn nhắc đến chuyện của Lý Tiểu Văn vào thời điểm này. Bởi vậy, cô chỉ ậm ừ đáp một câu: “ừm, cô ấy vẫn sống rất tốt…”
Lục Kiều Kiều không ngừng cướp lời Hồng Tuyên Kiều, lại nói tiếp: “Cái tay Phùng Vân Sơn kia và Lâm Phượng Tường giờ đang ở đâu? Gần đây lắm hả? Hay là kiếm bọn họ cùng ăn tối đi, đằng nào mọi người cũng đói bụng cả rồi.”
Hồng Tuyên Kiều nói: “Bọn họ ở trấn Tư Vượng cách đây bốn chục dặm về phía Tây Bắc, từ đây tới đó toàn là đường xe ngựa nông thôn, với thuật cưỡi ngựa của các vị anh hùng ngồi đây, trong một canh giờ là có thể tới nơi, nếu mọi người không vội lên đường thì ngày mai đi cũng được…” Nói tới đây, cô dừng lại, chờ xem ý tứ cả bọn.
“Chúng tôi vội lắm, tôi muốn đi ngay bây giờ.” Lục Kiều Kiều vội về Vân Nam nhưng lại không muốn bỏ lỡ bất cứ chuyện gì, là người đầu tiên bày tỏ thái độ, Jack lập tức tổ chức trưng cầu ý kiến mọi người và nhanh chóng đạt được sự nhất trí, yêu cầu duy nhất của cả bọn là ra phố ăn bát mì trước đã, vì vừa mới đại chiến một trận trên núi, thể lực tiêu hao khá nhiều, chỉ sợ có người chân tay mềm nhũn ra mà rơi khỏi ngựa lúc đi đường.
Mấy người nhanh chóng sắp xếp hành lý, ăn qua loa một chút rồi lại sửa soạn lên đường. Hồng Tuyên Kiều và Hồ cửu Muội kéo trong trạm ngựa ra một cỗ xe, dắt theo cô gái tên Uyển Nhi vừa mới mua về miễn phí, dẫn đầu đoàn người tiến về phía trấn Tư Vượng.
Đi về phía Tây Bắc chừng một canh giờ, cả bọn quả nhiên trông thấy phía trước có một thị trấn lớn, Hồng Tuyên Kiều bảo với mọi người, nơi này chính là trấn Tư Vượng, Lục Kiều Kiều và An Long Nhi liền ghìm ngựa đi chậm lại, đảo mắt nhìn thế núi xung quanh, địa thế đặc biệt của vùng đất này đã khiến họ chú ý.
Trấn Tư Vượng lưng hướng về phía Bắc mặt hướng về phía Nam, ba mặt có núi bao quanh, nhìn kỹ thì thực ra không phải là hình thế bủa vây, mà là hai dãy núi thẳng dài mạnh mẽ từ hai mé Đông, Tây của trấn Tư Vượng vươn về phương Nam; nếu có một người khổng lồ cao chọc trời đứng ở trấn Tư Vượng, y có thể dùng hai cánh tay làn lượt kẹp lấy hai dãy núi tựa như hai cây trường mâu này, đâm xuống dải đất phương Nam.
Bọn họ ruổi ngựa phóng qua trấn Tư Vượng, nhưng không đi vào trong, Hồng Tuyên Kiều dẫn mọi người tới một khu rừng nhỏ không lấy gì làm nổi bật ở bên rìa thị trấn, trong rừng có một ngôi làng nhỏ, trông có vẻ yên tĩnh và khuất nẻo. Xung quanh có khá nhiều dân cư đang làm những công việc thường nhật, phụ nữ giặt đồ rửa rau, đàn ông sửa nhà đắp đập, mọi người đi qua đều khom người chào hỏi Hồng Tuyên Kiều, có thể thấy ở đây cô cũng là người có địa vị tương đối cao.
Một người đàn ông tráng kiện một tay xách thùng nước đi ngang qua bọn họ, nói với Hồng Tuyên Kiều: “Hồng cô nương, Phùng tiên sinh bảo chúng tôi gánh thêm nước, chuẩn bị thêm thức ăn, thì ra là để đợi các cô trở về à, ha ha ha, Phùng tiên sinh đúng là thần cơ diệu toán.”
Hồng Tuyên Kiều vừa xuống ngựa, vừa nói với anh ta: “Ngũ ca, anh chuẩn bị những món ngon gì rồi?”
“Có khoai củ lớn mà Ngũ tẩu nhà cô phải tốn bao công sức mang từ Lệ Phố về đó, nhất định cô sẽ rất thích.” Ngũ ca xách thùng nước đi vào một ngôi nhà lớn.
Hồng Tuyên Kiều quay lại nói với cả bọn: “Phùng đại ca phen này tiếp đãi mọi người trọng thể lắm đó, khoai Lệ Phố là cống phẩm hoàng gia, tối nay có món ngon ăn rồi.”
Cả bọn vui vẻ cột ngựa lại, lập tức có người ra cho chúng uống nước và ăn cỏ. Trong ngôi nhà lớn Ngũ ca vừa đi vào có hai người bước ra: một người trẻ tuổi lưng hổ eo gấu, thân hình cao lớn đen đúa, chính là Lâm Phượng Tường mà Lục Kiều Kiều đã quen biết từ trước; người đàn ông còn lại tuổi chừng ba mươi, tướng mạo bình thường, vừa đen lại vừa gầy, nhưng hai mắt sáng rực, tựa hồ tinh lực dùng mãi cũng không cạn, anh ta chính là Phùng Vân Sơn mà Hồng Tuyên Kiều nói tới. cả hai đều mặc áo ngán bằng vải thô, hoàn toàn không để lộ điểm gì khác với những cư dânở đây.
Phùng Vân Sơn vừa đi ra liền nói ngay với Hồng Tuyên Kiều: “Ngũ ca bảo cô dẫn khách quý đến à?”
“Không phải là anh tính ra được sao?” Hồng Tuyên Kiều cười cười nói.
“Phải rồi, tôi tính ra được hôm nay có đại quý nhân đến nhà, cô đừng nói vội, để tôi đoán.” Phùng Vân Sơn nheo mắt cười đi tới trước mặt Lục Kiều Kiều, nói: “VỊ này thì dễ đoán quá, một thân áo lục, đẹp tựa hoa lan, đương nhiên là Lục Kiều Kiều, Lục tiên sinh rồi, ngưỡng mộ tuyệt học phong thủy của Lục tiên sinh đã lâu, lòng gan góc can đảm chẳng kém gì đấng tu mi lại càng hiếm có hơn, tại hạ bội phục, bội phục.” Nói xong, liền chắp tay vái Lục Kiều Kiều một vái thật dài.
Lục Kiều Kiều cũng rất lịch sự khom người đáp lễ, mỉm cười nói: “Từ lâu đã nghe danh Phùng tiên sinh, ngài là vị khách lớn nhất trong đời của Kiều Kiều đấy nhé.”
Phùng Vân Sơn biết Lục Kiều Kiều đang nhắc nhở mình về khoản nợ một vạn lượng vàng ròng, lập tức cười ha hả đáp: “Tôi không phải khách hàng, có điều, sau khi đại sự đã thành, Phùng Vân Sơn nhất định sẽ đích thân đưa tiền công đến cho Lục tiên sinh. Lục tiên sinh đây là vị phong thủy sư xinh đẹp nhất mà Vân Sơn bình sinh được gặp đó.” Những lời này của Phùng Vân Sơn khiến Lục Kiều Kiều cười tít cả mắt, sau đó, anh ta lại quay sang lần lượt nhận ra Jack và An Long Nhi.
Chào hỏi xong xuôi, Phùng Vân Sơn đặt tay lên vai An Long Nhi nói: “Tôi nghe A Kiều nói, cậu đã liều mạng đưa di thể của Hồng lão gia tới trước long huyệt, Vân Sơn xin được thay mặt cho Thượng Đế hội nói lời cảm tạ.”
An Long Nhi chắp tay hành lễ với Phùng Vân Sơn, đoạn nói: “Nào có đáng gì, Phùng tiên sinh khách khí rồi.”
Phùng Vân Sơn lại quay mặt về phía Nam, hỏi: “An Long tiên sinh, cậu thấy phong thủy ở đây thế nào?”
Lục Kiều Kiều vừa nghe đã biết Phùng Vân Sơn đang thử thăm dò công lực phong thủy của mình nông sâu ra sao, chỉ có điều trực tiếp hỏi mình thì không được lễ độ cho lắm, còn hỏi An Long Nhi lại nhất cử lưỡng tiện, nghĩ ra được cách này, tay họ Phùng hẳn cũng phải vất vả hao tổn tâm tư. An Long Nhi xưa nay chưa từng nghe người nào xưng hô với mình như thế, không khỏi nóng bừng cả mặt, nhưng lúc này khách sáo không bằng nói thẳng, cậu cũng dõi mắt nhìn ra phía xa một hồi, đoạn nói: “Tôi thấy nơi này là đất đại hung.”
Phùng Vân Sơn giơ một ngón tay cái lên với An Long Nhi, nhưng lại khẽ gật đầu với Lục Kiều Kiều: “Thầy giỏi có trò hay, anh hùng xuất thiếu niên.”
Một câu vỗ mông ngựa lấy lòng cả hai người, khiến Lục Kiều Kiều nhoẻn miệng cười tươi như hoa nở.
Kế đó, Phùng Vân Sơn lại quay sang hỏi An Long Nhi: “Tiên sinh sao lại cho rằng nơi này là đất dữ?”
An Long Nhi đưa mắt nhìn quanh quất, đoạn nói: “Nơi này nhìn bề ngoài có vẻ là long mạch dừng ở phía trước minh đường, hai bên long hổ chiếu cố vin đỡ lẫn nhau, chừng như sáp kết huyệt đến nơi; nhưng thế của hai đạo long mạch lại thẳng đuột, nên đây vẫn chỉ là đất có long mạch chạy qua mà thôi, trước khi long mạch chui xuống lòng đất cũng không có biến đổi hoặc có chỗ quá hiệp, sơn mạch không mở rộng ra cũng không có biến đổi đột nhiên lặn xuống đất như vậy, ở trên mặt đất sẽ chỉ hình thành nên sát khí vô hình xông thẳng về phía trước, đừng nói nơi này long mạch không thể cuộn lại để kết huyệt, kể cả có kết huyệt thì cũng là hung huyệt.”
Phùng Vân Sơn mỉm cười hỏi: “Cục thế Ngũ xà hạ dương trên đỉnh Phù Dung cũng không có chỗ quá hiệp hay biến đổi gì đặc biệt, tại sao lại có thể kết huyệt được vậy?”
An Long Nhi đáp: “Đỉnh Phù Dung thuộc một dãy núi từ phương Bác chạy xuống phương Nam, ở ngoài năm mươi dặm, rồng đã lặn qua chỗ quá hiệp, biến đổi trở thành chân long khổng lồ, thêm vào đó, bên dưới đỉnh Phù Dung lại có hồ lớn, hình thành nên Vũ Khúc tinh, khiến long khí được kết tụ thêm lần nữa, vì vậy đỉnh Phù Dung là huyệt lành có thể trực tiếp hạ táng được.”
Lục Kiều Kiều thở dài một tiếng, nói: “Chà, tầm nhìn về phong thủy của Long Nhi đã tăng lên rất nhiều, thực sự có thể nuôi cô Kiều được rồi, sau này cô đi dắt mối kéo việc làm ăn về cho mày, chúng ta chia năm năm nhé.”
Sái Nguyệt và Cố Tư Văn ngưỡng mộ nhìn sang, An Long Nhi nghe Lục Kiều Kiều nói vậy chỉ cười mà không đáp. Phùng Vân Sơn lại hỏi: “Theo tiên sinh, ở nơi hung sát thế này sẽ xảy ra chuyện gì?”
“Giờ đang là cửu vận, vượng khí ở phương Nam, hai dãy núi như hai cây trường mâu này không hướng về phương Nam nạp khí kết huyệt, mà lại đi ngược đạo trời, đem sát khí đâm về phía ấy…” An Long Nhi ngưng lại một chút, đưa mắt nhìn xung quanh, Phùng Vân Sơn liền lên tiếng: “Tiên sinh xin cứ nói tiếp, mấy dặm xung quanh đây toàn là người của Thượng Đế hội cả.”
“Nơi này là đất đại hung đối với quan quân triều đình, hiện giờ đạo tặc hoành hành có thể vẫn chưa phải lúc sát khí mạnh nhất, sang năm là năm Tuất, có tam hợp hỏa cục, nếu có quan binh đi tới đất này, có thể sẽ gặp phải thảm bại dẫn đến hủy diệt.”
Phùng Vân Sơn gật gật đầu vẻ tin phục, nói tiếp: “An Long tiên sinh đã dạy cho Vân Sơn một bài học tuyệt vời, cậu xem, đây là cách cục gì vậy?”
An Long Nhi hết sức tự tin nói: “Long từ phương Tây đến, vì vậy thuộc Kim trong ngũ hành, long mạch chạy thẳng hình thành nên sát khí như mũi thương, hai mũi thương lại tạo thành hình cây kéo cắt về phía hỏa địa ở phương Nam, chỉ đợi đến năm đến tháng xảy ra kim hỏa giao kích, đến ngày rồng thấy nước là ắt sẽ thắng, vì vậy nơi này có thể gọi là cục thế Kề kim cắt hỏa.”
“Hay cho một câu Kề kim cắt hỏa, Vân Sơn nhất định ghi nhớ trong lòng, ắt sẽ có ngày dùng vào việc lớn. ôi chà, chỉ mải nghe cao kiến của An Long tiên sinh mà quên mất mọi người vẫn đang đứng, mau vào trong uống trà thôi.” Phùng Vân Sơn nói đoạn, liền cùng Lâm Phượng Tường mời cả bọn vào nhà nghỉ ngơi.
Bạn cũ gặp mặt, lại có Phùng Vân Sơn ý họp tâm đầu làm chủ nhà, mọi người tuy mới gặp nhau lần đầu, nhưng vừa gặp đã như người quen cũ, bảy tám đĩa thức ăn nhà nông làm từ khoai Lệ Phố trên bàn lại có phong vị hết sức đặc biệt, khiến cho không khí bữa ăn cực kỳ vui vẻ náo nhiệt.
Trong bữa ăn, Lục Kiều Kiều hỏi Phùng Vân Sơn: “Người được táng xuống huyệt lành ở đỉnh Phù Dung là Hồng lão gia, người phát tích là con cháu nhà họ Hồng, giờ sự việc tiến triển tới đâu rồi?”
Phùng Vân Sơn buông đũa xuống nói: “Mời Lục tiên sinh theo tôi vào phòng trong có được không?”
Lục Kiều Kiều hỏi chuyện mưu phản, Phùng Vân Sơn mà trả lời ngay trên bàn ăn mới là lạ, vì vậy cô lập tức nhận lời theo anh ta vào phòng trong.
Hai người vào phòng trong, Phùng Vân Sơn mới thắp đèn dầu, khóa trái cửa lại, đứng trên ghế thò tay lên xà nhà mò mẫm lấy ra một quyển sách mỏng đặt vào tay Lục Kiều Kiều. Lục Kiều Kiều nhận lấy, liếc mắt nhìn qua, chỉ thấy trên bìa sách có đề ba chữ “Thôi bối đồ”.
Phùng Vân Sơn nói với cô: “Lục tiên sinh hẳn phải biết đây là sách gì chứ?”
Lục Kiều Kiều đương nhiên biết, đây là bài sẩm truyền cả ngàn năm nay của nhà huyền học thời Đường Viên Thiên Canh, trong sách sử dụng ẩn ngữ và những bức tranh khó hiểu để tiên đoán một loạt các sự kiện lịch sử quan trọng từ thời Đường đến nay, tỷ như sự hưng vong của các triều Tống, Nguyên, Minh, sự quật khởi của triều đình Đại Thanh…
Trước khi một sự kiện lịch sử xảy ra, không ai có thể hiểu được thâm ý bên trong Thôi bôi đồ, nhưng sau khi sự việc xảy ra rồi, mọi người lại phát hiện, kỳ thực trong sách đã chỉ rõ tất cả. Cuốn kỳ thư thiên cổ này chỉ dùng có mấy chữ đã phán định sự hưng vong của các triều các đại, nhân vật địa điểm sự kiện… thảy đều không sai, vì vậy xưa nay rất được các văn nhân, võ tướng, chính khách coi trọng, cũng khiến cho quân chủ đương triều vô cùng khiếp sợ, gần đây lại được danh sĩ cuối thời Minh là Kim Thánh Thán phê chú, những sự kiện lịch sử trước đây đều được chỉ ra rành mạch trong sách.
Phùng Vân Sơn nói với Lục Kiều Kiều: “Xin tiên sinh lật đến tượng thứ ba mươi ba…”
Lục Kiều Kiều giở sách, thấy ở trang đó có một bức tranh vẽ cảnh nước lớn cuồn cuộn, trên mặt nước có một con thuyền lớn, trên thuyền ngồi đày người ngoại tộc ăn mặc kỳ dị, nóc khoang thuyền cắm tám lá cờ lớn. Bên cạnh bức tranh có đề bốn câu thơ:
Hoàng hà thủy thanh Khí thuận tắc trị Chủ khách bất phân Đia chi vô tử Phùng Vân Sơn đứng bên cạnh Lục Kiều Kiều, cùng cô xem trang sách ấy, đoạn chậm rãi nói: “Lục tiên sinh xem, trên con thuyền trong tranh này toàn là người Hồ, trên nóc thuyền lấy Bát Kỳ làm hiệu, đây là chỉ người Mãn Bát Kỳ vượt sông vào làm chủ Trung Nguyên; câu thơ Hoàng Hà thủy thanh, ý nói triều Thanh thay thế huyết mạch của người Hán ở Hoàng Hà; Khí thuận tắc trị,là chỉ niên hiệu Thuận Trị của Thanh Thế Tổ; Chủ khách bất phân, ý nói ngoại tộc thống trị người Hán ở đất của người Hán, rõ ràng là khách lấn lướt chủ; Địa chi vô tử,có lẽ muốn nói đến việc Mãn Thanh bị diệt, Kim Thánh Thán chưa giải đọc ra, nhưng sau này ắt sẽ thấy được kết quả sau cùng, có điều như vậy đã đủ chứng tỏ tính chuẩn xác của Thôi bôi đồ này rồi.”
Lục Kiều Kiều khẽ cười một tiếng, nói: “Quyển sách này tôi cũng đã xem qua, Kim Thánh Thán chết vào những năm Thuận Trị, những lời giải đọc thần kỳ của ông ta viết đến tượng thứ ba mươi ba là dừng lại, đằng sau còn mấy chục quẻ tượng và bài thơ hình vẽ nữa, làm sao biết được là chuẩn hay không chuẩn chứ?”
Phùng Vân Sơn nói: “Lại mời tiên sinh lật sang tượng thứ ba mươi tư.”
Lục Kiều Kiều lật qua một trang, chính giữa bức tranh của tượng thứ ba mươi tư là một dòng sông chảy vắt ngang, bờ sông phía bên trên bức tranh mọc tràn cỏ dại, bờ sông phía dưới là hai bộ xương tráng, nằm chồng lên nhau, động tác kỳ dị, không biết là ôm nhau mà chết hay sau khi chết vẫn vật lộn với nhau dưới đất. Bên cạnh bức tranh đề một bài thơ:
Đầu hữu phát Y phạ bạch Thái Bình thời Vương sát vương Nhìn bức tranh khủng khiếp này dưới ánh đèn dầu tối tăm leo lát, trong lòng Lục Kiều Kiều chợt dâng lên một cảm giác rờn rợn, đây là một tương lai thế nào, phải chăng còn đáng sợ hơn cả chuyện người Mãn tiến vào làm chủ Trung Nguyên trong tượng thứ ba mươi ba?
Phùng Vân Sơn quan sát ánh mắt của Lục Kiều Kiều, cất tiếng dò hỏi: “Lục tiên sinh nhìn bức tranh này có cao kiến gì không?”
Lục Kiều Kiều khẽ cười, đáp: “Những lời tiên tri bằng câu kệ và hình vẽ thế này, dường như không thể dùng Ngũ hành Bát quái để suy diễn ra kết quả, mà chỉ có thể gán ghép vào sau khi sự việc xảy ra, tôi là phận đàn bà, biết gì đâu mà nói.” Ý chừng như rất coi nhẹ quyển sách Thôi bối đồ này.
Phùng Vân Sơn cầm ngọn đèn dầu trên mặt bàn lên giơ ra phía trước quyển sách cho sáng, đoạn nói với Lục Kiều Kiều: “Xin hãy xem câu tụng bên dưới.”
Bên dưới bốn câu thơ sấm truyền kia, còn có bốn câu tụng thế này:
Thái bình hựu kiến huyết hoa phỉ Ngũ sắc thảo thành lý ngoạiy Hồng thủy đào thiên miêu băt tú Trung nguyên tàng kiến mộng toàn phi Phùng Vân Sơn nói: “Tiên sinh có biết người nợ cô một vạn lượng vàng ròng là ai không?”
Lục Kiều Kiều gật đầu đáp: “Anh trai của Hồng Tuyên Kiều, Hồng Tú Toàn.”
Phùng Vân Sơn mỉm cười thần bí, đưa ngón tay chỉ vào hai câu sau của bài tụng, chậm rãi điểm ra ba chữ: Hồng, Tú, Toàn.
Lục Kiều Kiều chau mày nói: “Chuyện này không chứng tỏ điều gì cả, nếu có một người tên Tằng Mộng Phi hoặc Hồng Thủy Đào, y cũng có thể gán ghép vào, bảo rằng bài tụng này viết về mình.”
“Đúng, bọn họ có thể gán ghép, nhưng họ sẽ không được Lục tiên sinh giúp bố trí huyệt phong thủy thiên tử, đây chính là ý trời.” Phùng Vân Sơn nói: ‘Thôi bôi đồ được viết dựa theo trình tự lịch sử, tượng thứ ba mươi tư tất sẽ thay thế việc người Hồ vào làm chủ Trung Nguyên ở tượng thứ ba mươi ba, tượng này chính là tử kỳ của Mãn Thanh. Cho dù ba chữ Hồng Tú Toàn là gán ghép chăng nữa, nhưng trong tranh có một dòng sông lớn chạy vắt ngang, không phải cũng là chỉ một chữ Hồng đó hay sao? Phía trên hồng thủy là cỏ xanh, rõ ràng ý nói nhà họ Hồng xuất thân từ giới thảo mãng, lấy phận kẻ dưới khác người trên mà thành đại sự; nguyên văn của tượng thứ ba mươi tư này chỉ có bốn mươi chữ, nhưng lại hai làn nhắc đến ‘thái bình’. Thơ viết ‘huyết hoa phi’, trong tranh lại có xương trắng, hai chữ ‘thái bình’ này không thể nào chỉ thái bình thịnh thế được. Thôi bôi đồ đã có tiền lệ trực tiếp ẩn tàng danh tự và niên hiệu trong bài thơ dự ngôn rồi, vì vậy tôi cho rằng ‘thái bình’ là chỉ quốc hiệu của vương triều mới lật đổ nhà Thanh, đây chính là Thiên triều mà chúng tôi sẽ kiến lập… Thái Bình Thiên Quốc.”
Giọng Phùng Vân Sơn thấp tràm, nhưng lời nói lại lay động lòng người, Lục Kiều Kiều mặc dù sớm biết thuật phong thủy của Long quyết chỉ lập thiên tử, sát thiên tử, vào khoảnh khắc hạ táng Hồng lão gia kia là đã có lòng phản Thanh rồi, nhưng khi tận mắt nhìn thấy một vị chí sĩ phản Thanh đứng bên cạnh mình, trên tay cầm cuốn kịch bản thay đổi lịch sử, cô vẫn không sao đè nén được cơn sóng lòng đang cuồn cuộn trào dâng.
Lục Kiều Kiều cố gắng trấn tĩnh lại, nhìn chằm chằm vào bốn mươi chữ ngắn ngủi của tượng thứ ba mươi tư, sau khi nghĩ đi nghĩ lại, cô nói: “Đúng vậy, nếu ‘thái bình’ là để chỉ thái bình thịnh thế, trong bài thơ sao lại nói là Thái bình thời, vương sát vương? Có điều…”
Phùng Vân Sơn vừa nghe đến hai chữ “có điều”, liền lấy làm cao hứng, có suy xét thì mới có phản bác, những lời này của Lục Kiều Kiều chứng tỏ cô cũng công nhận phân tích của mình, anh ta vội vàng nói: “Lục tiên sinh xin cứ nói thẳng, Vân Sơn rửa tai cung kính lắng nghe.”
Lục Kiều Kiều đưa trả quyển sách cho Phùng Vân Sơn, nói: “Phùng tiên sinh hẳn rất am hiểu về phong thủy ở đỉnh Phù Dung, nơi đó ban đầu là cục thế Ngũ xà hạ dương, nhưng chỉ là Ngũ xà họp lực chứ không phải Nhất long thăng thiên, vốn dĩ là cục thế huynh đệ tương tàn, chỉ cùng hoạn nạn mà không thể chung phú quý, tuy rằng hiện giờ táng được xuống đáy hồ, có phúc lực của long huyệt thiên tử, nhưng phủ Quốc sư của Thanh Triều cũng lắm kẻ tài giỏi, muốn phá đi cái huyệt rồng này cũng không phải là điều bất khả. Long huyệt bị phá, tự nhiên sẽ khôi phục lại cục thế Ngũ xà hạ dương ban đầu, khi ấy thì Vương sát vương trong bài thơ sẩm kia, có lẽ không phải là Thái Bình vương giết Mãn Thanh vương, mà là các vị vương mới tàn sát lẫn nhau đó.”
Phùng Vân Sơn đứng lên ghế đặt quyển Thôi bôi đồ trở lại chỗ kín đáo trên xà nhà, sau khi bước xuống, anh ta nói với Lục Kiều Kiều: “Tiên sinh ưu tư như vậy là rất có lý, nhưng ngày mà Vương sát vương ấy, cũng phải đợi đến khi song phương đều là đại vương mới được; chúng ta trước hết không xưng vương tranh đoạt thiên hạ, cuối cùng đừng nói là vương sát vương, sợ là ngay cả chó cắn chó cũng chẳng có cơ hội xảy ra ấy chứ… Xây dựng một triều đình mới vốn không dễ dàng, giờ chúng ta vẫn còn đang ở trong những năm tháng kiến lập, chỉ mong có thể nhìn thấy được tháng ngày thái bình mà thôi…”
“Phùng tiên sinh hơi nôn nóng rồi, lẽ nào đã giác ngộ được chuyện gì?” Lục Kiều Kiều nhìn thẳng vào gương mặt không hề có đặc điểm gì nổi bật song lại sở hữu một đôi mắt sáng lấp lánh như thể muốn bắt hồn phách người khác của Phùng Vân Sơn. Xét theo tướng học, đây là tướng đại quý, gọi là Thập trọc nhất thanh Tiếc rằng, tướng này sống ở đôi mắt, mà chết cũng ở đôi mắt. Trong tướng học, mắt đại diện cho thành tựu tuổi trung niên, ánh mắt mạnh mẽ chứng tỏ trung niên có thành công nhất định, nhưng tinh quang trong mắt Phùng Vân Sơn lại bộc lộ quá nhiều, ám chỉ tuổi trung niên sẽ gặp chuyện đại hung. Phải chăng Phùng Vân Sơn cũng ý thức được mình không còn ở lâu trên cõi đời này nữa, vì vậy muốn làm nên một phen sự nghiệp trước khi qua đời?
Phùng Vân Sơn nhìn thẳng vào mắt Lục Kiều Kiều nói: “Đời người như bóng câu lướt qua cửa sổ, mấy chục năm ngắn ngủi thì có thể làm được gì chứ? Ngay một nữ nhân cũng có thể nói ra những câu hào tình tráng chí như ‘sống làm người hào kiệt, chết làm ma anh hùng’, vì dân chúng trong thiên hạ, vì danh tiếng để lại, chúng ta đều cần phải làm nên một phen sự nghiệp để chứng minh sự tồn tại của chính mình…”
Ánh mắt chăm chú của Phùng Vân Sơn không tạo áp lực cho Lục Kiều Kiều, cô nhìn ra khát khao được thừa nhận và ước vọng thành công của anh ta, cũng như nỗi lo âu trước những thành tựu tầm thường vô vị trước mắt. Đây là lần đầu tiên cô cảm nhận được tráng chí ngút trời của một người đàn ông. Lục Kiều Kiều không dám nhìn vào mắt Phùng Vân Sơn nữa, cô xoay người mở cửa, trở lại phòng khách nơi cả bọn đang tụ tập dùng cơm, thấy ai nấy đều đang ăn uống cười đùa vui vẻ. Cô cầm hai chiếc bát lớn trên bàn, rót đầy rượu gạo đưa tới trước mặt Phùng Vân Sơn, hai tay nâng bát rượu, nói với anh ta: “Phùng đại ca, anh đã khiến Lục Kiều Kiều thấy được trên đời này vẫn còn những người đàn ông khiến người ta phải khâm phục, xin hãy nể mặt mà kết làm bằng hữu, cùng tôi uống cạn bát rượu này.” Dứt lời, hai người đều uống một hơi cạn sạch rượu trong bát, nhìn nhau cả cười, cả bọn nhìn mà chẳng hiểu gì, chỉ có An Long Nhi hiểu rõ mà vẫn bình thản ngồi xem.
Cơm no rượu say xong xuôi thì đã canh ba, bôn ba cả một ngày, những người mệt mỏi đều đã về phòng nghỉ ngơi, Lục Kiều Kiều xua Jack và An Thanh Viễn về ngủ trước, còn mình thì kéo Hồng Tuyên Kiều ra gốc cây bên bờ suối nói chuyện riêng.
Cánh đồng đêm hè sao giăng khắp trời, dưới đất đày đom đóm bay lượn, thi thoảng lại có tiếng ếch nhái vẳng tới. Lục Kiều Kiều cởi giày, nhúng chân xuống dòng nước suối trong mắt, gương mặt nặng nề đầy tâm sự, Hồng Tuyên Kiều thì thầm kể cho cô về cuộc sống mấy năm nay của Lý Tiểu Văn.
Nghe Hồng Tuyên Kiều nói, sau khi theo cô về Nữ tử Tuyên đạo hội, Lý Tiểu Văn rất hòa họp với mọi người, chưa bao giờ gây chuyện hay tranh chấp đồ đạc gì với ai, lại rất giỏi thêu thùa may vá. Hàng thêu của cô từ lúc ở Quảng Đông đã rất được ưa thích, chính vì vậy cũng từng có người đến cầu hôn. Nhưng khi ấy quân Thanh đến tàn phá thôn làng, mọi người đều mải lo trốn chạy nên không nhác đến những chuyện này nữa. Mấy tháng sau khi tới Quảng Tây, bụng cô càng lúc càng lớn, Hồng Tuyên Kiều phát hiện thì ra cô đã có thai, năm lần bảy lượt truy hỏi mới biết đó là con của Jack.
Quan hệ của Hồng Tuyên Kiều và Jack rất tốt, cũng là những người bạn coi trọng lẫn nhau, vì vậy cô không dám lơ là chuyện của Lý Tiểu Văn, bèn cặn kẽ hỏi han Lý Tiểu Văn đầu đuôi mọi việc, cảm thấy Lục Kiều Kiều sớm đã biết chuyện này và cũng có ý sáp xếp cho cuộc sống sau này của Lý Tiểu Văn. Mấy tháng sau, Lý Tiểu Văn sinh ra một bé gái, lớn lên một chút, mọi người lập tức phát hiện nó có mái tóc vàng và đôi mắt nâu, vốn không phải là người Hán. Vì nó còn đáng yêu hơn cả trẻ con người Hán, trông chẳng khác nào con búp bê Tây, mà giáo đồ Thượng Đế hội lại lấy tôn chỉ cả thiên hạ chung một nhà, nên ai nấy đều vô cùng yêu thích con bé; có điều, đi ra phố thì lại là chuyện hoàn toàn khác, bởi lẽ trong nước đâu đâu cũng phản đối người Tây, nhìn thấy một người đàn bà dẫn theo một đứa trẻ Tây, người ta liền cho rằng cô ta nhất định đã bị Tây hiếp, đây là mối nhục đối với người Hán, chỉ hận không thể treo cổ Lý Tiểu Văn lên, còn đứa trẻ kia, lại càng là giống tạp chủng không bằng chó lợn của người Tây để lại. Hồi đầu, Lý Tiểu Văn bế con ra phố mua đồ đã nếm cảnh bị người trên phố đánh đập, cô vì bảo vệ đứa bé nên không sao chạy được, bị đánh đến nỗi trọng thương, về sau, cô không dám bế con ra phố nữa, những lúc không muốn làm phiền đến người khác thì vẫn phải tự mình ra ngoài, nhưng vẫn bị người ta nhận ra mà đánh đập chửi bới trên phố.
“Giờ tôi để cô ấy phụ trách hướng dẫn mấy cô gái lo việc thêu thùa may vá trong Giáo hội, cô ấy làm rất tốt…” Hồng Tuyên Kiều nói xong, lặng lẽ cúi đầu, vẻ mặt nặng nề không kém gì Lục Kiều Kiều.
Lục Kiều Kiều nghe mà thấy sống mũi cay cay, cô nói với Hồng Tuyên Kiều: “Tôi có tính qua Bát tự của cô ấy, mệnh cô ấy rất khổ, tôi từng giúp cô ấy gọi Long thần nối mệnh, cũng cho cô ấy một lá Thủy long hộ thân thần phù… tôi biết cô ấy có con với Jack, nhưng lúc đó tôi cũng đang bị người ta đuổi giết, làm sao lo được nhiều việc đến thế…”
Hồng Tuyên Kiều gật đầu: “Tôi đương nhiên hiểu được nỗi khổ của cô lúc ấy, Lý Tiểu Văn cũng đã nói với tôi rồi, cô để lại cho cô ấy rất nhiều ngân phiếu. Thượng Đế hội chúng tôi yêu cầu người nhập hội đều phải nộp hết tài sản cá nhân, nhưng tiền đó là của cô cho cô ấy, tôi chỉ bảo cô ấy giao ra một ít, phần lớn còn lại đều để cô ấy len lén giữ làm vốn riêng… Bình thường cô ấy rất tiết kiệm, số tiền đó cũng đủ sống nhiều năm rồi.”
Lục Kiều Kiều thành thục đánh bật lửa, châm điếu thuốc hít sâu một hơi, rồi phả ra một làn khói dày đặc cùng tiếng thở dài não nuột: “Chị Kiều, ngày mai tôi phải lên đường gấp rút về Vân Nam, đại ca tôi đang phái người đuổi giết chúng tôi… sau khi xong chuyện, tôi sẽ tính kế lâu dài sau vậy, chuyện đứa nhỏ tôi sẽ nhanh chóng trở về xử lý, Lý Tiểu Văn vẫn phải tạm thời nhờ chị chăm lo giúp…”
Cô vừa nói vừa toan lấy ngân phiếu trên người ra, nhưng Hồng Tuyên Kiều ấn tay cô xuống, nói: “Lý Tiểu Văn cũng là chị em của tôi, tại sao phải lấy tiền của cô nữa? Cô làm vậy là coi thường tôi rồi đó…”
Lục Kiều Kiều không biết làm sao, đành cúi nhìn dòng nước, Hồng Tuyên Kiều lại nói: “Tôi biết cô khó xử, nhưng đây dù sao cũng là con của Jack, để đứa bé có cha, để mẹ nó được yên tâm cũng là tâm nguyện của cô đúng không? Nếu không, năm xưa cô việc gì phải âm thầm cứu Lý Tiểu Văn chứ?”
Lục Kiều Kiều thở hắt ra một hơi khói, đáp: “Đúng, thời buổi này đàn ông ai mà không năm thê bảy thiếp, chuyện này tôi cũng đã chấp nhận, tôi có thể chăm lo cho hai mẹ con họ tử tế, chỉ lo là Jack sẽ giận tôi vì những chuyện hồi trước… Anh ấy rất thích trẻ con, đối đãi với mọi người cũng rất tốt, nếu anh ấy hay được lúc đó tôi biết rõ Lý Tiểu Văn đang mang thai mà vẫn bỏ cô ấy lại cho chị, anh ấy sẽ giận tôi cả đời mất… chậc chậc, phiền quá mà…”
Thấy Lục Kiều Kiều phiền muộn gãi gãi đầu, Hồng Tuyên Kiều ôm lấy vai cô, nói: “Không cần lo láng, tôi đã nói chuyện với Lý Tiểu Văn trước rồi, bảo cô ấy đừng nói ra việc cô giúp cô ấy. Lần sau khi mọi người tới, để tôi nói với Jack cho, tất cả cứ đổ hết lên đầu tôi là được, dẫu sao thì anh ấy cũng không thể nổi cáu với tôi được phải không, mà có hận tôi cũng được thôi, cả nhà cô được đoàn viên thì giá nào cũng đáng…”
Lục Kiều Kiều nắm tay Hồng Tuyên Kiều, gật đầu đầy cảm kích.
An Long Nhi và Cố Tư Văn ngủ chung một phòng, Cố Tư Văn uống quá chén đã ngoẹo đầu ngủ lăn quay, An Long Nhi tắm rửa xong, một mình đi ra khu vườn sau vắng lặng, mở lá Diêm vương điếu hồn phù cất trong người ba năm nay ra ngắm nghía dưới ánh sao mờ mịt.
Đây là lá bùa đầu tiên cậu thấy trong đời, hiện giờ, cậu đã có thể tự viết ra cả một quyển phù thư, nhưng đối với cậu, lá bùa do đích thân Lục Kiều Kiều cầm bút viết ra này vẫn quý báu vô ngàn. Cậu mở lá bùa ấy ra lần đầu tiên, tỉ mỉ xem xét nét chữ năm xưa của Lục Kiều Kiều, bút pháp phóng túng mà thoát tục, phù đầu, phù thânvà phù tỏa phức tạp được viết không sai chút nào, khí thế cuồn cuộn, tuy viết từ ba năm trước, nhưng hôm nay xem lại vẫn thấy toát lên phong phạm của bậc đại gia.
An Long Nhi thấy trên lá bùa có viết “Vân Nam Lý Tiểu Văn sinh năm Kỷ Sửu tháng Tân Mùi ngày Ất Dậu giờ Ất Dậu”, cậu chưa bao giờ quan tâm đến Bát tự này, nhưng giờ không hiểu sao lại cẩn thận đem ra tính toán. Cậu kinh ngạc phát hiện ra, đây là một Bát tự xấu đến độ không thể xấu hơn được nữa, nếu cậu tính không sai, Lý Tiểu Văn đã có một đứa con được hai tuổi, và năm nay cô sẽ chết trong chiến tranh loạn lạc, nói một cách chuẩn xác hơn, Lý Tiểu Văn sẽ chết trong tháng này!
An Long Nhi bất chợt rùng mình ớn lạnh, Lục Kiều Kiều hẳn là đã biết tẩt cả những chuyện này từ ba năm trước, tại sao chưa bao giờ cậu nghe Lục Kiều Kiều nhác tới? Cậu nghi ngờ đứa bé Lý Tiểu Văn hoài thai chính là con của Jack. Vì tính toán thời gian thì tháng mà Lý Tiểu Văn hoài thai vừa khéo trùng với thời điểm cô ở bên Jack; mà cậu cũng từng nghe Lục Kiều Kiều nói, hằng ngày các kỹ nữ đều phải uống một thứ thuốc để ngừa thai, vì vậy khả năng Lý Tiểu Văn hoài thai lúc ở trong kỹ viện là không cao.
An Long Nhi từ từ hồi tưởng lại tình huống lúc đó, xâu chuỗi những hành vi của Lục Kiều Kiều lại.
Tình huống hợp lý hợp tình nhất chỉ có như vậy thôi, lúc trên xe ngựa Lục Kiều Kiều đã nhìn tướng mặt mà phát hiện ra Lý Tiểu Văn và Jack có quan hệ, sau khi có được Bát tự của Lý Tiểu Văn lại càng khẳng định cô đã có thai và sẽ chết không lâu sau đó, nhưng Lục Kiều Kiều đoán rằng khi Jack biết mình có con sẽ lập tức cùng Lý Tiểu Văn trở về Quảng Châu, để Jack tiếp tục bảo vệ mình về Giang Tây, cô vừa gặp Hồng Tuyên Kiều đã vội vàng sắp xếp cho Lý Tiểu Văn, sau này Lý Tiểu Văn sẽ biến mất một cách hợp lý hợp tình, còn Lục Kiều Kiều có thể khiến Jack yên tâm ở lại bên cạnh mình.
Vì vậy, lúc đó Lục Kiều Kiều không nói, giờ cũng không thể nói, trước mặt Jack lại càng không thể nói, đây là một âm mưu!
Mỗi một hồi ức tươi đẹp trong lòng An Long Nhi đều đang dao động, cậu đã không thể phân biệt nổi gương mặt nào của Lục Kiều Kiều là thật, gương mặt nào là giả nữa, cô còn bao nhiêu chuyện che giấu bạn bè và người thân? Cô đã dựa vào tu vi huyền học của mình để đùa bỡn những người khác trên lòng bàn tay mình, trong mắt An Long Nhi, Lục Kiều Kiều đã không còn là người tâm linh tương thông với cậu, chỉ liếc nhìn qua đã thấu hiểu nữa rồi.
An Long Nhi muốn tìm Lý Tiểu Văn, xem thử coi đứa trẻ là của ai, Lục Kiều Kiều có thể không lo đến chuyện sống chết của Lý Tiểu Văn, nhưng cậu thì tuyệt đối không thể nhìn bạn bè gặp đại nạn sinh tử mà khoanh tay bàng quan được.
Cậu nhẹ nhàng đi tới phòng Lâm Phượng Tường gọi anh ta ra, hỏi xem có nhớ Lý Tiểu Văn không, Lâm Phượng Tường gật đầu nói: “Đương nhiên nhớ, cô ấy và các cậu đến trấn Phù Dung cùng với nhau mà.”
“Giờ cô ấy ở đâu, có con chưa?”
“Tất nhiên là có rồi, đứa bé xinh lắm, tóc vàng xoăn tít, trông cứ như búp bê Tây vậy, nó là bảo bối của Thượng Đế hội chúng tôi đấy. Cậu có thể đến đại bản doanh của Giáo hội tìm Lý Tiểu Văn, thông thường cô ấy đều ở đó hướng dẫn các cô gái thêu thùa may vá…”
Càng nghe, An Long Nhi càng thấy lạnh toát trong lòng, lại gặng tiếp: “Đại bản doanh cách chỗ này bao xa?”
Lâm Phượng Tường lấy làm lạ, nhìn cậu nói: “Chắc khoảng năm chục dặm thôi, cậu vội đi lắm à?”
“ừm, phải rồi, Lâm đại ca, chỗ ấy tên là gì?”
“Thôn Kim Điền.”
An Long Nhi kinh ngạc thốt lên: “Kim Điền? Hỏng bét, cô ấy chết chác rồi!” Dứt lời, cậu liền co giò chạy như bay về phòng.
Thì ra Bát tự của Lý Tiểu Văn kỵ nhất là hành kim và thổ, năm đó Lục Kiều Kiều từng cảnh cáo cô, không thể đi về phía Tây, vì phương Tây thuộc Kim trong ngũ hành, là tối kỵ với số mệnh của cô; ngoài ra, còn phải ở chỗ có dòng sông hay suối nhỏ, vì Thủy long phù hộ thân của cô cần có nguồn nước để tiếp ứng. An Long Nhi không hề biết chuyện Lục Kiều Kiều từng giúp Lý Tiểu Văn đổi số mệnh, cũng không biết Lục Kiều Kiều đã cảnh cáo và cho cô bùa hộ thân; cậu chỉ biết nơi này là Quảng Tây, thuộc Kim; năm nay là năm Dậu, thuộc Kim; tháng này là tháng Bảy, cũng thuộc Kim; đến cả tên của thôn Kim Điền cũng là tượng Kim Thổ tương sinh, thời gian và địa điểm vừa khéo tổ hợp thành một tử cục, giống như trong Mệnh quyết đã nói: Hà tri kỳ nhân hung, /9; than triển chuyển công, Lý Tiểu Văn sao có thể thoát chết được?
An Long Nhi vào phòng nhanh chóng sửa soạn hành trang xong xuôi, chuẩn bị lên đường, Cố Tư Văn nghe tiếng cậu cuống cuồng bới đồ bèn thức giấc, mơ mơ màng màng hỏi: “Ngươi làm gì đấy… trời sáng rồi hả?”
Cố Tư Văn là người sẵn sàng đưa thân ra hứng đao cho bạn, sẽ không để An Long Nhi một mình mạo hiểm, cũng không bao giờ bỏ lại Sái Nguyệt; A Đồ cách cách bỏ nhà ra đi lại càng không quên mình đi cả chặng đường dài đến đây là vì điều gì. cả bọn cố gượng chống lại cảm giác mệt mỏi, dẫn theo con Đại Hoa Bối, len lén dát ngựa rời khỏi trấn Tư Vượng, theo chỉ dẫn của Diêm vương điếu hồn châm, dưới bầu trời sao, chạy thẳng về phía trấn Kim Điền cách đó năm chục dặm về phía Tây Nam.
Dọc đường, An Long Nhi nói ván tắt cho cả bọn biết mục đích của chuyến đi này, việc họ cần làm rất đơn giản, chỉ là tìm một thiếu nữ hai mươi tuổi tên là Lý Tiểu Văn cùng đứa con gái lên hai của cô, sau khi đón được họ thì lập tức quay về Quảng Đông.
Chạy chừng nửa canh giờ, phía trước có một thớt ngựa xông thẳng tới, vì trời quá tối, thớt ngựa kia suýt chút nữa thì đâm sầm vào họ, người trên lưng ngựa phải gắng hết sức kéo đầu ngựa sang bên mới chạy sượt qua trong gang tấc.
Sái Nguyệt học xong dùng luôn, lập tức dùng Lục nhâm thời khóa bấm đốt ngón tay tính ra một quẻ, cô nói với An Long Nhi: “Long ca, ta tính ra quẻ Không Vong đại hung, chúng ta đi chuyến này nguy hiểm lắm đó, nếu chậm lại chừng một canh giờ thì sẽ an toàn hơn nhiều…”
Cố Tư Văn lại nói: “Chẳng biết ngươi bói có chuẩn hay không nữa, để Long thiếu gia tính lại rồi đối chiếu một chút đi, không khéo lại tính ra quẻ đại cát cũng nên.”
“Không có đại cát, chỉ có thể là đại hung thôi, càng nguy hiểm lại càng phải đi.” Những lời này của An Long Nhi khiến cả bọn đều cảm thấy áp lực rất lớn đè nặng trong lòng, cậu lại nói tiếp: “Quẻ chỉ có thể tính một lần, vì vậy ta tin vào quẻ của Tiểu Nguyệt; vả lại, ta nhất định phải tìm được người này đưa đi, dù là quẻ đại hung, ta cũng phải chuẩn bị đối mặt. Lát nữa nếu có nguy hiểm, Văn thiếu gia ngươi hãy bảo vệ Tiểu Nguyệt và cách cách cho tốt, đợi ta đi đón Lý Tiểu Văn…”
Cố Tư Văn nói: “Lúc nãy khi ăn cơm Lâm Phượng Tường cũng từng nói, giờ ở đây khắp nơi đều là giặc cướp và đoàn luyện, nếu lại có mấy trăm người xông ra cướp bóc, chưa chắc chúng ta đã chạy thoát được đâu, cứ gắng hết sức mà làm thôi.”
Bọn họ thúc ngựa chạy như bay thêm một canh giờ nữa, từ đằng xa đã thấy phía Tây Nam có ánh lửa rợp trời, An Long Nhi nói: “Nâng cao tinh thần, chuẩn bị liều mạng, Văn thiếu gia, nếu ngươi thấy có gì không ổn thì lập tức dẫn mọi người về Quảng Châu, đừng lo cho ta…” Dứt lời, cậu vung roi quất ngựa, rạp mình xuống yên, xông thẳng về phía ánh lửa.
Ngựa phóng tới gần, An Long Nhi nhìn thấy một thôn trang đang cháy hừng hực đến quá nửa, trên khoảnh đất ngoài thôn có mấy cái xác nằm rải rác, bên cạnh một vài thi thể còn có cả binh khí như đao lớn, thuẫn to, trước mắt họ rõ ràng là một chiến trường. Cậu lấy chiếc Diêm vương điếu hồn châm chỉ về phía Lý Tiểu Văn ra, đầu kim đã không còn chỉ về hướng Tây Nam nữa, mà chỉ hướng chính Tây. Hướng này chính là đường vào thôn, An Long Nhi biết Lý Tiểu Văn ở ngay trong thôn. Cậu giục ngựa nhanh chóng xông vào trong, mấy người bọn Cố Tư Văn cũng bám sát theo sau.
Sau khi vào thôn, trước mặt bọn họ không phải là một thôn trang bình thường, mà là một doanh trại quân đội được tạo thành từ các nhà dân. cửa lớn của doanh trại mở rộng, nhưng đang bốc cháy bừng bừng, đằng trước bị lửa lớn ngăn cách, bọn An Long Nhi không thể xông vào, người bên trong cũng không thể xông ra, bọn họ chỉ trông thấy bên trong doanh trại cũng đang cháy lớn.
Chạy men theo doanh trại, họ trông thấy vòng ngoài cùng là một hào sâu, bên dưới cắm đầy chông tre, mấy người họ từng nếm mùi thứ bẫy chông này lúc gặp phải sơn tặc hôm trước; đằng sau hào sâu chông tre là một bức tường gỗ, vốn dĩ từ bên ngoài không thể quan sát thấy tình hình bên trong bức tường, nhưng đoạn tường này đã bị người ta phá vỡ một mảng, bên dưới mảng tường vỡ có trải một bè tre làm cầu bác qua hào chông, dưới hào và hai bên cầu tre chất đống xác chết ngổn ngang, có thể nhận thấy, ở chỗ tường hổng này, hai bên tấn công và phòng thủ đều thương vong vô cùng nặng nề.
Bên dưới tường gỗ lại có một chiếc cầu tre dài, gác lên một nóc nhà ở phía xa, tạo thành một con dốc cao vừa dài vừa hẹp; thì ra phía sau bức tường gỗ này lại là một con hào sâu rất rộng; phía sau hào sâu mới là các phòng ốc đóng vai trò công sự phòng thủ ngoại vi của doanh trại. Chiếc cầu tre dài hẹp này có lẽ chính là lỗ hổng chủ yếu để công phá doanh trại. Không thể thúc ngựa chạy qua cây cầu do năm sáu thanh tre gộc ghép lại để xông lên nóc nhà được, có điều như vậy thì trong doanh trại cũng sẽ không xuất hiện quá nhiều quân mã, đối với việc tác chiến cũng không phải là chuyện xấu.
An Long Nhi không có thời gian nghĩ ngợi nhiều, chỉ kịp hét lên một tiếng: “Các người dắt ngựa theo!” đoạn tung mình nhảy lên không trung lao bổ về phía chỗ tường hổng. Chân cậu đạp xuống cầu tre một cái, mượn sức bật nhảy vọt lên cao, phi thân tới nóc nhà.
Không lên nóc nhà thì không nhìn rõ tình hình trong doanh trại, nhưng vừa lên đến nơi, mới đứng vững chân, bên dưới đã có người quát: “Khẩu lệnh!” Bên dưới căn nhà có mười mấy người ăn mặc theo lối dân đoàn có thể là lính canh được lưu lại địa điểm then chốt này sau khi công phá thành công để chuyển công làm thủ. Đương nhiên, An Long Nhi không thể nghĩ ra khẩu lệnh là gì, lập tức nhận lấy một loạt tên chiu chiu bắn lên, cậu vội lăn người tránh né, thụp người ngồi trên đoạn cầu tre dốc nghiêng, nhanh nhẹn rút thanh đao Vô Minh sau lưng, rồi lại lấy Diêm vương điếu hồn châm ra xem, thấy đầu mũi kim chỉ về phía giữa doanh trại.
Cậu đang chuẩn bị rạp người trên nóc nhà lén lấn vào doanh trại, thì Cố Tư Văn ở sau lưng đã hét lớn: “Ngươi đừng cậy anh hùng nữa, những chuyện thế này thiếu ta làm sao được! Tiểu Nguyệt ngươi trông chừng con thỏ con, đừng đi đâu…” Cố Tư Văn vừa dứt lời đã xách trường thương lăn xuống ngựa, nhặt một chiếc thuẫn dưới đất đoạn nhảy lên cầu tre.
A Đồ cách cách cũng nhảy xuống ngựa gần như cùng lúc với cậu ta, kêu toáng lên: “Các ngươi có biết đánh trận hay không vậy, chỉ dùng thuẫn tròn làm sao đối phó được với cung tên? Chỉ có cung tên mới đối phó được cung tên thôi, Tiểu Nguyệt, ngươi trông ngựa, ta đến đây!”
An Long Nhi và Cố Tư Văn vừa ngoảnh đầu lại, liền trông thấy A Đồ cách cách rút ra ba mũi tên, “soạt soạt” bắn liền hai mũi về phía nóc nhà. Thì ra đám lính canh bên dưới trông thấy có người ngoài tấn công vào chỗ hổng trên tường bao, đã tập trung cả lên nóc nhà chuẩn bị phòng ngự. Bọn chúng vừa leo lên đã bị bán chết hai người, những tên khác lập tức thụp xuống né tránh. Đáng tiếc cho chúng, trong doanh trại ánh lửa rợp trời, vị trí của bọn An Long Nhi lại được nóc nhà và tường gỗ che chắn tạo thành một góc tối, từ chỗ An Long Nhi nhìn lên, vừa khéo trông thấy trên nóc nhà lộ ra một dãy đầu trọc.
Tay trái An Long Nhi nắm lấy đầu mũi thương của Cố Tư Văn từ phía sau chìa tới, tránh để nó phản xạ ánh sáng làm hỏng chuyện, tay phải cậu tra đao vào vỏ, rồi lập tức bắn đồng tiền xu có gắn dây lên phía nóc nhà. Đồng tiền lặng lẽ đánh trúng một cái đầu, tức thì, một tiếng kêu thảm thiết vang lên rồi tắt lịm, một tên lính canh ngã xuống; hai tên lính bên cạnh đang ngó ngang ngó dọc chưa biết chuyện gì xảy ra, chợt nghe “cạch cạch cạch” mấy tiếng liên tiếp, lại có thêm ba tên bị đồng tiền bắn trúng, ngã lăn xuống như thể trúng tà. Đám còn lại thấy tình huống kỳ dị như vậy, liền kêu toáng lên: “Có yêu pháp, mau chạy đi!” rồi hoảng hốt lăn xuống đất.
Cố Tư Văn ở phía sau An Long Nhi nói: “Ngươi chơi cái trò phi tiêu gắn dây đã đến trình này rồi cơ à, đúng là kẻ sĩ không gặp ba ngày đã phải nhìn bằng con mắt khác…”
An Long Nhi nhìn ánh lửa phía trước, thu hồi đồng xu buộc sợi dây đỏ lại, nói: “Kỳ thực, ta đã luyện tập suốt ba năm đấy.”
Cố Tư Văn giơ cái thuẫn bằng mây lên vỗ vào mông An Long Nhi một cái, nói: “Phì, có cần phải nghiêm túc như vậy không, cầm lấy đi!”
An Long Nhi kêu lên một tiếng “ái ôi” rồi đón lấy chiếc thuẫn mây Cố Tư Văn đưa cho, rút đao cầm tay, một mình khom người xông lên nóc nhà trước tiên, Cố Tư Văn và A Đồ cách cách bám sát theo sau; Sái Nguyệt tay kéo dây cương năm con ngựa, dù trong lòng có muốn cùng xông vào doanh trại với chúng bạn cũng không dứt ra được, cô chăm chú nhìn ba người trên mái nhà, nhưng không đợi được An Long Nhi quay đầu nhìn mình một cái, đành vội vã dẫn lũ ngựa và con Đại Hoa Bối nấp vào khu rừng phía ngoài doanh trại.
An Long Nhi vừa lên nóc nhà đã nhận lấy một loạt tên bắn từ nhiều hướng, có điều lần này có thuẫn mây ngăn cản, đối phương có bắn nhiều tên hơn nữa cũng không thành vẩn đề. Cố Tư Văn nằm rạp trên mái nhà, A Đồ cách cách ngồi xổm sau lưng An Long Nhi, quan sát vị trí của các tay cung, cô nàng đợi kẻ địch bắn hết một lượt tên, đang rút tên lắp lên dây, liền đứng vọt lên từ phía sau chiếc thuẫn, cầm một nắm tên bán xuống, tựa như có năm sáu tay cung cùng lúc buông dây vậy, bên dưới tức thì có mấy người trúng tên ngã nhào.
Cố Tư Văn lớn tiếng khen hay, sau đó hỏi: “Chiêu này gọi là gì vậy?”
A Đồ cách cách ngồi xổm trước mặt Cố Tư Văn đáp: “Đây chính là Phi hoàng tiễn bắn sáu mũi tên cùng lúc, trong doanh trại của ta còn có thần tiễn thủ có thể bắn một lúc chín mũi tên cơ, lợi hại không!” A Đồ cách cách nói xong, lại rút ra thêm năm mũi tên nữa, truy kích đám cung thủ còn lại.
Sau mấy hiệp đối chiến bằng cung tên, các cung thủ của phe địch đã bị tiêu diệt sạch, An Long Nhi nói: “Vào doanh trại thôi, xông về mặt phía Tây nhé.”
Cố Tư Văn bò dậy nói: “Ngươi nói với ta chuyện này cũng vô dụng, ta không phân biệt được Đông Tây Nam Bắc gì đâu, ngươi cứ xông lên đi, ta theo sau.” Dứt lời, ba người nhảy vào trong, mở đường xông về phía Tây.
Nhìn các cờ hiệu treo trong doanh trại, họ có thể khẳng định đây là đại bản doanh Kim Điền của Thượng Đế hội; qua Hồng Tuyên Kiều, họ cũng biết được người nào đầu chít khăn đỏ là giáo chúng của Thượng Đế hội, nhưng lúc này, những người bị chết bị thương nằm dưới đất đa số đều chít khăn đỏ, hầu hết toàn là người già phụ nữ, còn đám thanh niên trai tráng chít khăn đỏ thì đang tản ra hỗn chiến với một nhánh quân khác trong doanh trại, mặc dù không biết đối phương là ai, nhưng lần tập kích này rõ ràng rất thành công.
Bọn An Long Nhi không chít khăn đỏ trên đầu, xung phong trong doanh trại không hề thu hút sự chú ý của đối phương, nhưng lại bị các giáo chúng của Thượng Đế hội ngăn cản, có đến mười mấy binh sĩ Thượng Đế hội tay vung đại đao xông về phía An Long Nhi.
A Đồ cách cách mặc kệ ai với ai, chỉ cần không quen biết thì cô nàng đều nhất loại coi là kẻ địch, chỉ nghe cô nàng hét lớn: “A Văn, lùi lại phía sau An Long Nhi, chĩa trường thương ra đâm người!” Dứt lời, bản thân đã rút một mũi tên bắn thẳng về phía binh sĩ chít khăn đỏ trước mặt, An Long Nhi đang định hỏi xem Lý Tiểu Văn ở đâu thì đám người phía trước đã có vài mạng trúng tên ngã rạp xuống. Cậu vừa kêu lên: “Đừng bắn!” những binh sĩ chưa ngã xuống kia đã xông tới trước mặt, vung đao chém bừa xuống, An Long Nhi nhanh nhẹn đón đỡ một cách chuẩn xác, chiếc thuẫn mây trong tay cậu đã tạo thành một mảng tường đồng vách sắt ngăn binh khí lại.
Sau một loạt tiếng đao chém loạn xạ, An Long Nhi thò đầu ra nhìn, thấy đám binh sĩ trước mặt không ngờ đã chết hết cả. Thì ra Cố Tư Văn và A Đồ cách cách nãy giờ vẫn ở sau lưng cậu rình sẵn, cậu chắn bên trái, Cố Tư Văn liền đâm sang bên phải, cậu đỡ phía trên, Cố Tư Văn liền đâm xuống phía dưới, tóm lại là mâu và thuẫn phối hợp như áo trời không vết rách, cộng thêm A Đồ cách cách tranh thủ khoảng trống bán tỉa, ba người đã nhanh chóng giải quyết cả một phân đội binh sĩ. Cố Tư Văn đâm ra thương nào đắc thủ thương nấy, cũng tự thấy mình tiến bộ chưa từng thấy, bèn kích động hỏi: “Thỏ con, còn chiêu này gọi là gì vậy, lợi hại quá đi mất!”
A Đồ cách cách rõ ràng cũng hết sức kích động, cô nàng đỏ mặt, mồ hôi đầm đìa, lớn tiếng đáp: “Đây chỉ là một cái Tiểu Tam tài trận thôi, nếu cho ta năm trăm người, ta bày trận lớn cho ngươi xem.”
An Long Nhi tức đến bủn rủn cả người nói: “Lầm người rồi! Đầu đội khăn đỏ là người của Thượng Đế hội, không thể giết được, ta còn đang định hỏi chuyện bọn họ đây này!”
“Hả? Ta quên mất!” Cố Tư Văn nói.
A Đồ cách cách cũng nói: “Thế hả? Vừa nãy ngươi có nói gì với ta đâu.”
Cố Tư Văn giơ tay đập lên đầu cô nàng một cái: “Hồng Tuyên Kiều cũng chít khăn đỏ mà, đầu ngươi bị cửa kẹp phải đấy hả?”
“Vừa nãy bọn họ muốn giết chúng ta mà!” A Đồ cách cách vẫn cố sức biện bạch.
An Long Nhi kêu lớn: “Lại đến nữa kìa, đừng cãi nhau nữa!”
Lần này người xông tới còn nhiều hơn, hơn ba chục tên từ đằng xa đã hét váng: “Khẩu lệnh! Nói khẩu lệnh!”
A Đồ cách cách rút tên ra nói: “Đám người này không chít khăn đỏ, giết sạch bọn chúng cũng không ai mắng ta nữa chứ…”
Cố Tư Văn nấp phía sau chiếc thuẫn của An Long Nhi, nói: “Bắn tên đi, còn nói nữa…”
A Đồ cách cách bắn tên bách phát bách trúng, đến khi đám lính kia xông tới trước mặt An Long Nhi, thì chỉ còn hơn hai chục tên. Lần này kẻ địch trước mặt không phải là binh sĩ của Thượng Đế hội, An Long Nhi cầm thuẫn giơ ra trước, chủ động xung kích vung đao trảm sát, chỉ cần tên nào xuất hiện trước mặt cậu, thảy đều mất mạng chỉ trong một đao. Cố Tư Văn và A Đồ cách cách chia nhau hộ vệ hai bên cánh cho An Long Nhi, những tên lính dõng bị đà lao của An Long Nhi hất sang hai mé, còn đương loạng choạng, liền nhận lấy một đòn ám sát vô tình, hơn hai chục tên lính chỉ trong chớp mắt đã bị tiêu diệt sach sẽ.
Bốn góc và chính giữa doanh trại đều có lầu quan sát, vì vùng ngoại vi bị công phá trước nhất, nên trên lầu quan sát ở bốn góc đã không còn binh sĩ canh gác, nhưng trên chiếc lầu ở phía sau doanh trại, một tướng lĩnh của Thượng Đế hội vẫn đang nấp sau tấm màn chắn tên khua ngọn đèn ngũ sác, cố gắng điều động binh sĩ trong doanh trại phản kích. Lúc này, y để ý thấy trong doanh trại đột nhiên xuất hiện một trận thế nhỏ hình tam giác có sức chiến đấu đáng sợ, nhưng lại đồng thời đối đầu với binh lính của cả hai phe. Y chau mày quan sát thêm một lúc, rồi hét xuống phía dưới lầu: “Tiêu Hồ Quý, dẫn mười người đi về phía Đông một trăm bước, tiếp cận nhóm ba người kia, không được chủ động tấn công, hỏi rõ xem bọn họ đến đây làm gì đã.”
Dưới lầu có hơn trăm tinh binh phòng thủ, dùng rào cản ngựa và thuẫn dài bố trí thành trận thế hình vuông, ngăn cản các đợt công kích liên tiếp của quân địch. Trên tòa lầu quan sát cao ba tầng, tầng giữa và tầng dưới chật ních cung thủ, hễ có tên địch nào xông vào phạm vi ba chục bước xung quanh, liền bị bán chết không tha.
Tiêu Triều Quý là một thanh niên cao lớn khỏe mạnh tầm hơn hai mươi tuổi, đang đốc thúc quân sĩ chiến đấu ở tầng giữa tòa lầu, nghe thấy hiệu lệnh liền đáp một tiếng, tay cầm thuẫn mây phi thân nhảy xuống, chọn ra hai tiểu đội năm người trong đám tinh binh bên dưới chạy về phía bọn An Long Nhi.
Đại bản doanh Kim Điền nằm phía sau trấn Kim Điền, mặt doanh trại hướng về phía Đông, xây lưng về phía Tây, Tiểu Tam tài trận do ba người bọn An Long Nhi tổ hợp thành tựa như một cỗ chiến xa đang chạy hết tốc lực tiến về hậu doanh ở phía Tây. Binh sĩ chít khăn đỏ càng lúc càng ít, An Long Nhi cũng không chủ động tiếp chiến với bọn lính dõng, ngược lại còn hy vọng dọc đường chặn lại được một giáo đồ của Thượng Đế hội để hỏi thăm tung tích của Lý Tiểu Văn; khốn nỗi trên chiến trường, ai nấy đều lo cho an nguy của mình trước, trông thấy bọn họ là ra sức trốn tránh, có tâm trạng đâu mà đứng lại trò chuyện với An Long Nhi. Xung quanh tên bắn như mưa, hễ dừng lại có thể trúng tên ngay tắp lự, bọn họ chỉ còn cách không ngừng xông lên phía trước.
An Long Nhi thấy một nhóm binh sĩ đầu chít khăn đỏ đang lao thẳng tới chỗ mình thì mừng rỡ ra mặt, vội kêu lớn từ đằng xa: “Chúng tôi là bạn của Hồng Tuyên Kiều, đừng đánh nữa!”
Song Tiêu Triều Quý lại xuống tấn, rút đao phòng hờ sau lưng, giơ thuẫn chắn phía trước người, hét lớn: “Khấu lệnh!”
An Long Nhi vì không muốn xảy ra va chạm với Thượng Đế hội, tranh thủ cơ hội có thể nói chuyện được với nhau này, lập tức giơ thuẫn lên che chắn, ngồi thụp xuống. Có điều, cậu vẫn chưa biết trả lời đối phương thế nào, bực bội bảo Cố Tư Văn: “Chậc, sao lại khấu lệnh gì nữa? Ta làm sao biết được khẩu lệnh chứ.”
Cố Tư Văn giơ tay ấn đầu An Long Nhi xuống: “Ngươi câm cái mõm lại, để đấy cho ta…” Cậu ta cao giọng hét lên với Tiêu Triều Quý: “Ngày sau nếu có đoàn viên, anh em lại hát khúc ca thái bình!”
Giữa chiến trận âm thanh ồn ào náo động, Tiêu Triều Quý không nghe rõ cả câu dài như vậy, anh ta lại lớn tiếng hỏi: “Hát cái gì?”
Cố Tư Văn quỳ một chân phía sau thuẫn của An Long Nhi chửi bậy một câu, giơ tay phải lên chìa ra ba ngón, khản giọng gào lên như xé cổ: “Hát khúc ca thái bình!”
Tiêu Triều Quý đã nghe thấy câu này, lại nhìn thấy ám hiệu bằng tay tiêu chuẩn của Hồng môn, biết là anh em Hồng môn, lập tức nói: “Đừng tiến lên nữa, bằng không trên lầu sẽ bắn tên, các vị dừng lại đó, để ta tới!” Dứt lời, y liền dẫn binh lính lom khom tiến về phía An Long Nhi.
An Long Nhi ngoảnh mặt lại nhìn Cố Tư Văn: “Ngươi cũng là người của Hồng môn à?”
“Cứ coi là thế đi.” Cố Tư Văn trả lời quấy quá. Thì ra phái Giang Tướng mà Cố Tư Văn theo học vốn là một phân nhánh của Hồng môn, mặc dù sự tồn tại của bọn họ không trực tiếp vì sự nghiệp phản Thanh, nhưng lại có quan hệ sâu xa với Hồng môn, thường hay phối hợp với các hành động của Hồng môn, rất nhiều người trong phái còn là quân sư trong Hồng môn nữa; trận thế bày bằng chén trà và bài thơ Phượng Hoàng trong phái đều tương thông với Hồng môn. Hồng binh ở Quảng Đông dùng khăn chít đầu và cờ màu đỏ làm dấu hiệu, Cố Tư Văn thấy Thượng Đế hội cũng lấy khăn đỏ làm đặc điểm nhận dạng, thầm đoán rằng ngâm xướng thơ Phượng Hoàng để nhận sơn đầu không đúng được mười thì cũng phải được tám chín, nên mới đánh bạo mà đọc ra bài thơ phản Thanh ấy.
Thời bấy giờ, Thượng Đế hội ở Quảng Tây và Hồng môn thường hay có qua lại, trong hội cũng có huynh đệ Hồng môn đến gia nhập, vì vậy các vị thủ lĩnh cũng biết chút ít về quy củ trong Hồng môn. Thêm vào đó, Cố Tư Văn đọc câu thơ “cùng hát khúc ca thái bình” vừa khéo lại họp với khát vọng xây dựng Thái Bình thiên triều của Thượng Đế hội, nên Tiêu Triều Quý lập tức buông lỏng cảnh giác.
Song A Đồ cách cách vừa nghe Cố Tư Văn nói những lời ấy, liền tỏ vẻ rất phản cảm: “Ngươi cũng là phản tặc à?”
Cố Tư Văn bực dọc gắt lên: “Không chỉ ta thôi đâu, toàn bộ người ở Quảng Đông đều là phản tặc cả, không thuộc một hai câu trong bài Phượng Hoàng thì ai dám đi lại trên giang hồ chứ…” Hai người đang mồm loa mép giải, chợt thấy Tiêu Triều Quý đi tới trước mặt bọn họ, nói: “Đi theo ta, đừng tách đoàn ra đấy.” Hai tiểu đội binh lính kẹp ba người bọn An Long Nhi vào giữa, nhanh chóng sải bước tiến về phía lầu quan sát.
An Long Nhi lập tức hỏi Tiêu Triều Quý: “Vị đại ca này, chúng tôi muốn tìm một phụ nữ tên là Lý Tiểu Văn, cô ấy dẫn theo một đứa bé gái, cô bé gái trông như con Tây…”
Tiêu Triều Quý hỏi: “Các cậu là thế nào với cô ấy?”
Cố Tư Văn tranh trả lời trước: “Chúng tôi là họ hàng của cô ấy.”
Tiêu Triều Quý đoán An Long Nhi xông vào là để cứu người ra khỏi doanh trại, lập tức nói: “Vậy thì tốt quá, các cô các cậu ra chỗ dưới lầu quan sát giúp chúng ta bảo vệ trung quân, ta sẽ kêu người đi tìm cô ấy…”
Nói vậy nghe có vẻ chân thành, kỳ thực trong đầu Tiêu Triều Quý lại có một chủ ý khác: giờ trong doanh trại đang dùng phép đóng cửa đánh chó, bao vây tiêu diệt bọn lính dõng đến tập kích, chỉ cần bên trong có thể cầm cự thêm một khắc, viện binh ở các nơi sẽ đánh tới. Nhưng nếu lúc này có một người được đưa đi, ắt sẽ làm nhiễu loạn tinh thần của quân sĩ trong doanh trại, anh ta không thể cho bất cứ ai rời khỏi đây được; thêm vào đó, ba người này có sức chiến đấu mạnh như vậy, lại không thể khẳng định được là địch hay là bạn, tận lực giữ họ lại, lợi dụng thêm một lúc nữa đương nhiên là tốt hơn, giả như bọn chúng có muốn phá hoại thì cũng có thể tức khắc dùng tinh binh khống chế ngay trong trận.
An Long Nhi là người thật thà, nhưng không ngốc nghếch, ý tứ trong lời nói của họ Tiêu cậu vừa nghe qua đã hiểu ngay, cũng biết rằng không thể trông đợi ở người này được, liền quay lại phía sau nói: “Văn thiếu gia, cách cách, theo sát ta!” Nói đoạn, cậu đã thu đao về vỏ, giao chiếc thuẫn cho Cố Tư Văn. Sau đó, nhân lúc Tiêu Triều Quý không phòng bị, kéo tay trái của anh ta lên, đột nhiên lăn ra phía sau lưng, dùng lưng mình chống vào lưng Tiêu Triều Quý, trong quá trình liên tục xoay tròn, tay kia của cậu đã chọc qua nách bên phải đối phương; khi hai chân An Long Nhi dừng lại trên mặt đất, Tiêu Triều Quý đã bị cậu cõng lên, hai tay bị khóa ngược, ngực hướng lên trời, tạo thành một tư thế kỳ quái như thể bị trói vào thập giá, không sao nhúc nhích được. Lúc này, anh ta đã trở thành một tấm áo choàng chán tên bằng da thịt khoác trên lưng An Long Nhi.
Cố Tư Văn vừa thấy tình huống đột biến, tức khắc vung thương lên quét văng đám binh sĩ bên cạnh, A Đồ cách cách cũng rút đao bên hông ngăn Tiêu Triều Quý toan lộn người hóa giải chiêu Đại cầm nã thủ của An Long Nhi, ba người uy hiếp Tiêu Triều Quý, chạy một mạch không ngừng nghỉ về phía Tây.
Tướng lĩnh trên lầu quan sát là nhân vật đứng hàng thứ ba của Thượng Đế hội, Dương Tú Thanh, đã nhìn rõ mồn một toàn bộ quá trình An Long Nhi bắt giữ uy hiếp Tiêu Triều Quý, đồng thời cũng biết rõ rằng người bắt được Tiêu Triều Quý mà không rời khỏi doanh trại, ngược lại còn xông về phía hậu doanh không thể nào là đám lính dõng đoàn luyện bản địa đến đây để báo thù rửa hận. Những người này chác chán có mục đích mà y không biết, nhưng cũng không thể là kẻ địch của Thượng Đế hội; Tiêu Triều Quý chưa chác đã nguy hiểm đến tính mạng, vì vậy, y liền lớn tiếng hạ lệnh với quân sĩ bên dưới: “Truyền lệnh ta, không được bắn tên, để bọn họ đi!” Nói xong, y nhìn bóng lưng xa dần của An Long Nhi, lẩm bấm tự nói một mình: “Ba đứa trẻ con không ngờ lại có thể bày binh bố trận lấy một địch mười… đây mới là đánh trận chứ.”
An Long Nhi cõng ngược Tiêu Triều Quý nhanh chóng rời khỏi phạm vi bắn tên của quân sĩ xung quanh lầu quan sát, dốc sức chạy một mạch tới nơi dành cho người già phụ nữ trẻ con ở hậu doanh. Nhưng nơi này cũng không hề yên ổn, xung quanh đều có lính dõng của đoàn luyện không ngừng đuổi giết những giáo chúng Thượng Đế hội tay không tấc sắt.
An Long Nhi nói với Tiêu Triều Quý: “Vị đại ca này, tôi thả anh xuống, anh phải giúp chúng tôi tìm Lý Tiểu Văn, có được không?”
Tiêu Triều Quý cũng là một trong các thủ lĩnh của Thượng Đế hội, lại bị An Long Nhi bắt giữ uy hiếp như vậy, quả là mất hết thể diện, chỉ mong nhanh chóng được thả xuống đừng để quá nhiều người trông thấy, anh ta lập tức lớn tiếng nhận lời: “Được, cùng nhau giết địch!” An Long Nhi vừa buông tay, Tiêu Triều Quý lập tức lật người lăn xuống, nói: “Phụ nữ ở trong khu trại riêng, đi theo ta…” Nói xong, liền vung đao xông pha về phía cổng một doanh trại nhỏ nằm độc lập.
Bên ngoài cánh cổng có hơn trăm người đang hỗn chiến, một bên là quân đoàn luyện đánh lén, bên kia lại toàn phụ nữ, suốt dọc đường xông pha chém giết, cảnh tượng nơi này là khiến người ta kinh hồn táng đởm nhất: bọn lính dõng đoàn luyện điên cuồng chém giết với thế công áp đảo, các nữ binh của Thượng Đế hội dùng giáo tre và đại đao, yếu ớt nhưng ngoan cường chống đỡ, trước mắt đám An Long Nhi toàn là đầu, thân thể và tứ chi phụ nữ nằm lăn lóc dưới đất, bên tai vang lên tiếng khóc gào của họ, trong ngọn lửa cháy hừng hực, máu đã nhuộm mặt đất thành một thửa ruộng nước màu đỏ rực.
Đối mặt với loại hỗn chiến kiểu này, tái tổ hợp thành Tiểu Tam tài trận để xung kích cũng không có ý nghĩa gì, bốn người xếp thành hàng ngang, An Long Nhi mắt vằn tia máu, hàm răng nghiến chặt, rút Vô Minh đao ra cầm chắc bằng cả hai tay, rít qua kẽ răng: “Không tha tên nào!” Rồi cùng với một tiếng hú dài, bốn người xông thẳng vào giữa trận chiến, cứ thấy đàn ông là giết không tha.
Mấy chục tên lính dõng được phân công tấn công trại của đám đàn bà trẻ con vốn tưởng là ngon ăn, phụ nữ thể lực yếu ớt, võ công kém cỏi, dễ đối phó nhất, bọn chúng vừa không nguy hiểm đến tính mạng lại còn có thể lấy việc vũ nhục ngược đãi đối phương làm vui, nào ngờ phía sau lại đột nhiên xông ra mấy tên tạp nham, quét sạch cả cổng doanh trại phụ nữ, thế công tựa như bài sơn đảo hải, người đi tới đâu là chỗ ấy không còn tên đàn ông nào đứng dậy được.
Xông vào bên trong trại, An Long Nhi còn chưa trông thấy Lý Tiểu Văn đâu thì đã bị nhuộm thành một người máu. Cậu vung đao đâm thủng cổ họng một tên lính dõng, lại thu đao về chém bay nửa cái đầu của một tên khác, trợn trừng hai mắt lên quát hỏi một nữ binh vừa được cứu ra: “Lý Tiểu Văn ở đâu! Mau nói, Lý Tiểu Văn ở đâu?”
Nữ binh kia cũng toàn thân nhuốm đầy máu tươi, vẻ mặt điên cuồng, hoàn toàn không thể nói ra tiếng người được nữa, chỉ khom người xuống, hai tay nắm chặt thanh đại đao đã bị chém thành răng cưa, chỉ vào An Long Nhi không ngừng rít lên.
An Long Nhi không đợi nữ binh hét xong đã vội tung mình nhảy bổ ra sau lưng cô ta; rốt cuộc cậu cũng đã trông thấy bóng dáng gầy guộc nhỏ bé của Lý Tiểu Văn, cô mặc bộ áo mỏng mùa hè, sau lưng đã bị đao chém rách, không biết trên người có bao nhiêu vết thương. Cô đầu tóc rũ rượi, toàn thân đầy máu bẩn, lao ra khỏi một căn nhà ở dãy sau; trong lòng cô quả nhiên đang ôm một đứa bé, đằng sau có hai tên lính dõng cầm đao cầm thương đuổi theo, một trong hai tên đang giơ thẳng trường thương đâm vào lưng Lý Tiểu Văn, ánh lửa hát bóng người đang chém giết lên tường nhà nhìn mà khiến người ta rúng động cả thần hồn, thanh trường thương rút ra, mang theo tiếng thét đau đớn cùng một vòi máu tươi.
Lý Tiểu Văn ôm đứa nhỏ ngã nhào về phía trước, lúc ở trên không trung, cô gắng hết sức nghiêng người để vai mình đập xuống nền đất, bảo vệ đứa bé trong lòng, mặc cho đầu đập vào băng ghế đá hóng mát cạnh nhà, sau đó mất đi tri giác, ủ rũ gục xuống, tên lính dõng cầm thương phía sau lại giơ thương lên gảy vào đứa bé đang nằm trong lòng cô…
An Long Nhi đang ở ngoài xa mười mấy trượng chỉ biết mở mắt trân trân nhìn thanh trường thương đâm vào thân thể Lý Tiểu Văn mà không kịp ứng cứu, gầm lên một tiếng, ném mạnh thanh đao Vô Minh trên tay về phía tên sát nhân. Vô Minh đao trong nháy mắt đã đâm xuyên lồng ngực tên lính, ghim hán vào tường doanh trại.
Tên lính dõng đang giơ thương phát hiện ra mình đột nhiên dính vào tường một cách kỳ lạ, không sao nhúc nhích nổi, ngoảnh đầu lại nhìn, chỉ thấy một con hắc long cuồng nộ đang há cái miệng to như chậu máu mọc đầy răng nhọn cuồn cuộn bổ nhào về phía mình.
Tiếng gầm của con hắc long làm chẩn động cả đại bản doanh Kim Điền, toàn bộ người còn sống trong khu trại dành cho phụ nữ đều bị tiếng gầm trầm đục ấy làm cho kinh hồn bạt vía. Tiêu Triều Quý vung đao hộ thân, lùi lại mấy bước, thất thanh kêu lên: “Rồng! Sao lại có rồng ở đây được?”
Hắc long đi qua, Cố Tư Văn và A Đồ cách cách thấy rõ rành rành An Long Nhi đột nhiên xuất hiện bên cạnh một cái xác bị găm trên tường, tay nám hai sợi dây đỏ, đầu dây kia quấn vào tên lính dõng cầm đao. cổ và cánh tay cầm đao của tên lính đều bị dây đỏ quấn lấy, hắn đang định lùi lại hòng thoát khỏi sợi dây thì An Long Nhi đã mím môi lại, thân hình đột nhiên lùi một bước, hai sợi dây đỏ lập tức giật trở về tay cậu như lưỡi rắn. Cùng lúc đó, trên cổ tên lính dõng kia phun ra một quầng sương máu, cánh tay cầm đao rơi xuống đất.
An Long Nhi thu hồi sợi dây đỏ gắn đồng tiền, sau đó lật tay rút thanh Vô Minh đao đang ghim trên tường ra, hai tay giơ đao quá đầu, thân thể nhẹ nhàng di chuyển hết sang trái lại sang phải tựa như một cái bóng không sao nhìn rõ, ánh đao màu đen lóe lên, cả hai người chết đang đứng một trước một sau đã bị chém xả ra làm hai mảnh, máu nhuộm đỏ cả mảng tường trắng, thi thể chàm chậm trượt xuống mặt đất.
Toàn bộ người trong khu trại dành cho phụ nữ đều nhìn thấy cảnh tượng này, đằng sau ánh lửa, An Long Nhi xuống tẩn mã bộ, hai tay giơ đao lên trời, hắt lên bức tường máu me tong tỏng một hình ảnh hoa lệ mà khủng khiếp, khiến ai nấy ngấn cả người. Cố Tư Văn và A Đồ cách cách cũng không ngoại lệ, há hốc mồm ra đứng yên tại chỗ. Trong những tình huống thế này, vẫn là đầu óc Cố Tư Văn nhanh nhạy hơn, cậu ta vừa định thần lại lập tức kéo A Đồ cách cách xông tới bên cạnh An Long Nhi, hai người dựa lưng vào An Long Nhi, đồng loạt quay mặt ra phía ngoài phòng thủ.
An Long Nhi xoay cổ tay quét thanh đao lướt qua trước mặt mình, nhẹ nhàng vẽ một đường vòng cung xuống phía dưới, máu trên lưỡi đao rơi xuống đất thành một vệt đỏ thắm. Cậu thu đao về vỏ, ngồi xuống bên cạnh Lý Tiểu Văn, một tay nhẹ nhàng bồng bé gái tóc vàng lên, tay kia gạt mớ tóc dính trên mặt Lý Tiểu Văn ra.
Cậu nhìn Lý Tiểu Văn nằm nghiêng dưới đất, thân thể cô rõ ràng còn nhỏ bé hơn cả trong ký ức của cậu, có lẽ vì buổi tối phải trông con, ban ngày lại phải lo liệu các sự vụ trong giáo hội, cô cũng gầy hơn Lý Tiểu Văn mà cậu nhớ. Nhìn từ góc nghiêng này, không ngờ lại rất giống Lục Kiều Kiều lúc nằm trên chõng tre nhắm mắt hút thuốc phiện, An Long Nhi cơ hồ có thể tưởng tượng ra cảm giác kinh ngạc pha lẫn mừng rỡ của Jack khi lần đầu tiên trông thấy Lý Tiểu Văn. sắc mặt cô đã từ trắng chuyển sang xanh, một làn gió lạnh thẩm vào đầu ngón tay An Long Nhi, đấy là hơi thở yếu ớt của Lý Tiểu Văn.
An Long Nhi chập hai ngón tay lại, đặt lên động mạch cổ của cô, mặc dù dòng máu chảy bên trong càng lúc càng chậm, càng lúc càng yếu ớt, nhưng ngón tay cậu vẫn cảm nhận được nhịp đập mong manh từ trong cơ thể cô truyền ra. Trong lòng An Long Nhi lóe lên một tia hy vọng, cậu lẩm bẩm nói: “Vẫn còn cứu được… vẫn còn cứu được…” đoạn giơ tay ra phía sau vỗ vỗ vào chân A Đồ cách cách, đưa bé gái đang khóc oa oa cho cô, sau đó rút trong túi đeo ở thắt lưng ra một tẩm giấy bùa, cán ngón giữa vẽ lên đó một lá bùa cầm máu.
Tay trái cậu đỡ Lý Tiểu Văn ngồi dậy, tay phải chập hai ngón tay vào kẹp lá bùa cầm máu rung lên nhè nhẹ, lá bùa giấy lập tức bắt lửa cháy thành tro, tàn tro màu xám trắng vừa bốc lên trong cơn gió đêm, tay phải của An Long Nhi đã xòe ra hút đống tro tàn ấy vào lòng bàn tay, đưa vào miệng Lý Tiểu Văn; lại nhân lúc máu trên ngón tay còn chưa cầm, cởi luôn khuy áo trên cổ Lý Tiểu Văn, nhanh nhẹn vẽ trước ngực cô một đạo Thủy Đức tinh quân phù, sau đó dùng bàn tay áp đạo bùa bằng máu ấy lên ngực cô, một luồng chính khí nội đan Thiên Sư đạo hùng hậu mà ôn hòa tràn vào cơ thể Lý Tiểu Văn. Thoáng sau, quả nhiên khóe môi cô đã mấp máy, khó nhọc mở mắt ra.
An Long Nhi nhẹ nhàng nâng đầu cô lên, ghé mặt sát lại nói: “Chị Tiểu Văn, tôi là Long Nhi, tôi đến cứu chị đây…” Lý Tiểu Văn mở to hai mắt, trong cặp mắt trong veo như nước ấy, tràn ngập sự nghi hoặc khó hiểu, đồng thời cũng ánh lên một tia an ủi, môi cô mấp máy muốn nói gì đó, nhưng lại không thốt ra lời. An Long Nhi lại bảo cô: “Chúng tôi đã cứu được đứa bé rồi, chị xem, ở kia kìa…” Cậu chỉ A Đồ cách cách đang bế đứa bé gái cho Lý Tiểu Văn xem: “Giờ tôi sẽ đưa chị rời khỏi đây, không có chuyện gì đâu…” Lý Tiểu Văn nghe tới đây, khóe miệng khe khẽ máy động, nở một nụ cười tin tưởng, sau đó hướng ánh mắt nhìn về phía căn nhà, khó nhọc nói: “Cái… gối… đen.” An Long Nhi nghe nói vội đặt Lý Tiểu Văn nằm ngay ngán dưới đất, nhanh chóng xông vào căn nhà cô vừa mới chạy khỏi, ôm ra một cái gối vải màu đen.
An Long Nhi quay trở lại bế Lý Tiểu Văn lên, dẫn cả bọn chạy về phía mé bên của doanh trại, tung chân đá bay đống củi đang bắt lửa, kéo từ góc tường ra một cái xe ba gác vẫn chưa bị ngọn lửa thiêu hủy, rồi đặt Lý Tiểu Văn nằm lên đó. A Đồ cách cách nhặt mấy tấm thuẫn dưới đất, nhảy lên xe, đặt đứa bé vào lòng Lý Tiểu Văn cho cô ôm lấy, rồi dùng thuẫn bài che chán toàn thân cho cô. An Long Nhi xoay người lại nhìn đồng bạn, trông thấy hai luồng ánh mắt đày vẻ kiên định.
Lời nói giờ đã không còn cần thiết nữa, tay trái cậu cầm thuẫn, tay phải rút đao, xông lên trước mở đường cho xe ba gác, lao về phía cổng doanh trại đang bốc lửa phừng phừng.
Tướng lĩnh chỉ huy trên vọng lâu là Dương Tú Thanh đột nhiên lại nghe thấy ở doanh trại phía sau vang lên một tiếng gầm lớn, cùng tiếng hét dữ dội của một người trẻ tuổi: “Kẻ nào chặn đường, chết!”
Sau đó, một thiếu niên tóc vàng xuất hiện giữa đám loạn quân, thanh đao màu đen trên tay mang theo yêu lực đoạt mạng, đao lướt tới đâu là người chết tới đó; một thiếu niên tóc đen thân hình cao lớn đẩy xe ba gác chạy như bay đằng sau, không tránh đao tên mà cứ phăm phăm lao tới; trên xe có một thiếu nữ xinh đẹp chừng mười lăm mười sáu tuổi đang quỳ một chân, tuy rằng chỉ có một người với một cây cung, nhưng những mũi tên cô phát ra lại tựa như một đàn rắn độc có thể lấy mạng người ta bất cứ lúc nào, khống chế sinh tử trong phạm vi mười trượng xung quanh; bọn họ chỉ chạy thẳng, xe chạy qua để lại một con đường máu phía sau.
Dương Tú Thanh nhìn cảnh tượng ấy, trong lòng không khỏi thở dài mà khen: đúng là mãnh long, dùng binh chỉ nên dùng loại binh thế này thôi! Y lại cẩn thận quan sát cỗ xe ba gác, ba người trẻ tuổi này liều mạng chỉ để cướp khỏi doanh trại của mình một cỗ xe ba gác thôi sao? Y thấy một phụ nữ toàn thân đầm đìa máu tươi đang co người nằm trên sàn xe, trong lòng ôm chặt một đứa nhỏ. Trong đầu Dương Tú Thanh nhanh chóng lọc qua một lượt các nhân vật nữ quan trọng của Thượng Đế hội, hình như không có ai giống như người này, y lấy làm khó hiểu chau mày thầm nhủ: liều mạng chỉ vì cứu một nữ nhân thôi sao? Nghĩ tới đây, y không kìm được thốt lên: “Hừ, vẫn là trẻ con…”
Sau chiêu Thập tự trảm uy lực cương mãnh của Vô Minh đao, mấy hàng xe ba gác đang bốc lửa hừng hực chán trước cổng lớn doanh trại để phong tỏa lối đi liền vỡ ra một chỗ khuyết, An Long Nhi dẫn theo đồng bạn xông ra khỏi bản doanh Kim Điền, Sái Nguyệt và Đại Hoa Bối sớm đã chờ sẵn bên ngoài, cả bọn lập tức lên ngựa phóng như bay về phía Đông.
Thoáng cái, họ đã tới bờ Tầm Giang, vàng trăng non vốn dĩ cũng không sáng tỏ nay đã chìm xuống sau rặng núi Tây, trên trời lộ ra một dải ngân hà mỗi lúc mỗi sáng, dịu dàng soi mình xuống dòng Tầm Giang lấp lánh ánh bạc.
An Long Nhi đưa Lý Tiểu Văn đến bờ sông Tầm Giang chảy về phía Đông, là để lợi dụng chân thủy của điều kiện địa lý, cùng với khí chân mộc của phương vị, tiến hành phá giải tử cục Âm kim tiêu mộc trong số mệnh của cô. Bọn họ dừng xe lại, An Long Nhi bế Lý Tiểu Văn lên, chầm chậm bước xuống dòng Tầm Giang lấp lánh dưới ánh sao. Nước ngấm vào thân thể, Lý Tiểu Văn vốn đã không còn chút sức lực nào bỗng giơ hai tay lên bám vào cổ An Long Nhi, gục đầu dựa vào vai cậu. An Long Nhi thì thầm nói bên tai Lý Tiểu Văn: “Chị Tiểu Văn, chị nhám mát lại, đừng nghĩ gì cả, tĩnh tâm nghe tôi niệm chú…”
Nhưng Lý Tiểu Văn lại mở mắt, trên gương mặt nở ra một nụ cười dịu dàng nhìn An Long Nhi, ánh mắt ấy khiến tâm thần cậu khẽ chấn động. Ba năm trước, cũng từng có một gương mặt hệt như thế này, cũng trong một đêm trăng thế này, dựa vào vai mình… cái ôm trong đêm trăng ba năm trước ấy, khiến cho từ đó trở đi, vầng trăng non lúc nào cũng trông thấy mình cô đơn dang rộng vòng tay trống trải…
Lý Tiểu Văn gắng sức áp mặt vào An Long Nhi, đôi mắt vừa đen vừa sáng mở rất lớn, chăm chú nhìn sâu vào mắt cậu. Hơi thở đứt quãng phả ra từ miệng cô nối thành một chuỗi âm thanh: “Jack thiếu gia…”
Nước mắt An Long Nhi trào ra, cậu biết những gì Lý Tiểu Văn nhìn thấy không còn thuộc về thế giới này nữa, đây sẽ là những lời cuối cùng của cô. An Long Nhi không sao tập trung tinh thần niệm chú được nữa, cậu lặng lẽ đứng trong làn nước, áp tai vào miệng Lý Tiểu Văn, chỉ sợ bỏ sót mất chữ nào.
“Hôm nay là Thất tịch… phải cầu Chức Nữ cho con gái khéo tay thêu thùa… Anh rốt cuộc…”
Lý Tiểu Văn không nói gì nữa, cô khẽ nhám mắt lại, mỉm cười dựa vào vai An Long Nhi. Toàn thân cô mềm nhũn ra, khiến An Long Nhi cảm thấy hai tay mình đột nhiên trĩu xuống nặng trịch, chỉ có hai cánh tay vẫn móc chặt vào nhau, vĩnh viễn ôm lấy bờ vai của Jack.
Sái Nguyệt mở chiếc gối vải màu đen của Lý Tiểu Văn ra, bên trong có một bộ quần áo cũ, bọc một cái yếm trẻ con mới may xong, chính giữa yếm thêu một đôi uyên ương bảy màu, còn có cả bảy tám con bướm và bông hoa dùng chỉ màu bện lại.
Thì ra, thời xưa vào ngày mùng bảy tháng Bảy hằng năm, các cô gái ngoài đi chơi hội đèn hoa, còn hay len lén tụ tập lại với nhau, bày hương án dưới trăng, dâng cúng lên hoa tươi cùng các thức quả, phong tục này gọi là cầu Chức Nữ. Đêm ấy, mỗi cô gái đều đặt lên ban thờ cúng trăng một món đồ thủ công do mình thêu thùa để cầu sự khéo léo; những lúc như thế, các cô cũng thường so tài một phen với các chị em, xem tay nghề của ai tinh tế nhất, cuối cùng sẽ đem những món đồ đẹp đẽ do chính tay mình chế tác ấy ra tặng lẫn nhau, để thể hiện tình chị em khăng khít. Món đồ thủ công giấu bên trong cái gối đen của Lý Tiểu Văn, hiển nhiên chính là để cầu Chức Nữ đêm nay, cũng là chút tấm lòng của người mẹ dành cho con gái.
Cô cầm cái bọc nhỏ đi tới trước mặt An Long Nhi, An Long Nhi lập tức hiểu ý câu nói cuối cùng của Lý Tiểu Văn. Để kìm nước mắt, cậu bèn ngẩng đầu nhìn lên dải ngân hà và những ngôi sao lấp lánh trên bầu không, nhưng vô vàn nước mắt vẫn cứ thấm ướt gương mặt Lý Tiểu Văn, rồi nhỏ xuống dòng Tầm Giang tĩnh lặng.