Trảm Long - Trọn Bộ 4 Tập

Tập 1 - Chương 4: Trăng Rọi Minh Đường Thành Sát Cục

Lục Kiều Kiều thỏa thuận xong giá cả với Hà đại nhân, liền nói ra suy nghĩ của mình.

Huyệt Hùng Kê Đề Nhật mà vị Hữu Hiên tiên sinh kia điểm xuống nếu là huyệt dữ thì một tháng nay người hai gia tộc đã chẳng thể bình an vô sự như thế, tình hình ắt phải xấu đi lập tức rồi. Suốt một tháng nay đại tộc hai thôn đều bình yên, tới khi Trung thu trăng tròn mới đột nhiên xảy ra chuyện, quả là rất kỳ lạ. Có thể Hữu Hiên tiên sinh bố cục cao minh, làm xong việc xấu đã chạy mất hút, nếu vậy đương nhiên có thể từ từ giải quyết; nhưng cũng có thể đây vốn không liên quan đến cục Hữu Hiên tiên sinh bày ra, vậy thì rất có thể bố cục này vừa mới bị đổi thành sát cục!

Lục Kiều Kiều tối qua cứu hơn ba mươi người, có lẽ nằm ngoài dự liệu của người bày ra bố cục. Nếu người bày cục này sáng nay biết được việc sát nhân không thành, thì rất có khả năng tối nay y sẽ đến chỗ huyệt Hùng Kê Đề Nhật kiểm tra lại. Dù chưa biết người đó có phải Hữu Hiên tiên sinh hay không, nhưng đây chắc chắn là một thầy phong thủy cao minh, mà thầy phong thủy thì nhất định sẽ thăm lại mộ phần, vì vậy Lục Kiều Kiều lập tức yêu cầu Hà đại nhân sắp xếp người mai phục trên núi, để đối phương trở tay không kịp.

Nói thì nói thế, song Lục Kiều Kiều vẫn còn một suy nghĩ khác không thể nói ra…

Chuyến đi về Giang Tây lần này thực ra nằm dưới sự sắp đặt của một âm mưu vô hình, nhất cử nhất động của cô khi còn ở Quảng Châu cũng như bây giờ, có thể đều bị người ta theo dõi, nếu cứ hành xử theo thói thường, sẽ từng bước rơi vào tính toán của đối phương. Muốn phá vỡ tình thế bị động này, chỉ có cách đi một bước cờ lạ chuyển sáng thành tối, mới có thể phát hiện ra căn nguyên mưu đồ của đối phương.

Cánh đồng dưới ánh trăng mười sáu chia thành từng mảng sáng tối rõ ràng, mười thớt khoái mã phi như bay trên con đường mòn chốn thôn quê.

Cưỡi mấy thớt ngựa đi trước là bốn bổ khoái, ba thớt ở giữa lần lượt là Lục Kiều Kiều, Jack và An Long Nhi, cuối cùng là tri huyện Thanh Thành Hà đại nhân cùng hai vị sư gia của ông ta.

Lục Kiều Kiều và An Long Nhi ngồi trên lưng ngựa ăn vận giống hệt nhau, khăn xám bao đầu chỉ lộ ra hai con mắt, áo ngắn quần dài màu xám đậm, giữa eo thắt dây vải, lưng đeo tay nải, chân đi ủng. Chỉ có một điểm khác biệt duy nhất là sau lưng Lục Kiều Kiều giắt theo một khẩu súng lục cỡ lớn của hải quân, giống hệt khẩu đang đeo bên hông Jack; còn sau lưng An Long Nhi lại là một cuộn thừng mảnh và cây trượng gỗ.

Trước khi xuất phát, Lục Kiều Kiều quay về quán trọ chuẩn bị dụng cụ, có kêu An Long Nhi cho mượn một bộ quần áo để thay. Vóc dáng cô và An Long Nhi xấp xỉ nhau, nên mặc chung quần áo cũng không có gì khó. Lúc này nếu chỉ nhìn qua, quả thực không thể phân biệt nổi hai người.

Jack hiểu suy nghĩ của Lục Kiều Kiều, anh biết đêm nay chưa chắc đã an toàn, để đề phòng bất trắc, anh cũng lấy trong xe ngựa một cuộn thừng chão mang theo dự phòng.

Đường đêm rộng rãi vắng vẻ, quãng đường mười dặm ruổi ngựa thoắt cái là tới, từ xa đã trông thấy dãy Kê Đề sừng sững nhìn xuống ngàn khoảnh ruộng. Lục Kiều Kiều bảo mọi người vòng qua thôn Ôn Phượng và Thượng Cát, dừng ngựa từ xa, đi men theo sườn núi Kê Đề lên trên.

Dãy Kê Đề thường có người lên xuống, đường mòn lên núi cũng hay được sửa sang nên không đến nỗi khó đi. Dưới ánh trăng sáng, lại có mấy bổ khoái thạo lối dẫn đường, đám người nhanh chóng trông thấy một khoảnh đất bằng giữa lưng chừng núi.

Lục Kiều Kiều kêu mọi người yên lặng, dừng ở đằng xa đợi cô, rồi dẫn theo An Long Nhi từ từ bước tới ngôi mộ mới táng.

Từ khoảnh đất bằng này có thể trông thấy ruộng lúa nước mênh mông và thôn làng trải dài dưới chân núi, vị trí này là cách cục điển hình trong phong thủy, núi cao trông biển bằng.

Bùn đất ở khoảng đất trống sáng mà ẩm, rõ ràng mới trải xong không lâu. Từ đây có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, trong trẻo vui tai như tiếng chuông bạc, từ một khe suối nhỏ trên núi lững thững chảy xuống.

Yêu cầu về mạch suối trong phong thủy hợp chậm không hợp gấp, nước suối ngọt mát hiền hòa, sẽ phù hộ cho hậu nhân tài đinh đều vượng.

Lục Kiều Kiều chậm rãi hít một hơi, trong không khí có mùi của cây cỏ, mùi của đất mới, và cả mùi nước suối, khiến người ta thấy tâm hồn sảng khoái thư thái tinh thần, có thể thấy dòng suối này không có vấn đề gì.

Giữa khoảng đất trống có một ngôi từ đường nhỏ, sau lưng từ đường là sườn núi thoai thoải, nước suối uốn lượn từ đây chảy xuống chân núi.

Vị trí sau lưng mộ chí gọi là huyền vũ, quyết định sức khỏe tuổi thọ nhân đinh, huyền vũ của nơi này dựa vào núi, cây cối um tùm tươi tốt, cũng là một lựa chọn sáng suốt trong phong thủy.

Từ đường có diện tích chừng năm trượng vuông, phía trước có một khoảnh sân lát đá hình bán nguyệt, đường kính chừng ba trượng, xâm xấp nước, tựa như một tấm kính lớn soi bóng trăng, hắt bóng sóng nước dập dờn lên cửa từ đường.

Bố cục mộ phần nào cũng đều có minh đường, tức khoảng đất trống trước bia mộ, ở đây chính là khoảnh sân đá hình bán nguyệt trước cửa từ đường. Cát hung của minh đường quyết định tài vận và quan vận của con cháu đời sau, trong phong thủy, minh đường được yêu cầu sạch sẽ thoáng đãng, quan trọng nhất là không được úng nước.

Cách xử lý việc úng nước ở minh đường là khơi một lỗ thoát nước gần đấy, trong phong thủy cũng gọi là lỗ thoát nước. Việc xác định vị trí khơi lỗ thoát cũng có yêu cầu nghiêm ngặt, thông thường lỗ thoát nước đều được đặt ở phương vị đại hung, nhằm nhờ nước chảy cuốn trôi khí xấu, đón cát tránh hung.

Khoảng minh đường trước mặt úng nước, nhất định là do lỗ thoát bị nghẽn, hoặc vốn không có lỗ thoát nước.

Lục Kiều Kiều và An Long Nhi giẫm nước đi qua minh đường bước tới cửa lớn từ đường, đẩy cửa nhìn vào chỉ thấy tối đen như mực, nhưng vừa bước qua bậu cửa đã phát hiện, trong từ đường cũng ngập đầy nước.

Khả năng từ đường bị ngập nước rất thấp, từ đường là một căn nhà, cho dù bị mưa ngấm xuống cũng không thể ngập đến nhường này; mà dù ngập đến nhường này, cũng không thể không có lỗ thoát để thoát nước, điểm quan trọng nhất là – mười mấy hôm nay trời không hề đổ mưa.

Dưới ánh trăng, Lục Kiều Kiều nhìn thấy chính diện từ đường đặt một chiếc bàn lớn, trên bàn bày bài vị và kim tháp thờ mấy chục vị tổ tiên. Cô bước tới trước bàn, móc ra chiếc la bàn nhỏ đo đạc quẻ tuyến bàn thờ, bàn và cửa lớn đều hướng về phía Tây, thuộc đương vận cát tuyến, không có vấn đề gì; cô lại ra chỗ có ánh trăng trước cửa từ đường, kiểm tra xem quẻ tượng và hướng cửa có ăn khớp không, cũng không vấn đề gì. Xem ra nguyên nhân dẫn đến nam đinh hai họ Ôn Lương đêm qua phát điên chém giết lẫn nhau không nằm ở phương vị từ đường.

Lục Kiều Kiều trực tiếp suy đoán, nước chính là nguồn cơn bố cục phong thủy sản sinh ra sức mạnh giết người, mà sự xuất hiện của nước ở đây chỉ có một nguyên nhân, đó là do con người sắp đặt.

Lục Kiều Kiều ghé tai An Long Nhi thì thầm vài câu, hai người lại cùng lội ra khỏi từ đường, tới phía Tây Bắc khoảnh sân đá, vị Tuất cung Càn ở đây chính là lỗ thoát nước thường dùng cho minh đường.

An Long Nhi đứng bên Lục Kiều Kiều, mặt hướng về sườn núi sau từ đường, Lục Kiều Kiều ngồi xổm xuống, chầm chậm rờ men theo rìa sân đá, quả nhiên rờ thấy một lỗ thoát nước, nhưng đã bị bịt kín bằng mẩu gỗ, gỗ ngâm trong nước lâu trương lên giờ không sao rút ra được.

Đột nhiên trong khu rừng phía sau từ đường phát ra tiếng lá cây xào xạc, Lục Kiều Kiều hét lớn: “Bổ khoái mau tới bắt trộm!” đồng thời dẫn đầu chạy bổ vào rừng.

Lục Kiều Kiều chắc chắn nơi phát ra tiếng động trong rừng có người cô cần bắt, nguyên nhân chủ yếu là bởi minh đường và từ đường hai nơi một sáng một tối đều bị ngập nước.

Trong phong thủy, ánh sáng và âm thanh đều có năng lượng gây nhiễu loạn tinh thần, nếu dùng tà thuật phong thủy cấp độ cao thao túng âm thanh và ánh sáng có thể tạo nên sát khí phong thủy bức con người phát điên mà chết.

Vào tiết Trung thu rằm tháng Tám, trong phong thủy Thiên Tinh có chòm sao Mão Nhật Kê ở hướng Tây Nam là hung dữ điên cuồng nhất, nếu mượn khí tiêu điều của Mão Nhật Kê nhằm đúng ngày Trung thu đánh vào mộ tổ nhà nào thì con cháu nhà ấy chết chắc.

Hữu Hiên tiên sinh điểm xuống huyệt Hùng Kê Đề Nhật đích thực là chính huyệt chân long, có thể giữ cho con cháu hai thôn đại phú đại quý, nhưng dù ông ta vô tình hay hữu ý, trên dãy Kê Đề đi điểm huyệt Hùng Kê, chẳng khác nào ẩn giấu mối nguy hại nói trên, chờ gặp đúng tiết Trung thu Mão Nhật Kê tinh quân chiếu thẳng, nước và trăng kết hợp với thời gian và phương hướng, tiềm ẩn vô số nguy cơ, sẽ trở thành vũ khí giết người.

Bóng nước phản chiếu huyệt đường, bản thân đã là một loại sát khí khó khắc phục trong thuật phong thủy, tùy theo hình ảnh phản chiếu cùng thời gian khác nhau mà khiến tinh thần con người sản sinh những hình thức mê loạn khác nhau. Ví dụ như ráng hồng mặt trời lặn đằng Tây phản chiếu lên huyệt đường chính là loại sát khí hung dữ rất nổi tiếng, gọi là Huyết Bồn Chiếu Kính, khiến người ta chết trong họa đao kiếm. Sử dụng loại sát khí này có thể trở thành một phương pháp giết người hết sức tinh vi.

Huyệt Hùng Kê Đề Nhật hướng về phía Tây, vốn không xung đột với phương vị của Mão Nhật Kê tinh quân, nhưng vì trước minh đường ngập nước, trăng tròn Trung thu vào canh ba khắc cuối vừa vặn rọi xuống mặt nước ở minh đường phản chiếu lên cửa chính từ đường, hướng phản chiếu cũng chính là phương hướng Mão Nhật Kê chết người trong dịp Trung thu, hình thành sát khí âm hàn không thể chống đỡ tấn công trực diện vào cửa chính từ đường. Nếu cửa từ đường được đóng chặt, thì dù luồng sát khí này có âm tà cỡ nào cũng không thể chiếu vào bên trong, sát quang không chiếu tới kim tháp và bài vị tổ tiên, sát khí mạnh đến mấy cũng uổng công.

Vấn đề nằm ở việc trong từ đường bị ngập nước.

Trăng rọi xuống mặt nước minh đường đương nhiên không chiếu tới bài vị tổ tiên, nhưng nếu ánh trăng có thể rọi vào chỗ nước ngập trong từ đường thì hoàn toàn có thể khúc xạ chiếu tới bài vị, sinh ra sức mạnh giết người. Kẻ sát nhân chỉ cần khiến ánh trăng chiếu tới bài vị sâu nhất trong từ đường là có thể giết người thành công.

Muốn làm được điều này, chỉ có một cách, đó là vào đúng đêm Trung thu mở cửa từ đường, treo một tấm gương lớn phía trên cửa, sao cho gương nằm yên vị, mặt gương chiếu thẳng xuống mặt đất, là ánh trăng có thể rọi vào minh đường trước, sau đó phản xạ về hướng cửa từ đường, từ tấm gương treo trên cửa phản xạ xuống mặt đất ngập nước trong từ đường, cuối cùng khúc xạ lên bài vị.

Linh khí của huyệt Hùng Kê Đề Nhật theo lẽ tự nhiên cần ánh sáng mặt trời ban ngày mới có thể linh động, giờ giữa lúc đêm khuya chịu tà quang của Mão Nhật Kê chiếu suốt một canh giờ, khiến Hùng Kê nảy sinh ảo giác ban ngày, vi phạm lẽ âm dương, đột nhiên tỉnh giấc, điều này làm cho nam đinh hai họ toàn thân lạnh buốt thấu xương, trước mắt chỉ thấy ảo giác khủng khiếp, nên vung đao chém người. Thực ra, dù cho họ giết người hay bị người giết, cũng chỉ có một con đường chết.

Hùng Kê Đề Nhật vốn tốt là thế, vào đêm Trung thu ấy đã bị đổi thành Mão Kê Ảo Nguyệt.

Lục Kiều Kiều hiểu ra đầu đuôi mọi chuyện, mới ngẩng đầu tìm tấm gương treo trên cửa lớn mà không thấy.

Tấm gương này nhất định không nhỏ, ít nhất cũng phải rộng chừng bốn năm thước mới có thể thu trọn ánh sáng hắt lên từ minh đường, rồi lại chiếu bóng trăng xuống mặt nước rộng nhường này. Một chiếc gương lớn như vậy thời nay vẫn chưa đâu sản xuất được, chỉ có thể nhập về từ phương Tây, nên giá tiền chắc chắn không rẻ, dùng xong còn phải tháo đem xuống núi tiêu hủy chứng cứ, càng không phải chuyện đơn giản; thêm nữa giờ đang là thời gian xảy ra sự việc đêm qua, mặt trăng gần như ở đúng cao độ hôm qua, sát cơ hiển lộ đương nhiên cũng giống đêm qua, thầy phong thủy nếu đến thăm lại mộ, nhất định sẽ xuất hiện ở đây vào thời gian này để kiểm tra xem vấn đề nằm ở đâu.

Cũng có nghĩa là trong thời khắc này, gương còn, thì người ắt còn, việc bọn họ muốn làm chính là dẫn dụ người đó ra mặt.

Vì vậy Lục Kiều Kiều bước ra khoảnh minh đường lộ thiên, cố ý cho đối phương thấy mình đã tìm được chính xác lỗ thoát nước sau đó cho thoát nước đi thế nào. Đối phương chắc chắn hiểu rõ: nước là điểm mấu chốt của sát cục này, người thoát nước ở minh đường rõ ràng cố ý nói với y: cục thế bày ra đã bị nhìn thấu, cũng biết y đang ở gần đây, có tiếp tục nấp cũng vô ích, nếu không đủ khả năng giết Lục Kiều Kiều diệt khẩu, chi bằng mau bỏ trốn cho sớm.

Hành động của Lục Kiều Kiều quả nhiên đã ép được đối phương hiện thân. Có điều cô chẳng phải đại hiệp võ công cái thế vì dân trừ hại, cũng không định vì một trăm lạng vàng mà bán mạng, sở dĩ tiên phong xông vào đêm tối là bởi bản thân cô đã có suy tính kỹ càng.

Nếu như đối phương chính là người muốn ép cô về Giang Tây tìm Long Quyết, thì ngày nào cô còn chưa về tới Giang Tây, ngày đó y còn chưa gây hại tới tính mạng cô, đây là điều cô vững tâm nhất, chỉ cần cô không uy hiếp tính mạng đối phương, y cũng sẽ không ép cô vào chỗ chết, trò chơi này vẫn bắt buộc phải chơi tiếp.

Bởi vì, Long Quyết so với tính mạng Lục Kiều Kiều còn quan trọng hơn nhiều.

Nhưng nếu đối phương không có quan hệ gì với cô, đương nhiên có khả năng y sẽ ra đòn sát thủ, Lục Kiều Kiều cố tình ăn vận giống An Long Nhi, lại lấy khăn bịt mặt chính là đề phòng bị đối phương nhận diện. Giờ nếu cùng An Long Nhi xuất kích, hai người có thể làm đối phương mê loạn, cũng có thể dẫn đường chỉ hướng cho bổ khoái quan sai phía sau tới bắt người.

Lục Kiều Kiều chạy vào khu rừng đen sau lưng từ đường, Jack và đám bổ khoái đang chờ đợi trong bóng tối cũng lập tức xông theo.

An Long Nhi thân thủ nhanh nhẹn, nhảy một bước đã vọt lên trước mặt Lục Kiều Kiều, tay phải rút cây trượng gỗ từ sau lưng, lao vút đi như tên bắn, đuổi tới nơi phát ra tiếng lá động, quả nhiên trong rừng có hai người mặc áo đen đang gấp rút chạy lên núi.

Bọn họ mặc đồ đen, nếu nằm phục dưới đất, lại giữa đêm tối chắc chắn rất khó bị phát hiện, nhưng trong khu rừng tĩnh mịch, chỉ một cử động nhỏ cũng phát ra tiếng động rất lớn, Jack và đám bổ khoái đã nhanh chóng phát hiện ra dấu vết bọn người áo đen.

Hai kẻ áo đen rất thông thuộc đường núi, lẩn nhanh như chạch, An Long Nhi cùng bốn bổ khoái theo sát phía sau.

Lục Kiều Kiều hét lên với bọn họ: “Quan sai, mau dồn hai kẻ đó xuống núi!” rồi kéo Jack chạy theo con đường mòn dẫn xuống núi chặn đường bọn áo đen.

An Long Nhi gấp rút truy đuổi, tay trái rút từ sau lưng sợi thừng, nhưng rừng núi Giang Nam cây cối rậm rạp, cành lá cứ táp vào mặt theo từng bước chạy, làm sợi tiêu thừng trong tay thằng bé không có cơ hội sử dụng.

Bốn bổ khoái cũng dần vượt lên, từ trên sườn núi cao lùa xuống, hình thành trận thế gọng kìm, cộng thêm An Long Nhi là năm người, quây như quây lợn, dồn hai tên áo đen chạy xuống núi.

Vòng qua dãy Kê Đề đuổi tới sườn núi phía Bắc, hai kẻ áo đen càng chạy càng đuối, nhưng sườn núi cũng càng lúc càng dốc đứng, người bình thường đã không thể đi bộ được nữa.

Bọn người áo đen chỉ mong thoát thân, cắm đầu chạy thục mạng xuống sườn dốc, vừa chạy vừa lăn, tốc độ càng lúc càng nhanh.

Bốn bổ khoái thấy địa hình hiểm trở, đều hãm lại tốc độ truy đuổi, vịn vào cây cối hai bên kiên trì trượt xuống.

An Long Nhi thân thủ nhẹ nhàng, vốn chẳng màng đến địa hình, nhún chân vọt lên không trung, nhảy thẳng xuống sườn dốc, một lần nhảy xa đến ba bốn trượng, chân vừa chạm đất đã nhẹ nhàng lấy đà nhảy bật lên, như cánh chim ưng bám sát hai kẻ áo đen.

Bọn người áo đen đang lăn nhanh xuống dốc, nghe đằng sau có tiếng gió vun vút thì kinh hãi, không ngờ kẻ truy đuổi lại liều mạng như thế, còn nhảy hẳn xuống dốc núi!

An Long Nhi cuối cùng cũng tiếp cận được một trong hai tên áo đen, cây gậy gỗ từ trên cao giáng xuống, trúng lưng đối phương.

Cây gậy gỗ này là gậy dò đất của thầy phong thủy, một đầu tròn một đầu nhọn, dài như cây kiếm, vào tay An Long Nhi lại trở thành một loại vũ khí ngắn tuyệt hảo.

Hai kẻ áo đen đang trên đà lăn xuống, nghe tiếng xé gió thì biết binh khí đã đuổi đến sau lưng, tình thế cấp bách, chúng không kịp quay đầu, đành rút từ sau eo một cây gậy gỗ múa tít trên đầu, làm thành một vòng côn bảo vệ, “cốp” một tiếng vừa may đỡ được một gậy đâm xuống của An Long Nhi.

An Long Nhi có chút bất ngờ, một là thứ binh khí đối phương rút ra giống hệt của mình, hai là chiêu thức đối phương sử dụng lại là chiêu Triền đầu quả não trong Thiếu Lâm Mai Hoa đao. Chiêu này thiên về chuyển thủ thành công, đao ảnh vây quanh kín mít đến nước cũng không lọt, nhưng mũi đao xoay tròn tỏa ra lại mai phục sát cơ bốn bề.

Đòn này của tên áo đen quả nhiên hữu hiệu, An Long Nhi không dám lăn xả tấn công nữa, chỉ đành mượn dư lực của hai cây gậy giao nhau, trượt ngang trên không một thước, tránh khỏi vòng công kích gậy gỗ của y.

Tên áo đen chẳng nghĩ ngợi nhiều, gạt được đòn sát thủ của An Long Nhi, liền học theo đối phương nhảy xuống sườn dốc. Làm vậy tốc độ nhảy của y cũng sẽ ngang bằng với An Long Nhi, chí ít không bị đối thủ tiếp cận tấn công từ phía sau.

Sườn núi dốc tuy khiến người ta không thể đứng được, nhưng cây cối lại thưa thớt hơn nhiều. An Long Nhi không thể tóm được tên áo đen kia, lập tức vung thừng trong tay ra, “vút” một tiếng quật tới tên áo đen ở gần mình hơn.

Tên áo đen đang nhảy xuống dốc, sợi thừng mang theo mũi tiêu thép quỷ dị nhằm thẳng vào thân dưới y, chỉ cần y nhảy xuống với tốc độ thế này, sợi thừng vừa chạm vào sẽ quấn lấy chân y, làm y mất thăng bằng trên không, An Long Nhi có thể xuất ra chiêu kế tiếp trói gô y lại.

Ai ngờ tên áo đen phản ứng cực nhanh nhạy, phát hiện tiêu thừng đang quét tới dưới chân thì lập tức co chân lên, gạt cây gậy gỗ trên tay xuống.

An Long Nhi thấy sợi thừng chặt lại thì biết dây thừng đã bắt được vào thứ gì đó bèn giật cổ tay phát lực quấn chặt mũi tiêu, kéo mạnh về. Tên áo đen nhảy qua dây thừng thoát nạn, còn sợi thừng của An Long Nhi kéo về cây gậy gỗ của đối phương.

Dưới dốc chính là con đường mòn men theo sườn núi, hai tên áo đen thấy sắp tới mặt đường, bèn tăng tốc nhảy xuống. Nhờ ánh trăng, bọn chúng đột nhiên trông thấy trên đường có hai bóng người đang đợi sẵn, hai người này chính là Lục Kiều Kiều và Jack, nhưng giờ đã chẳng còn lối thoát nào nữa, hai bên chỉ có thể chính diện nghênh chiến.

Tên áo đen thứ nhất đã sắp bổ người xuống mặt đất. Jack ngắm chuẩn điểm rơi, hai tay nắm chặt sợi thừng đã thắt thành thòng lọng, quăng trên đầu một vòng rồi ném tới kẻ đang bay trên không.

Cao bồi miền Tây giỏi nhất là trò này, dưới ánh trăng sáng, quăng dây thừng bắt người chẳng phải chuyện khó đối với Jack. Thòng lọng chụp chính xác vào chân tên áo đen, Jack dùng lực giật mạnh, khiến tên kia ngã dập xuống đất, kêu lên một tiếng thảm thiết.

Tên thứ hai bị An Long Nhi cản ở phía sau, tới con đường muộn hơn một chút, hắn nhảy lên không vừa hay trông thấy đồng bọn bị Jack chụp thòng lọng, Lục Kiều Kiều tay lăm lăm khẩu súng Tây chĩa vào tên tù binh, còn Jack đang định xông lên trói người.

Tên áo đen đến sau đột nhiên hét to một câu chú ngữ: “Mão Nhật Tinh Quân hỏa cấp như luật lệnh! Khai!”

Jack nghe tiếng ngẩng đầu nhìn lên, cảm thấy trên đầu lóe lên một quầng sáng màu vàng. Giữa quầng sáng xuất hiện một hình vẽ quái dị được hợp thành từ vô vàn điểm trắng, Jack lập tức tê liệt ngã lăn ra đất.

Lục Kiều Kiều vừa nghe thấy câu chú ngữ này, liền cụp chặt ngón cái, ngón giữa, ngón áp út tay trái, làm thành Tam Thanh quyết lật ngược tay che trước mắt, tay phải giơ súng nhằm vào điểm rơi của tên áo đen, bóp cò… “pằng” một tiếng.

Quầng sáng vàng trên bầu trời lập tức tiêu tan, hai tên áo đen đều ngã dúi dụi.

Tên áo đen vừa đọc bùa chú bị trúng đạn vào chân, máu tuôn xối xả, ngã xuống đất, vật lộn một hồi đứng lên rồi lại ngã sõng soài.

An Long Nhi đuổi sát phía sau tên áo đen, mắt không rời đối thủ gần mình nhất, toàn bộ cảnh tượng tên áo đen niệm bùa chú, phát ra quầng sáng vàng và hình vẽ quỷ dị đều không lọt khỏi mắt An Long Nhi. Khi ánh sáng vàng lóe lên, thằng bé cũng giống Jack đều lập tức tê liệt mất đi tri giác, lăn từ trên dốc xuống con đường núi bên dưới, ngã ngay bên cạnh hai tên áo đen.

Jack ngã xuống không còn biết gì nữa, hai tay đang nắm sợi thừng buông lỏng, tên áo đen bị chụp thòng lọng nằm dưới đất thừa cơ bò dậy, định ra đỡ đồng bọn vừa bị trúng đạn.

Lục Kiều Kiều lên đạn khẩu súng lục, hét lớn: “Cả hai đều không được động đậy! Bằng không tôi sẽ bắn ngay!”

Súng Tây thời này mỗi khi bắn xong một phát lại phải nạp thuốc súng và đạn, tên áo đen vốn không tin súng Tây có thể bắn liên tiếp hai phát, nên không thèm màng đến lời hăm dọa của Lục Kiều Kiều, đỡ tên trúng đạn từ dưới đất dậy định chạy.

Tên áo đen đang ngã dưới đất nghe tiếng Lục Kiều Kiều, trong lòng vô cùng ngạc nhiên, không ngờ có người vẫn đứng vững sau đòn tấn công bùa chú của mình. Đương nhiên hắn cũng không tin khẩu súng Tây trên tay cô gái này vẫn có thể bắn ra một phát đạn nữa.

Tay hắn nãy giờ vẫn rịt chặt lấy vết thương ở chân, hai bàn tay đã đẫm máu tươi, lúc này một tay vịn vào tên đồng bọn đang đỡ mình, một tay xoay cổ tay, ngón tay chụm thành kiếm quyết vẽ nhanh một đạo Huyết phù về phía Lục Kiều Kiều, một luồng khí đỏ tụ lại giữa ngón tay hắn, môi hắn khẽ động, lẩm nhẩm niệm chú…

“Pằng!” Lại một tiếng súng nổ, lần này tên áo đen đang đỡ đồng bọn định chạy trốn bắn văng về phía con dốc, ngã lăn ra đất, máu từ cổ họng tóe ra như suối, làm ướt đẫm tên áo đen đang ngồi dưới đất. Tên này tức thời thất kinh, kêu “á” lên một tiếng, ngừng thi triển bùa chú, lao tới định vực tên vừa ngã dậy, nhưng làm cách nào cũng không ngăn được máu phun ra.

Huyết phù là cấm thuật trong đạo thuật, có thể khiến quá trình vận chuyển huyết khí trong cơ thể đối phương bỗng chốc ngừng lại, người lập tức rơi vào trạng thái chết giả, nếu trong vòng một canh giờ không được giải Huyết phù, toàn thân người trúng bùa sẽ chuyển sang màu đen, khí huyết tàn dẫn đến tử vong.

Lục Kiều Kiều nhận ra cấm thuật này, biết rõ hậu quả trúng phải Huyết phù. Jack và An Long Nhi đã trúng bùa ngã xuống, nếu cô cũng bị đốn ngã, bên cạnh tuyệt đối không còn ai hiểu đạo thuật có thể cứu cô, trong lúc nước sôi lửa bỏng, Lục Kiều Kiều đành phải nổ súng.

Nhưng trong lúc cấp bách, tay Lục Kiều Kiều run bần bật, viên đạn vốn định bắn vào kẻ đang thi triển đạo thuật lại bắn trúng kẻ đứng bên cạnh.

Hai lần nổ súng, đều liên tiếp bắn ngã hai người, mặt đất máu chảy thành sông, ngay người phe mình cũng đã ngã xuống cả, Lục Kiều Kiều chưa từng trải qua cảnh tượng này bao giờ. Hai tay cô giơ súng chĩa thẳng vào tên áo đen đang ngồi bệt dưới đất, hơi thở càng lúc càng nặng, giọng run rẩy: “Súng của ta có thể bắn liên tiếp… Nếu ngươi ngồi yên… ta cũng sẽ không bắn…”

Tên áo đen cũng bịt kín mặt hệt Lục Kiều Kiều, chỉ lộ ra hai con mắt, tay hắn rịt chặt vết thương trên cổ tên đồng bọn, im lặng nhìn cô.

Lục Kiều Kiều tiếp tục nói: “Đạo thuật của ngươi ta đều đã thấy cả rồi… ngươi… còn động ngón tay lần nữa… ta sẽ lập tức giết chết ngươi!”

Tên áo đen vẫn nghi hoặc nhìn cô gái bịt mặt trước mắt. Từ ánh mắt y, Lục Kiều Kiều biết y đang vắt óc nghĩ đối sách, bèn chĩa súng sang khoảng đất bên cạnh y, bắn “pằng” một tiếng, làm đất đá bắn tung tóe, tên áo đen giật thót mình, co rúm người lại một phía.

Lục Kiều Kiều như phát điên hét lên: “Không được động đậy! Nghe rõ chưa?!”

Lần này tên áo đen đã có phản ứng, căng thẳng gật đầu, y nhận ra khẩu súng kia quả thực có thể bắn đạn liên tiếp.

Lục Kiều Kiều biết cứ để y nhìn chằm chằm như thế, sớm muộn cũng tìm ra sơ hở quật ngược lại mình, bèn ra lệnh: “Quay người lại nằm bò ra đất! Úp mặt xuống không được nhìn!”

Tên áo đen lần này đã biết nghe lời, ngoan ngoãn quay người bò ra đất.

Lục Kiều Kiều vô cùng lo lắng tên áo đen phản kháng, cô không dám rời mắt khỏi y nửa phân, cũng không dám lại gần kiểm tra, để trói gô cả bọn lại, dù hai tay đã tê mỏi đau nhừ, vẫn cố kiên trì chĩa súng vào kẻ đang nằm úp xuống đất.

Lúc này, mấy bổ khoái đuổi từ trên dốc xuống cuối cùng đã tới nơi, bọn họ trói tên áo đen bị thương ở chân trước, cầm máu băng bó vết thương cho y, rồi lại kiểm tra đến tên trúng đạn ở cổ, phát hiện tên này vì mất máu quá nhiều đã chết rồi.

Lục Kiều Kiều cuối cùng cũng có thể thả lỏng người, cô lảo đảo như bị hạ đường huyết, đưa mắt nhìn tới các đồ vật rơi vãi trên mặt đất.

Dưới đất có ba cây gậy phong thủy, thuộc về An Long Nhi và hai tên áo đen; sợi thừng của An Long Nhi; dây thòng lọng của Jack; còn cả một tấm lưới, bên trên có hơn chục mảnh gương tròn, xếp thành trận gương phù chú theo vị trí của một trong hai mươi tám chòm Thiên Tinh, Mão Nhật Kê.

Lúc này Lục Kiều Kiều mới vỡ lẽ, thứ treo trên cửa chính từ đường huyệt Hùng Kê Đề Nhật phản xạ tà quang của ánh trăng, không phải tấm gương to bằng chiếc ván giường, mà là trận gương phù chú Mão Nhật Kê còn có sức sát thương lớn hơn này.

Những tấm gương được xếp thành trận Thiên Tinh, lại cộng thêm sức mạnh của bùa chú khai quang, uy lực vượt xa tấm gương lớn trong tưởng tượng của Lục Kiều Kiều; dùng gương nhỏ kết vào lưới, thì khi lắp đặt không cần khiêng một tấm gương lớn lên núi, lúc dỡ bỏ cũng có thể cuộn lại nhanh chóng. Lục Kiều Kiều không khỏi khâm phục người thiết kế ra sát trận này, nếu không phải tâm thuật bất chính, người này nhất định sẽ là danh sư một đời.

Vừa rồi bùa chú được tên áo đen phát ra giữa tầng không, đánh đổ Jack và An Long Nhi, cũng chính nhờ vừa làm phép vừa vung ra trận kính Mão Nhật Kê này phối hợp, nên mới có sức sát thương lớn như vậy. Lục Kiều Kiều giờ đã biết đối phương dùng loại bùa chú gì, đương nhiên cũng có cách giải cứu.

Lục Kiều Kiều xem xét tình trạng An Long Nhi và Jack thấy hai người chỉ hôn mê bất tỉnh, nhịp thở và thân nhiệt vẫn bình thường, bèn gọi mấy bổ khoái khiêng họ ra khu vực an toàn toàn rồi mới tiến hành cứu chữa.

Mấy bổ khoái được cắt cử lên núi tìm Hà đại nhân và hai vị sư gia, lại qua thôn Ôn Phượng kêu thêm mười mấy người tới giúp, mang theo hai chiếc xe la kéo, đặt Jack và An Long Nhi lên một chiếc, hai tên áo đen lên một chiếc, rầm rộ kéo về thôn Ôn Phượng.

Xác tên áo đen bị chết được cuộn chiếu đặt ngoài từ đường Ôn gia, tên còn sống bị trói cứng, treo lên gốc cây lớn ở tiền đường, do người trong thôn trông chừng.

Nói là trông chừng, thực ra dân thôn đã trút toàn bộ phẫn nộ lên người tên áo đen, hết phang gậy lại chọi đá vào người hắn. Người thôn Thượng Cát cũng biết tin đã bắt được hung thủ bày ra phong thủy sát cục hại người, lũ lượt kéo sang từ đường Ôn gia, ngoài từ đường càng lúc càng đông người vây kín, đã bắt đầu có người chọi sỏi lên xác chết tên áo đen.

Ôn Phượng vốn là thôn giàu có, từ đường đương nhiên không nhỏ, được chia thành ba khoảnh sân tiền đường, trung đường và hậu đường, Jack và An Long Nhi được đặt ở đây.

Lục Kiều Kiều kêu người chuẩn bị giấy vàng và chu sa, đầu tiên bắt mạch cho hai người, thấy mạch tượng ổn định bình thường. Tuy bọn họ cũng trúng phải bùa chú tà thuật từ trận gương Mão Nhật Kê như đám người điên loạn tối qua, giờ chắc cũng đang chìm đắm trong ảo giác, nhưng so ra, tà thuật Jack và An Long Nhi trúng phải chỉ là bùa chú được gấp rút sử ra trong lúc hoảng loạn, sức sát thương kém xa đại sát phong thủy do linh khí đất trời cùng sức mạnh vô hạn của tinh tú và mặt trăng cấu thành.

Lục Kiều Kiều dùng chu sa lần lượt vẽ lên trán hai người một bùa hóa khí, lại đem giấy vàng chu sa viết bùa đốt hóa thành tro, hòa thành một bát nước, từ từ rót vào miệng hai người.

Lần này Lục Kiều Kiều không dấy động can qua bùa giải như tối qua bởi đó chỉ là cách miễn cưỡng cứu mạng lúc cấp bách, rất có hại đối với sức khỏe con người. Người bệnh trước mặt là người của mình, bệnh tình cũng không nguy ngập, nên Lục Kiều Kiều dùng cách ôn hòa nhất giải bùa cho hai người.

Một lúc sau, An Long Nhi dần dần tỉnh lại, ánh mắt hoang mang kinh hoảng, tựa như vừa mơ thấy ác mộng. Lục Kiều Kiều tới bên thằng bé, vỗ vỗ mặt nó hỏi: “Long Nhi, Long Nhi… Không sao chứ? Cô đây này.”

An Long Nhi định thần lại, nhìn thấy Lục Kiều Kiều liền thở phào, vẻ mặt nhẹ nhõm hẳn, đưa tay tóm lấy áo Lục Kiều Kiều, nói: “Cô Kiều, cháu mơ thấy ác mộng…”

Lục Kiều Kiều xoa đầu nó, dỗ dành: “Ổn rồi ổn rồi, giờ mọi người đều không sao hết, nghỉ ngơi một lúc đi.”

Lúc này Jack cũng đã tỉnh lại, anh ta đột nhiên mở bừng mắt ngồi bật dậy, nhìn khắp lượt những người xung quanh, rồi hoảng loạn hét lớn: “Kiều Kiều! Mau mặc quần áo vào!”

Lục Kiều Kiều nghe vậy, quay sang tát “bốp” vào mặt Jack một cái. Mọi người xung quanh đều phá lên cười.

Trong quá trình Lục Kiều Kiều cứu chữa cho Jack và An Long Nhi, dân thôn Ôn Phượng và tri huyện Thanh Thành Hà đại nhân đều túc trực bên cạnh quan sát, thấy hai người đã tỉnh lại, khoảnh sân giữa từ đường vang dậy tiếng vỗ tay nhiệt liệt.

Hai người đàn ông trung niên ăn vận như thương nhân bước tới bên Lục Kiều Kiều, một người cao lớn tráng kiện, ngũ quan tỏa ra khí dương cương; một người trông trẻ hơn một chút dáng thấp béo, nhưng nhìn vào có cảm giác khỏe mạnh vững chắc. Cả hai tuy vận quốc phục nhưng so với thương nhân thông thường lại có vẻ nhanh nhẹn hoạt bát khó diễn tả thành lời.

Chính giữa trán, ở vị trí Ấn Đường của hai người này đều có một vết sẹo phỏng, Lục Kiều Kiều vừa nhìn đã biết đây chính là hai trong mấy chục người trúng bùa được cô cứu đêm qua.

Hai người bước tới trước mặt Lục Kiều Kiều, cúi đầu khum tay hành đại lễ, người cao nói: “Chúng tôi là thân hào thôn Ôn Phượng, tại hạ Ôn Hán Phong, còn vị này là Ôn Tổ Ninh. Tai bay vạ gió tối Trung thu khiến mấy chục mạng người thôn Ôn Phượng và Thượng Cát chúng tôi suýt mất mạng, may gặp được tiên cô thần thông cứu sống, nếu không bây giờ thôn chúng tôi đã nhà nhà phát tang, hộ hộ tuyệt hậu rồi… Còn chưa kịp tới tạ ơn, hôm nay tiên cô lại giúp chúng tôi bắt được kẻ gian phá hoại phong thủy, đại ân đại đức này cả đời chúng tôi không dám quên, xin tiên cô nhận cho một lạy của toàn thể dân thôn Ôn Phượng.” Nói xong liền cùng mọi người quỳ xuống dập đầu bái lạy Lục Kiều Kiều.

Lục Kiều Kiều chưa từng nhận lễ lớn nhường này, vội vàng đưa tay ra đỡ hai người ấy dậy: “Xin đừng khách khí, đây là việc Hà đại nhân giao cho, tiểu nữ đương nhiên phải dốc lòng dốc sức, xin mọi người mau đứng dậy.”

Tiếp đó, Lục Kiều Kiều lại ghé tai tri huyện đại nhân nói: “Hà đại nhân, kẻ đang treo bên ngoài từ đường, nếu còn không lôi về nha môn thẩm vấn e rằng sẽ bị đánh chết mất, liệu…”

Hà đại nhân “ồ” một tiếng vẻ hiểu ý, tức tốc gọi sư gia Mạnh Hiệt lại, thì thầm đôi câu, sau đó Mạnh Hiệt đứng giữa sân nói với toàn thể bà con dân thôn: “Kẻ gian phá hoại mộ phần tối qua bắt được, theo luật phải đưa về nha môn xét hỏi rồi định hình phạt, nha môn nhất định sẽ đòi lại công bằng cho bà con. Bây giờ quan sai sẽ áp giải tên này về nha môn trước, sau khi mở phiên xét xử tội trạng sẽ dán cáo thị thông báo, mọi người có thể cử thân hào tới nghe xét xử…” Nói xong một bài quan cách liền cùng mấy quan sai chuẩn bị áp giải hai kẻ áo đen một sống một chết về nha môn.

Lục Kiều Kiều thấy Jack và An Long Nhi đã tỉnh lại, hai kẻ áo đen cũng được đưa đi, tinh thần nhẹ nhõm phần nào, bèn ngồi bệt xuống bậc đá trong từ đường. Dân thôn Ôn Phượng lập tức pha trà rót nước, đám đàn bà con gái đỡ Lục Kiều Kiều vào ngồi trong nội đường.

Lục Kiều Kiều nói với Hà đại nhân: “Hà đại nhân, tiểu nữ mệt quá, có lẽ hôm nay không quay về Thanh Thành được, Hà đại nhân có việc gấp xin cứ về trước, đợi một hai ngày nữa tiểu nữ xin đến thỉnh an…”

Hà đại nhân liến thoắng nói “được, được”, còn dặn dò Lục Kiều Kiều: “Vậy Lục tiểu thư cứ ở đây nghỉ ngơi ít bữa, hai ngày sau ta sẽ phái người tới đón tiểu thư về Thanh Thành, đến lúc đó sẽ cảm tạ đầy đủ!” đoạn quay sang bảo Ôn Hán Phong: “Ôn tiên sinh nhớ tiếp đãi Lục tiểu thư cho chu đáo, tiểu thư đây là khách quý của huyện Thanh Thành chúng ta, không được thất lễ đấy.”

Ôn Hán Phong và Ôn Tổ Ninh đương nhiên hết mực vui lòng, lập tức sắp xếp chỗ nghỉ ngơi cho Lục Kiều Kiều.

Lục Kiều Kiều đầu óc rối bời, chỉ muốn thả lỏng đôi chút, thều thào gọi: “Long Nhi, châm cho cô cữ thuốc…”

Lục Kiều Kiều được sắp xếp ở nhà Ôn Tổ Ninh.

Nhà Ôn Tổ Ninh là một hộ lớn trong thôn, đơn gia độc viện, bên trong nhà có mười mấy gian phòng nhỏ, tuy ở thôn quê nhưng các phòng bài trí không hề quê mùa chút nào, có thể thấy Ôn Tổ Ninh kinh doanh trong thành đã lâu, thói quen sống đã hoàn toàn không còn phong vị thôn quê nữa.

Từ tối Trung thu đến giờ, Lục Kiều Kiều chưa có đêm nào được ngủ yên, đầu tiên là trận đại chiến ở quán trọ, dùng Cửu Tự ấn phá tà cứu người; tiếp đến lại đêm hôm mò lên dãy Kê Đề bắt phong thủy tà sư, hao mòn thể lực không nói, còn phải ra sống vào chết, cuối cùng vẫn ôm một bồ nghi vấn.

Cô mê man ngủ suốt một ngày một đêm, trong đầu không thôi hồi tưởng lại mọi tình tiết gặp phải mấy ngày hôm nay.

Mặt trời ló dạng, Lục Kiều Kiều cuối cùng cũng tỉnh dậy.

Cô thay tạm tấm áo lụa xanh rộng rãi của phu nhân Ôn Tổ Ninh, đây là món hàng thêu tinh xảo được Ôn Tổ Ninh mua từ Kinh thành về, kiểu dáng tao nhã quý phái, nhưng mặc lên người Lục Kiều Kiều lại khiến cô trông như một con búp bê Tây.

Cô hút xong cữ thuốc, rửa mặt chải đầu gọn gàng, rồi mới liêu xiêu ra khỏi cửa phòng, chào hỏi qua loa mấy người nhà họ Ôn nhiệt tình, đoạn bước ra sân trước.

An Long Nhi và Jack đều đang ở trong sân, giữa sân còn có hai thằng bé trai đang luyện quyền.

Hai thằng bé kẻ tấn người lùi, quyền pháp trầm ổn cương mãnh, Lục Kiều Kiều không hiểu gì về võ thuật nhưng có thể nhận ra quyền pháp của chúng khác hẳn với An Long Nhi.

Công phu của An Long Nhi phóng khoáng mau lẹ, khi thi triển thì tựa như chân không chạm đất; còn quyền pháp của hai thằng nhóc này chậm rãi chắc chắn, đòn đánh ra nhất định rất đau.

Lục Kiều Kiều say sưa nhìn, bỗng dưng nhớ lại buổi chiều một tháng trước xem An Long Nhi luyện võ mãi nghệ ở bến Thiên Tự thành Quảng Châu. Hôm đó An Long Nhi vẫn được gọi là thằng bé tóc vàng, đối với cô chỉ là một đứa trẻ xa lạ, vậy mà chỉ vẻn vẹn một tháng, hai người đã trở thành chiến hữu cùng nhau vào sinh ra tử, An Long Nhi còn cùng cô lặn lội đường xa trở về quê nhà… Thật không thể không cảm thán trước sự an bài của số mệnh! Ban đầu Lục Kiều Kiều mua An Long Nhi về làm gia bộc, hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu làm ăn. Tiền thuốc của cô càng ngày càng nhiều, nếu chỉ loanh quanh ở chốn phong nguyệt coi bói bốc quẻ cho đám kỹ nữ, kiếm một tháng bảy tám chục lạng bạc, có thể coi như khá hơn rất nhiều ngành nghề, không phải không sống được, nhưng tiền tiết kiệm sẽ càng lúc càng ít, mà muốn kiếm một khoản tiền lớn thì chỉ còn cách xem phong thủy.

Trong thành có đầy danh sư phong thủy, ai lại đi mời một cô gái xem phong thủy kia chứ?

Cô đành mượn danh đàn ông con trai để kiếm tiền bằng nghề này, nhưng cô vốn không thể khiến một người đàn ông có kiến thức phong thủy tương đối nghe mình sắp đặt, tiền kiếm được rồi lại phải ăn chia với người ta, vì vậy lựa chọn tốt nhất chính là đích thân đào tạo một thằng bé hiểu biết võ vẽ về phong thủy.

Chỉ cần bản thân mối lái tâng bốc nó thành tiên đồng, rồi tự mình nắm bắt chuyện làm ăn cũng như bí quyết phong thủy mấu chốt, để thằng bé đó sắm vai một bảng hiệu sống biết nói là được.

Đứa bé này cần phải trung thành, vì nó phải kiếm tiền cho mình, không thể hại mình được; cũng cần mặt mũi sáng sủa, nếu vừa sáng sủa vừa cổ quái thì càng tốt, như vậy mới giống tiên đồng, càng hét được giá cao.

Trên thực tế, Lục Kiều Kiều cứu Đảo Địa Mộc Tinh cục bất lợi đường tôn tử cho thôn Trần gia, chính là thử nghiệm phương thức kiếm tiền này, một lần đã thu về được hai trăm lạng bạc. Số tiền một buổi chiều ấy kiếm được, còn hơn hai tháng khốn khổ chạy hết kỹ viện này tới kỹ viện kia, càng hơn nhiều so với số tiền một người bình thường kiếm được trong hai năm. Vụ Hùng Kê Đề Nhật trước mắt cũng một nhát chém bay một trăm lạng vàng của tri huyện đại nhân, có thể thấy làm thầy phong thủy dễ kiếm hơn coi bói nhiều.

Lục Kiều Kiều đứng sau lưng An Long Nhi, nhìn mái tóc vàng trên đầu thằng bé.

Qua chuyện xảy ra mấy ngày hôm nay, có thể thấy An Long Nhi vì bảo vệ cô mà không màng nguy hiểm bản thân, lại răm rắp nghe theo lời cô sắp đặt. Nếu không phải đang gặp chuyện, có lẽ bây giờ cô đã cùng An Long Nhi kiếm bộn bạc trong tỉnh thành rồi.

Ôn Hán Phong từ ngoài cửa bước vào, vừa thấy Lục Kiều Kiều lập tức cao giọng chào hỏi: “Tiên cô dậy rồi đấy ư, cô nghỉ ngơi đã khỏe chưa?”

Jack và An Long Nhi bấy giờ mới biết Lục Kiều Kiều đang đứng sau lưng mình. Mọi người chào hỏi lẫn nhau xong, Lục Kiều Kiều nói với Ôn Hán Phong: “Ôn tiên sinh, tiểu nữ cũng chỉ là người phàm, chẳng qua học được chút đạo thuật mà thôi, xin chớ chê cười, cứ gọi là Kiều Kiều được rồi.”

Ôn Hán Phong nói: “Vậy được, cung kính không bằng tuân lệnh, cô nương cũng gọi tại hạ là Hán Phong được rồi, người trong thôn đều gọi như thế cả.”

Ôn Hán Phong mời mọi người vào đại sảnh, phu nhân của Ôn Tổ Ninh liền gọi người bưng thức ăn lên, mọi người cùng ngồi xuống vừa ăn vừa nói chuyện.

Lục Kiều Kiều ngủ suốt một ngày một đêm, bụng đói đến phát điên, ra sức gắp thịt cá bỏ vào mồm, ăn một trận hồi lại người, mới ngồi sang một bên rót chén trà súc miệng; còn Jack và An Long Nhi vẫn tiếp tục chiến đấu.

Lục Kiều Kiều biết Ôn Hán Phong lần này tới không thể chỉ đơn giản là thăm hỏi trò chuyện thông thường, bèn khơi chuyện trước: “Hán Phong đại ca, có chuyện này tiểu nữ không hiểu lắm…” Cô đặt chén trà xuống, nhìn sang Ôn Hán Phong.

“Nghe nói lần trước có người phá huyệt Linh Quy Ẩm Thủy của thôn Ôn Phượng, là vì người thôn Thượng Cát hận các vị làm hỏng phong thủy của bọn họ, bỏ ra một khoản tiền lớn mời thầy về ra tay. Nhưng giờ Hữu Hiên tiên sinh đã sắp xếp cho cả hai thôn một cái huyệt mới, cùng táng chung tiên tổ, một tháng nay mọi người đều bình an vô sự, giờ đột nhiên lại có người tới phá hoại, huynh nghĩ… có phải vẫn là người thôn Thượng Cát làm không?”

Ôn Hán Phong mỉm cười, nét mặt có vẻ ngượng ngùng: “Lần này đương nhiên không thể là bọn họ rồi, nếu không nhờ tiểu thư ra tay cứu giúp, người thôn bọn họ cũng hầu như chết sạch trong đêm Trung thu…”

Lục Kiều Kiều hỏi: “Các vị vẫn còn hằn thù với ai ư?”

Ôn Hán Phong trầm ngâm một lúc, đoạn mỉm cười lắc đầu: “Chúng tôi là thương nhân làm ăn đường hoàng, nếu có đắc tội với ai, tôi nghĩ cũng chỉ là tranh chấp chốn thương trường, tiểu thư biết đấy, chuyện làm ăn, có người được thì có người mất mà…”

Câu trả lời này xem ra hoàn toàn là giả dối. Nếu chỉ là cạnh tranh trong thương trường, căn bản không thể dẫn đến chuyện bày ra sát cục phong thủy khiến cả hai thôn diệt tộc thế này, càng không thể có người chủ đích mời về hai thầy phong thủy trình độ cao thâm lại liều mạng nhường ấy.

Đã đến nước này, Ôn Hán Phong vẫn không chịu nói ra chân tướng, càng chứng tỏ đằng sau chuyện này còn có một vấn đề lớn hơn nữa.

Lục Kiều Kiều ngồi bên trà kỷ, nhoài người lại gần, quan sát Ôn Hán Phong hồi lâu làm ông ta lúng túng, bấy giờ mới đột nhiên thì thầm: “Chuyện này còn chưa xong đâu, các vị không chịu nói tôi cũng không cách nào giúp được.”

Ôn Hán Phong bật cười ha ha mấy tiếng: “Lục tiểu thư đã giúp chúng tôi một việc lớn như vậy, đây là chút thành ý của thôn chúng tôi, xin tiểu thư nhận cho.” Nói đoạn rút trong người ra một tấm ngân phiếu của Sơn Tây tiền trang, bên trên viết “Năm trăm lạng bạc ròng”, hai tay cung kính đưa cho Lục Kiều Kiều.

Lục Kiều Kiều thấy lại có tiền để thu, đương nhiên không khách khí, năm trăm lạng này cứu tính mạng nam đinh một thôn, có nhận cũng không hổ thẹn.

Ôn Hán Phong lại nói tiếp: “Không biết hôm nay Lục tiểu thư có thể dẫn Hàn Phong lên huyệt Hùng Kê, chỉ điểm cho Hàn Phong vài chỗ, cũng coi như tạo phúc trăm năm cho bách tính hai thôn được không?”

Lục Kiều Kiều đang định ban ngày lên núi thăm lại huyệt mộ, An Long Nhi và Jack cũng muốn lên xem hiện trường tối qua. Càng ngày Jack càng cảm thấy kinh ngạc trước sức mạnh của phong thủy, càng thêm hứng thú lên núi thăm huyệt. Vậy là đợi chuẩn bị ngựa xong, bốn người lập tức lên đường.

Vùng điền dã giữa tiết thu trong lành dễ chịu, bốn người cưỡi ngựa dạo một vòng thôn, theo yêu cầu của Lục Kiều Kiều, lại tới xem nơi bắt nguồn bao chuyện gần đây, huyệt Linh Quy Ẩm Thủy. Với bản tính hiếu kỳ của người học đạo, Lục Kiều Kiều tỉ mỉ quan sát kiểm tra một lượt cát huyệt đã bị phá hoại này, lại dùng la bàn đo đạc cẩn thận. Cuối cùng bốn người vừa ngắm phong cảnh, vừa chậm rãi dắt ngựa lên núi.

Tới từ đường ở lưng chừng núi, huyệt Hùng Kê Đề Nhật mà Hữu Hiên tiên sinh điểm đã ở trước mặt.

Hai hôm trước Lục Kiều Kiều đêm hôm mò lên đây là để bắt thầy phong thủy quay lại kiểm tra mộ phần, tâm tư đặt hết vào chuyện giải sát cục và bắt người, không để ý lắm tới quang cảnh xung quanh, giờ bình tĩnh quay lại huyệt Hùng Kê Đề Nhật, mới có cơ hội quan sát huyệt mộ cho tử tế.

Lục Kiều Kiều dừng ngựa trước từ đường, gọi An Long Nhi châm cho một tẩu thuốc, tay chống eo ngửa đầu nhìn gió núi nuốt mây nhả sương xem phong thủy.

Dãy Kê Đề thế núi mạnh mẽ, rừng núi rậm rạp, tuy Lục Kiều Kiều không có thời gian lên hẳn đỉnh núi tìm điểm khởi nguồn của long mạch, nhưng chỉ đứng từ thôn Ôn Phượng dưới chân núi nhìn lên đã có thể nhận ra long mạch này thuộc Hùng Long kết huyệt (khúc cuối của Hùng Long), dễ thấy nhất là các âm địa như hang núi đầm nước phối hợp với nhau, âm dương hòa hợp đương nhiên phát ra phong khí vương giả.

Trên dãy Kê Đề vốn có một con suối, uốn lượn ngoằn ngoèo chảy xuống chân núi, giữa lưng chừng đọng thành một đầm nước ngọt, quả nhiên là hình thế thượng hảo trong phong thủy.

Lục Kiều Kiều đứng trước từ đường nhìn xuống chân núi, dưới chân núi là đồng ruộng bao la, dòng suối rừng từ trên dãy Kê Đề chảy xuống ruộng lúa nước bên dưới vẫn trong mát ngọt lành, tưới mát cho đồng ruộng thôn làng, đồi núi phì nhiêu sông nước hiền hòa, phúc thọ phú quý đương nhiên không phải lo nghĩ.

Phía xa là mạch núi như bức bình phong, quây lấy ruộng lúa nước dưới chân núi không để nước chảy đi, hình thành một cục thế mạnh mẽ.

Bắt mắt nhất là ngọn núi cao phía xa, hình dáng như con gà trống sừng sững, lại như lá cờ chiến bay phần phật khi tướng quân bày trận, Lục Kiều Kiều lấy chiếc la bàn từ trên lưng ngựa đo đạc, thấy ngọn Hùng Kê nằm ở vị trí Thiếu Vi tinh đại cát trong Tam cát lục tú.

Thì ra Hữu Hiên tiên sinh sau khi bố cục gọi tượng này là Hùng Kê Đề Nhật, “hùng kê” trong cục không phải chỉ dãy Kê Đề, mà là ngọn Hùng Kê đối diện huyệt vị. Từ đường nằm ở phía Đông hướng sang Tây, khi mặt trời ló lên từ dãy Kê Đề sau lưng từ đường, tia nắng đầu tiên nhất định sẽ chiếu xuống ngọn Hùng Kê cao nhất phía trước huyệt, hậu nhân huyệt này chắc chắn phát nhờ nghiệp võ, lẫy lừng tứ hải.

Lục Kiều Kiều không khỏi thốt lên tán thưởng: “Quả là huyệt tốt hiếm có!”

Mọi người cũng đã ngắm đủ phong cảnh, giờ chỉ muốn nghe Lục Kiều Kiều giảng giải kết quả xem phong thủy, thấy cô lên tiếng đều tập trung lại quanh cô.

Nào ngờ Lục Kiều Kiều chẳng nói gì nữa, quay người đi tới minh đường phía trước từ đường.

Minh đường vẫn còn đọng nước, Lục Kiều Kiều gọi Ôn Hán Phong lại: “Đây là chỗ linh diệu của huyệt Hùng Kê Đề Nhật, chắc hẳn Hữu Hiên tiên sinh đã giải thích cho các vị rồi.”

Ôn Hán Phong gật đầu đáp phải. Lục Kiều Kiều lại nói tiếp: “Hùng Kê trong Hùng Kê Đề Nhật có phải chỉ ngọn núi đối diện kia không?”

Ôn Hán Phong lấy làm ngạc nhiên: “Lục tiểu thư đúng là có con mắt tinh tường, Hữu Hiên tiên sinh quả có nói như thế.”

Lục Kiều Kiều mỉm cười chỉ vào lỗ thoát nước bị gỗ bịt kín: “Đây là huyệt tốt hiếm có, có điều bị người ta tạm thời phá hoại, lỗ thoát nước bị bít lại, lỗ thoát trong từ đường chắc cũng tương tự, minh đường và từ đường tích nước, lại thêm tấm gương kẻ gian đem tới treo lên trước cửa lớn từ đường…” Lục Kiều Kiều vừa bước vào từ đường vừa chỉ cho Ôn Hán Phong thấy. “Thông qua tính toán chuẩn xác, vào đêm Trung thu đem khí âm hàn của mặt trăng, cộng thêm trận bùa bày bằng gương và phương hướng chòm sao, hình thành tà quang mê ảo có sức sát thương lớn, chiếu thẳng vào bên trong từ đường…”

Ôn Hán Phong chau mày nghe Lục Kiều Kiều giảng giải, không ngừng gật đầu.

“Khi tà quang chiếu đến bài vị và kim tháp, cũng là lúc các vị phát điên chém giết lẫn nhau. Trên thực tế, cách làm này chủ yếu nhằm để giết người, chứ không thật sự gây tổn hại cho long huyệt, cũng có nghĩa là, người bày cục hòng hại các vị, theo kế hoạch sẽ còn tới lần nữa, bọn họ muốn phá huyệt…”

Nói đến đây, Lục Kiều Kiều nhìn sang Ôn Hán Phong, sắc mặt ông ta rất khó coi, nhưng nụ cười vẫn gắn chặt trên môi.

Lục Kiều Kiều lại tiếp: “Nếu vào tối Trung thu, Mão Kê Ảo Nguyệt cục bày ra ở đây có thể giết sạch nam đinh hai thôn các vị, thì giờ quay lại đây phá huyệt chắc chắn dễ hơn nhiều rồi, ha ha…”

Giọng Lục Kiều Kiều lạnh tanh, tiếng cười cũng sắc lẹm.

Ôn Hán Phong nghe đến đây cũng cười khan mấy tiếng theo Lục Kiều Kiều, không nói năng gì. Lục Kiều Kiều thấy Ôn Hán Phong không nói gì, lại tiếp tục xem phong thủy.

“Đúng rồi, nước này là từ đâu ra nhỉ?” Lục Kiều Kiều lẩm bẩm đi ra khỏi từ đường, đưa mắt quan sát trên dưới bốn phía.

Chợt An Long Nhi gọi Lục Kiều Kiều lại: “Cô Kiều xem này, ở đây có mấy cái lỗ…”

Mọi người bước lại xem, quả nhiên thấy trên mặt đất có dấu vết như bị ghế chèn xuống, hơn nữa những vết này còn kéo dài cách quãng ra tận sau từ đường.

Phía sau từ đường là sườn núi, trên sườn núi có dòng suối rừng lững lờ chảy xuống, mọi người lần theo vết lõm, vào trong khu rừng đằng sau từ đường, đây chính là nơi tối qua phát hiện hai tên áo đen ẩn nấp, nhìn dưới mặt đất có thể trông thấy rất nhiều tre bương to tướng, có cây bị chặt thành đoạn, có cây lại bị chẻ làm đôi, những cây bị chẻ dài nhiều hơn so với những cây bị chặt.

Đến đây thì tất cả đã sáng tỏ, hóa ra kẻ gian dùng ống tre lắp thành đường dẫn nước, hứng nước từ con suối sau từ đường, cho đi qua ống tre đổ vào minh đường và từ đường.

Lục Kiều Kiều cười nhạt nói giễu Ôn Hán Phong: “Giờ Hán Phong đại ca đã biết người muốn hại các vị mời về một thầy phong thủy pháp thuật cao nhường nào rồi chứ? Ha ha, vụ làm ăn của anh cũng thật là đáng tiền đấy…”’

Ôn Hán Phong cúi đầu cười hùa theo, nói: “Cũng không hẳn, không hẳn…”

Jack vẫn còn nhớ rõ chuyện xảy ra đêm hôm trước, hiếu kỳ hỏi Ôn Hán Phong: “Tối đó ngài cũng có mặt trong đám người đánh nhau, mọi người vì cớ gì tự nhiên động chân động tay vậy?”

Ôn Hán Phong nhớ lại chuyện xảy ra tối Trung thu không khỏi đưa tay lên xoa vết sẹo trên trán: “Lúc đó chúng tôi đang uống rượu nói chuyện, vì đã có thù oán với người thôn Thượng Cát từ trước, nên giờ nhất thời cũng không thể quá tín tưởng nhau, mọi người đều mang theo binh khí… Sau đó tôi cảm thấy người bên đối phương đang rút đao, hơn nữa tất cả đều xông vào định giết tôi, tôi cũng chỉ còn cách ứng chiến… Thực ra căn bản không biết mình đã biến thành kẻ điên, tôi khi đó chỉ nghĩ mình hình như uống hơi quá chén, vừa bắt đầu đã rất kích động, về sau cơ thể càng lúc càng lực bất tòng tâm, càng lúc càng thấy lạnh, rồi hoàn toàn mất tri giác, sau khi tỉnh lại mới biết xảy ra chuyện lớn như thế, bản thân vừa được trở về từ Quỷ Môn quan…”

Lục Kiều Kiều cười ha hả: “Các vị bày bữa rượu giảng hòa nhân dịp Trung thu, vốn là chuyện tốt, nhưng cả hai bên lại giắt đao dự tiệc thì chẳng ra sao rồi, ít nhiều cũng là tự rước vạ vào thân.”

Ôn Hán Phong thở dài đáp: “Ôi chao… Lục tiểu thư không biết đấy thôi, thôn chúng tôi lâu nay so với thôn Thượng Cát vẫn sung túc hơn đôi chút, điều này khiến bọn họ rất không bằng lòng. Vì chuyện huyệt Linh Quy, chúng tôi đã chủ động trao đổi nhiều lần, thậm chí còn đồng ý bồi thường tiền hòa giải, nhưng bọn họ ra tay quá tàn nhẫn. Chúng tôi đâu chỉ đơn thuần là không hợp chuyện, gần như hễ gặp mặt là đánh nhau ấy chứ, không cẩn thận khéo mất mạng như chơi…”

Lục Kiều Kiều đột nhiên nói với Ôn Hán Phong: “Hán Phong đại ca không phải thương nhân, mà là võ tướng.”

Ôn Hán Phong sững người giây lát, rồi lập tức cười nói: “Ha ha, Hán Phong làm gì có cái phúc phận ấy, Hà đại nhân rất quen thân với chúng tôi, tôi cũng buôn bán nhiều năm rồi, còn là giả được sao… Lục tiểu thư dựa vào đâu mà nói như thế?”

Lục Kiều Kiều nói: “Thế phong thủy Hữu Hiên tiên sinh bày cho các vị không chi vượng đinh vượng tài, mà còn có tác dụng thúc đẩy quan vận, ngọn núi hình gà trống ở đằng xa kia cũng có hình cờ chiến, giúp hậu nhân của huyệt này trở thành võ quan giữ chức vị thuộc hàng tam công[7]… ứng nghiệm sau ba năm nữa là năm Kỷ Dậu.”

Lục Kiều Kiều nhìn chằm chằm vào Ôn Hán Phong, thấy nét mặt ông ta vẫn không hề thay đổi, chỉ có nụ cười càng lúc càng lịm đi, cô chậm rãi nói tiếp: “Hữu Hiên tiên sinh là thầy phong thủy, đương nhiên hiểu rõ, ông ta cũng sẽ nói rõ với các vị tác dụng và thời gian ứng nghiệm của huyệt này. Trong từ đường cửa mở hai cánh, bên trái bàn thờ là Lương gia, bên phải là Ôn gia, nhưng chỉ riêng bên Ôn gia các vị mới ở chính diện với ngọn núi hình gà trống, Lương gia bên thôn Thượng Cát chỉ có thể được phú quý bình an, cục Hữu Hiên tiên sinh bày ra, hoàn toàn nghiêng về phía thôn Ôn Phượng!”

Nụ cười của Ôn Hán Phong đã hoàn toàn biến mất, thay vào đó là khuôn mặt cứng đờ vô cảm.

Lục Kiều Kiều vừa nói, vừa từ từ bước lại gần Jack: “Huyệt Linh Quy Ẩm Thủy vừa thấy dưới chân núi, khí điểm chủ yếu cũng nằm ở ngọn Hùng Kê hình cờ chiến này, có nghĩa là, mục đích mới đầu các vị điểm huyệt Linh Quy Ẩm Thủy, cũng nhằm nở mày nở mặt bằng đường võ bị. Nếu vậy năm Kỷ Dậu tới đây nhất định sẽ xảy ra chuyện gì đấy? Chuyện này không phải chỉ là trùng hợp với huyệt Hùng Kê Đề Nhật thôi chứ?”

Ôn Hán Phong đầu mướt mồ hôi, đi ra bên mặt núi nhìn xuống đồng ruộng bên dưới, hẳn không muốn để Lục Kiều Kiều trông thấy nét mặt mình thay đổi.

Lục Kiều Kiều cũng không muốn vòng vo kéo dài thời gian, giọng nói hùng hổ bức người: “Tôi đã xem qua linh bài tổ tiên nhà các vị, thôn các vị không hề có người thi khoa cử, ban nãy ở dưới thôn tôi cũng để ý không thấy ai làm quan, nhà có phong thủy tốt nhất thôn chính là nhà của Hán Phong đại ca và Ôn Tổ Ninh, hai người hiện giờ đang sắm vai thương nhân, định ba năm sau lên hàng tam công, chẳng nhẽ muốn kiếm một chức quan?” Lục Kiều Kiều vừa thăm dò, vừa âm thầm bước tới sau lưng Jack, miệng cười tủm tỉm, vẻ thâm sâu khó lường, nghiêng đầu nhìn Ôn Hán Phong, đợi câu trả lời.

Ôn Hán Phong thở dài than: “Lục tiểu thư đúng là thần tiên tái thế, chỉ đáng tiếc…”

Tất cả lặng thinh, Lục Kiều Kiều cầm tay phải Jack đặt lên báng súng bên hông anh ta.

Ôn Hán Phong vẫn quay mặt về phía thôn trang đồng ruộng bên dưới, ánh nắng ấm áp chiếu lên sườn núi, nhưng gió núi thổi tới lại khiến lòng người lạnh buốt.

Lục Kiều Kiều thấy hai tay Ôn Hán Phong chắp sau lưng đồng thời làm ra hai dấu tay khác nhau: ngón cái và ngón trỏ tay trái gập lại, ngón giữa, ngón áp út và út duỗi thẳng; tay phải nắm chặt, ngón trỏ và ngón cái chĩa ra thành hình chữ bát, gan bàn tay hướng xuống mặt đất.

Lục Kiều Kiều nhìn trân trân bóng lưng Ôn Hán Phong, khe khẽ đọc từng từ. “Tam… bát… nhị thập nhất.”

Ôn Hán Phong nghe Lục Kiều Kiều đọc lên mấy con số này thì trầm ngâm một hồi, rồi từ từ quay người lại.

Nhanh như chớp, tay phải Jack rút khẩu súng lục, “cạch” một tiếng, ngón cái đồng thời đặt lên chốt lẫy. Khi ánh mắt sắc lẹm của Ôn Hán Phong quét tới Lục Kiều Kiều, cũng là lúc khẩu súng chĩa thẳng vào đầu ông ta.

An Long Nhi vẫn chưa hiểu xảy ra chuyện gì, đang ngơ ngác không biết nên làm thế nào, chợt trông thấy Jack chĩa súng vào Ôn Hán Phong, bèn nhảy phắt sang đứng bên Jack và Lục Kiều Kiều.

Đối diện với nòng súng, Ôn Hán Phong lấy lại nụ cười mỉm như ban đầu, sau khi mọi chuyện được phơi bày, trái lại ông ta càng bình tĩnh.

Thì ra Ôn Hán Phong chắp tay sau lưng ra dấu, chính là ám hiệu Hồng Môn.

Hồng Môn là tổ chức nổi tiếng triều Thanh, không ngừng vũ trang đòi phản Thanh phục Minh. Rất nhiều các tổ chức phản kháng như Bạch Liên giáo, Tiểu Đao hội, Thiên Địa hội…, đều bắt nguồn từ Hồng Môn. Nhằm ngăn chặn gian tế nhà Thanh thâm nhập vào Hồng Môn, tổ chức này đã đặt ra vô số các ám ngữ, thủ ngữ cùng Trà Bôi trận nổi tiếng. Huynh đệ Hồng Môn gặp mặt xuất thủ đều phải có ba người, nhất định sẽ dùng dấu tay biểu thị số ba (tam), dù giữa chốn đô hội không thể nói chuyện, cũng có thể dùng dấu tay giao tiếp.

Tay Ôn Hán Phong đã ra dấu “tam bát nhị thập nhất”, dãy số này hợp thành một chữ “Hồng”[8]: “tam” là ba chấm thủy bên trái, “bát” là hai nét bên dưới bộ chữ bên phải, “nhị thập nhất” chính là phần bên trên của chữ “cộng”[9] bên phải, bên dưới chữ “trập”[10] là nhị thập thêm một nét ngang là nhất, vừa vặn hợp thành chữ “Hồng”.

“Tam bát nhị thập nhất” là ám hiệu bí mật dùng để nhận biết của huynh đệ Hồng Môn, nếu không phải người đã kinh qua thẩm tra sát hạch bối cảnh gia thế nghiêm ngặt hoặc gia nhập Hồng Môn học qua ám hiệu, thì không thể đọc giải được.

Ôn Hán Phong nghe Lục Kiều Kiều đọc ra thủ ngữ, lòng đã yên tâm phần nào, biết còn có thể nói chuyện: “Lục tiểu thư quả thực không gì không biết, rốt cuộc có lai lịch thế nào? Phải chăng là bát muội trên núi?”

Câu hỏi này của Ôn Hán Phong cũng có cài cắm bên trong, tổ chức Hồng Môn dựa vào khu vực mà phân thành “sơn đầu”, dưới “sơn đầu” lại được chia làm các “đường khẩu”, đại tỉ đại tẩu đã kết hôn ám ngữ gọi là “tứ tỉ”, tiểu muội chưa chồng gọi là “thất muội”, trong ám ngữ Hồng Môn “bát muội” hoàn toàn là nói bừa.

Ôn Hán Phong đưa ra câu hỏi giảo hoạt như vậy, để xem Lục Kiều Kiều có thể nghe ra ám hiệu sai hay không, ngoài ra cũng nhằm dò đoán cấp bậc của Lục Kiều Kiều trong Hồng Môn.

Từ phong thủy thôn Ôn Phượng, Lục Kiều Kiều sớm đã nhìn ra thôn này được bố cục như hành binh đánh trận, điều này đối với một thôn trang nhất định có chút cổ quái, nhưng người muốn tạo phản cũng phải xem căn nguyên thế nào, nên mới hùng hổ hăm dọa như thế.

Giờ Lục Kiều Kiều cuối cùng đã có được kết quả mong muốn, mối nghi ngờ trong lòng cũng đã khai ra manh mối, cô nhìn Ôn Hán Phong vui vẻ bật cười khanh khách. Cười đã rồi cô mới nói: “Tiểu nữ là thất muội trên núi, lấy đâu ra bát muội? Hán Phong đại ca không cần lo lắng, tiểu nữ được Hà đại nhân bỏ ra một trăm lạng vàng mời về kiểm tra lại phong thủy thôn các vị, chỉ đi ngang qua Thanh Thành thôi, đôi bữa nữa còn phải lên đường về quê nữa kìa.”

Ôn Hán Phong nghe Lục Kiều Kiều xưng là “thất muội” thì nhẹ cả người: “Hóa ra đều là huynh đệ tỉ muội, nếu vậy súng có thể thu lại rồi chứ?”

Jack và An Long Nhi quay sang nhìn nhau – hai người này đều nói tiếng người mà sao mình nghe chẳng hiểu gì cả?

Lục Kiều Kiều mỉm cười ấn khẩu súng trên tay Jack xuống, vỗ vào mông anh ra ý thu súng lại, rồi nói với Ôn Hán Phong: “Hai vị tiểu ca này là huynh đệ của tiểu nữ, cũng là ân nhân cứu mạng các vị, Hán Phong đại ca đừng nên làm khó họ.”

Ôn Hán Phong cười lớn: “Hai vị huynh đệ trí dũng vẹn toàn, là đại quý nhân của thôn chúng tôi, sao có thể làm khó hai vị được? Lục tiểu thư, phong thủy cũng xem hòm hòm rồi, chi bằng về tệ xá nghỉ ngơi?”

Lục Kiều Kiều biết bước tiếp theo phải làm gì. Theo quy định của Hồng Môn, nhập sơn phải bái sơn đầu, nơi sắp đến không phải nhà Ôn Hán Phong mà là đường khẩu Hồng Môn của thôn Ôn Phượng. Để đi tiếp nước cờ sau, đường khẩu này nhất định phải bái.

Được Ôn Hán Phong dẫn đường, bốn người cùng thúc ngựa xuống núi.

Về đến thôn Ôn Phượng, Ôn Hán Phong dẫn bọn Lục Kiều Kiều đi qua vô số ngõ hẻm lắt léo trong thôn, đến trước một ngôi nhà lớn thì nhảy xuống ngựa, mời mọi người vào nhà.

Dọc đường vào nhà đều có người hầu kẻ ở chào hỏi Ôn Hán Phong, vào đến giữa nhà là một mảnh sân lộ thiên, hai bên đều có giá vũ khí, cắm đầy trường thương đại đao.

Đi tiếp vào chính là trung đường, hai bên bày mười hai chiếc ghế thái sư, chính giữa phía trên cao đặt một tấm hoành phi, trên viết “Quốc thái dân an”, dưới hoành phi treo một bức tranh sơn thủy.

Lục Kiều Kiều nhẩm đếm số sơn mạch trong tranh, tổng cộng có chín dải, bèn quay sang hỏi Ôn Hán Phong: “Hán Phong đại ca, đây là núi Cửu Long chăng?”

Ôn Hán Phong cười nói: “Biết là tốt.”

Vốn dĩ trong các sơn đầu được Hồng Môn chia ra, vùng Quảng Đông ứng với núi Cửu Long, bức tranh này là dấu hiệu trong đường khẩu Hồng Môn. Lục Kiều Kiều mở miệng nói đến núi Cửu Long, Ôn Hán Phong đương nhiên trong lòng biết rỗ.

Ôn Hán Phong đợi mọi người vào cả trong phòng, mới sai người đóng cửa, còn mình bước tới chiếc bàn dài dưới bức tranh núi Cửu Long, lấy từ dưới một bát hương nhỏ đặt lên bàn, lại rút ra một thẻ hương vàng đặt cạnh bát hương, sau đó mới giơ tay nắm lấy bức tranh Cửu Long sơn thủy lật sang mặt bên kia, để hiện ra một bức tranh “Quan Công đọc sách đêm”. Hai bên là đôi câu đối, viết “Đình vô chung nhật hảo, Hoa hữu bán triều hương”. Cuối cùng, ông ta đứng sang một bên, mỉm cười đưa tay ra ý mời Lục Kiều Kiều.

Đây rõ ràng là muốn xem Lục Kiều Kiều biểu diễn, chỉ cần cử chỉ của Lục Kiều Kiều có nửa phần sai lệch, Ôn Hán Phong tất sẽ nghi ngờ xuất thân của cô.

Lục Kiều Kiều đưa tay ra rút chín nén hương, đưa cho Jack và An Long Nhi mỗi người ba nén, bảo hai người làm theo mình.

Cô châm hương, đứng vào chính giữa, hai tay dùng ngón trỏ và ngón giữa kẹp ba nén hương, ngón cái xòe ra, ngón áp út và út cong lên, làm ra dấu hiệu “Thiên” trong hệ thống thủ ngữ của Hồng Môn, hai tay cùng giơ cao quá đầu, người từ từ quỳ xuống, đọc to bốn câu thơ:

“Hồng thủy tràn lan khắp thiên hạ,
Tam thiên kết bái mận đào hồng.
Sừng sững cây cao thiên hạ biết,
Hồng thủy kết bái đều một lòng.”

Đọc xong thơ, quỳ dưới đất vái ba vái, sau đó đứng dậy, dùng ngón trỏ và ngón cái hai tay giữ chặt hương, ba ngón còn lại duỗi thẳng, làm ra dấu hiệu “Địa” cắm hương vào bát hương. Jack và An Long Nhi tuy không hiểu gì nhưng cũng không dám chậm trễ, răm rắp làm theo.

Ba người thắp xong hương, Ôn Hán Phong đã tươi cười rạng rỡ, nhiệt tình bước lại một tay đặt lên vai An Long Nhi, một tay vỗ lên cánh tay Jack nói: “Có được những huynh đệ tốt thế này, sao phải lo việc lớn không thành chứ! Lục tiểu thư, tối nay hãy ở lại chỗ ta ăn cơm, Hán Phong phải gọi huynh đệ tỉ muội khắp thôn cùng tới tạ đại ân đại đức của các vị!”

Lục Kiều Kiều đương nhiên vui mừng, bởi chuyện thôn Ôn Phượng đến giờ mới xem như có chút manh mối, muốn biết thêm nữa thì phải tiếp tục đi sâu tìm hiểu. Vì vậy cô mau mắn nhận lời mời cơm của Ôn Hán Phong, sau đó nói muốn về phòng nghỉ ngơi chốc lát, rồi dẫn theo Jack và An Long Nhi quay trở lại nhà Ôn Tổ Ninh.

Về phòng mình, cô lập tức tìm tẩu thuốc hút liền mấy hơi, sau mới giải thích cho Jack và An Long Nhi bí mật của Hồng Môn cùng hàm ý từng hành động nhỏ nhặt ban nãy, đồng thời dặn đi dặn lại hai người: chuyện Hồng Môn có chết cũng không được tiết lộ ra ngoài, bằng không chẳng những triều đình muốn lấy đầu họ mà người của Hồng Môn cũng sẽ không tha cho họ.

Jack lấy làm lạ hỏi: “Kiều Kiều, em biết nhiều chuyện như vậy, em cũng là người của Hồng Môn ư?”

Lục Kiều Kiều cười nhạt: “Hứ, giờ chúng ta đang ở thôn Ôn Phượng, cả cái thôn này đều là người Hồng Môn, tôi có thể không phải người Hồng Môn chắc?”

Buổi tối, ba người Lục Kiều Kiều đi cùng người nhà Ôn Tổ Ninh sang nhà Ôn Hán Phong.

Nhà Ôn Hán Phong đã bày hơn ba chục chiếc bàn lớn từ ngoài sân vào đến tận trung đường, bàn nào bàn nấy chật kín người, nói cười huyên náo. Ba người bọn Lục Kiều Kiều được xếp ở mâm trên, ngồi cùng Ôn Hán Phong và Ôn Tổ Ninh.

Thức ăn còn chưa mang lên, đám trai tráng được cứu tối Trung thu cùng gia quyến đã lần lượt tới trước mặt Lục Kiều Kiều dập đầu cảm tạ.

Có thể dễ dàng nhận ra những người từng được Lục Kiều Kiều cứu, bởi trước trán bọn họ đều có một vết phỏng do châm que ngải. Bọn họ vừa ngẩng đầu lên nhìn Lục Kiều Kiều, những vết sẹo ấy liền đập vào mắt cô, khiến cô không nhịn được cười. Dân thôn Ôn Phượng cho rằng tiên cô rất thích họ, lại càng vui mừng phấn khởi uống rượu đoán quyền.

Tiết mục bày tỏ tấm lòng xong xuôi, bàn Lục Kiều Kiều ngồi cũng được yên tĩnh đôi chút, đến lượt Ôn Tổ Ninh muốn kính rượu Lục Kiều Kiều. Con người thấp béo này nhìn bề ngoài có vẻ thô kệch, nhưng ăn nói lại rất nhã nhặn: “Mạng Tổ Ninh là nhờ Lục tiểu thư giữ lại, thật không ngờ tiểu thư cũng là huynh đệ tỉ muội của chúng tôi, Tổ Ninh này thật có phước ba đời. Lục tiểu thư, tôi xin kính tiểu thư một chén.”

Lục Kiều Kiều cả ngày hôm nay chưa động đến giọt rượu nào, nhưng vẫn nói: “Tiểu muội xưa nay không biết uống rượu, xin được lấy trà thay rượu, đa tạ đại ca.”

Ôn Tổ Ninh cạn xong chén của mình, mượn hơi rượu hỏi Lục Kiều Kiều: “Lục tiểu thư, tôi đã nghe Hán Phong nói qua chuyện hôm nay tiểu thư lên núi xem huyệt Hùng Kê Đề Nhật, có điều này tôi vẫn không rõ lắm, muốn thỉnh giáo tiểu thư.”

Lục Kiều Kiều đặt chén trà xuống hỏi: “Là điều gì?”

Ôn Tổ Ninh đáp: “Thôn Ôn Phượng chúng tôi, nam nữ già trẻ lớn bé tổng cộng vài trăm nhân khẩu, vì sao vào tối Trung thu, chỉ có mấy người chúng tôi vào Thanh Thành uống rượu mới xảy chuyện?”

Lục Kiều Kiều nói: “Không ngờ Ôn đại ca còn là người rất cẩn trọng tỉ mỉ, ngay đến những chuyện này cũng chú ý tới… Thực ra sát cục phong thủy dùng nước bày ra này, lợi dụng ánh sáng di chuyển của mặt trăng sản sinh ra sát khí, về mặt thời gian chỉ công hiệu trong vòng hai canh giờ, lại vì ánh trăng phải khúc xạ từ minh đường bên ngoài vào từ đường bên trong, đường khúc xạ xa, ánh sáng đương nhiên cũng hẹp đi, ánh sáng càng hẹp, càng tập trung vào những người cần hại nhất định.”

Ôn Tổ Ninh nói: “Vì vậy mà chỉ tập trung vào đám người chúng tôi?”

Lục Kiều Kiều nhìn sang Ôn Hán Phong ngồi bên: “Thực tế là, kẻ bày cục hiểu rất rõ trước tiên cần đối phó với nhóm người nào trong thôn. Đạo sát khí trong cục này, công vào từ đường quẻ Càn phương vị sao Mão Nhật Kê, chỉ sát hại đàn ông trung niên đã có con trong thôn…”

Lục Kiều Kiều nói thẳng với Ôn Hán Phong: “Như sáng nay tiểu nữ đã đề cập, kế hoạch của đối phương hoàn toàn có thể là giết hết đàn ông trai tráng khỏe mạnh trong thôn trước, rồi mới thực sự phá cục thế phong thủy đối phó đàn bà trẻ nhỏ toàn thôn. Hán Phong đại ca, các vị cho rằng bọn người áo đen kia là ai?”

Ôn Hán Phong nói: “Chúng ta vào trong hẵng nói.”

Đoạn cắt đặt Jack và An Long Nhi tiếp tục dùng cơm, còn mình và Ôn Tổ Ninh, Lục Kiều Kiều vào trong nội đường uống trà.

Lúc này, cuối cùng Ôn Hán Phong mới bằng lòng kể ra đầu đuôi sự việc.

Vốn là thôn Ôn Phượng trực thuộc Thái An đường núi Cửu Long trong Hồng Môn, Ôn Hán Phong chính là đường chủ Thái An đường. Vì đại nghiệp phản Thanh phục Minh, Thái An đường vẫn đi theo con đường thương nghiệp gom góp kinh phí, đợi ngày khởi nghĩa. Để có điều kiện thuận lợi dưỡng binh tích lương trong khu vực Thanh Thành, thôn Ôn Phượng xưa nay qua lại rất mật thiết với nha môn Thanh Thành, làm vậy một là có thể che mắt quan phủ, hai là có thể tạo ra tham quan ô lại, ba là có thể từ bên trong biết được không ít động tĩnh của triều đình. Đồng thời bọn họ đã vạch sẵn kế hoạch, một khi khởi nghĩa, đầu tiên có thể chiếm lấy Thanh Thành dễ như trở bàn tay.

Hai năm trước, long đầu núi Cửu Long phát ra mật lệnh, vào năm Kỷ Dậu các sơn đầu phía Nam đồng thời dấy binh chiếm thành đoạt đất, trước tiên chiếm lĩnh vùng Trung nguyên Nam bộ, sau đó tiến đến Bắc bộ.

Thế là Thái An đường tài lực dồi dào, bèn bỏ ra một món tiền lớn mời từ Giang Tây một thầy phong thủy tên Triệu Kiến về tu mộ tạo huyệt, định cậy vào phong thủy bảo đảm khởi nghĩa Kỷ Dậu giành được thành công.

Ôn Hán Phong nói với ông ta, thôn Ôn Phượng xưa nay thượng võ, đang chi tiền đút lót quan phủ, định mua một chức quan võ cắt người đảm nhận, hy vọng bốn năm sau có thể lên như diều gặp gió, làm đại quan.

©STENT:

Triệu Kiến nhận lời ngay, bày ra Thập Diện Mai Phục huyệt.

Ai ngờ cái huyệt Thập Diện Mai Phục này tiêu hao địa khí quá lớn, làm thôn Thượng Cát bên bờ sông đối diện lụn bại quá nhanh, dẫn đến việc sau này Triệu Kiến tham tiền quay lại phá huyệt cục diện mới thành ra như ngày hôm nay.

Nguyên khí thôn Ôn Phượng thương tổn nghiêm trọng, Ôn Hán Phong lập tức phát lệnh giang hồ truy sát Triệu Kiến, đồng thời bỏ tiền hòa giải với thôn Thượng Cát. Nhưng người thôn Thượng Cát một mực hằm hè bức ép. Cứ thế này, một là sẽ khiến quan phủ chú ý, hai là rất dễ bại lộ thân phận Hồng Môn Thái An đường của thôn Ôn Phượng. Sự việc truyền tới tai long đầu sơn chủ Hồng Môn, sơn chủ ý thức được chuyện này có thể gây ảnh hưởng rất nghiêm trọng, bèn phái một trong hai viên tướng đắc lực bên mình là Hữu tướng Hữu Hiên tiên sinh đi thăm dò lại địa mạch, đồng thời bày ra một vở kịch cho người thôn Thượng Cát xem, để họ có thể tiếp tục an cư lạc nghiệp, không gây chuyện sinh sự nữa.

Nhưng Hữu Hiên tiên sinh vừa đi, không ngờ lại có bọn người áo đen tới bày ra sát cục…

Lục Kiều Kiều nghe qua câu chuyện, thấy cũng hợp tình hợp lý, không đến nỗi là lời giả dối, bèn nói với Ôn Hán Phong: “Hán Phong đại ca đã nghĩ tới chuyện triều đình phái người tới bày sát cục chưa?”

Ôn Hán Phong đáp: “Khả năng này là lớn nhất. Thành thực mà nói, tối Trung thu vừa rồi chết mất sáu bảy người, đều là người thôn Thượng Cát, có thể bởi đàn ông thôn chúng tôi đều luyện võ, dù mất đi lý trí thì công phu trên người cũng không đến nỗi thấp hơn đối phương… Thôn Thượng Cát không thể nào mời người về bày sát cục hại mình như thế.”

Lục Kiều Kiều nói: “Nếu triều đình có chứng cứ rõ ràng về mưu đồ của thôn Ôn Phượng, sẽ trực tiếp đưa quân vào thôn bắt người. Giờ họ ra tay thế này, chứng tỏ họ chưa tìm ra chứng cứ. Có điều huyệt phong thủy các huynh bày ra quá lộ liễu, tuy nói phong thủy tốt không phạm đến vương pháp, nhưng triều định sẽ vô cùng kiêng dè… Ôn gia là hộ lớn đóng thuế nhiều, triều đình không thể trực tiếp đối phó, chỉ còn cách bày ra sát cục, tiêu diệt nguồn lực chiến đấu quan trọng của thôn Ôn Phượng, sau đó mới phá huyệt, khiến chín đời nơi này không ai có thể phát tài… thần không biết quỷ không hay hoàn thành việc tru diệt.”

Ôn Tổ Ninh tiếp lời: “Lần này trên dãy Kê Đề hai kẻ áo đen một chết một sống, nếu chúng ta còn có hành động nào nữa, triều đình sẽ vu cho tội danh lấy cớ tàn sát thôn ta, nhưng nếu chúng ta cứ để yên, sẽ lại bị đối phương tiếp tục phá hoại… Thật là đau đầu.”

Ôn Hán Phong nói: “Hiện giờ chúng ta không thể khinh suất manh động, dù cho tài lực có đủ, nhưng khởi sự bây giờ vô cùng bị động, liên lụy đến các đường khẩu không nói làm gì, chưa biết chừng còn trúng ngụy kế của địch, trước mắt… vẫn nên thủ thế.”

“Các vị giả vờ ngốc đấy à…” Lục Kiều Kiều hút đã một hơi thuốc, vừa nhả khói vừa nói.

“Hà đại nhân có quan hệ rất tốt với các vị phải không?” Lục Kiều Kiều coi đây là một quân cờ.

“Đúng thế, chúng ta đã bỏ không biết bao nhiêu bạc vào ông ta, đương nhiên cũng kiếm lại được…” Ôn Tổ Ninh bộ dạng thô kệch, thực ra tâm tư kín kẽ hệt đàn bà. Anh ta là quân sư của Thái An đường, trong Hồng Môn quân sư được gọi là “Quạt giấy trắng”, chuyên phụ trách việc quản lý, hoạch định kế sách và đàm phán.

Anh ta thong thả nói: “Phía Hà đại nhân chỉ muốn dẹp yên chuyện này, để chúng ta kiếm tiền về cho ông ta tiêu, tên áo đen kia rơi vào tay ông ta, chắc cũng phải chịu khổ rồi.”

Lục Kiều Kiều cười nói: “Tên áo đen ấy có chịu khổ hay không, phải xem triều đình có muốn lộ chuyện nghi ngờ các vị ra hay không, giờ vẫn chưa biết thế nào.”

Ôn Hán Phong gật đầu: “Đúng thế, ngày mai xem tên áo đen được giải quyết thế nào, mới biết chúng ta còn có thể ém nhẹm chuyện này xuống hay không.”

Lục Kiều Kiều đã bắt đầu thấy mệt, đứng lên yếu ớt nói: “Giờ vẫn chưa biết ý bên Hà đại nhân thế nào, tốt nhất các vị nên chuẩn bị sẵn hai phương án, nếu quả thực bị bức quá, vẫn nên di tản khỏi thôn Ôn Phượng trước… Còn nữa, từ bây giờ cần phải cắt cử người trông coi trên huyệt Hùng Kê Đề Nhật.”

Sáng sớm hôm sau, nha môn quả nhiên điều xe ngựa tới đón Lục Kiều Kiều về Thanh Thành, Ôn Tổ Ninh cũng đánh một cỗ xe từ nhà cùng lên nha môn, ý xem Hà đại nhân định xử lý tên áo đen thế nào.

Buổi trưa về đến nha huyện Thanh Thành, gặp Hà đại nhân và hai vị sư gia, Lục Kiều Kiều liền hỏi ngay chuyện tên áo đen. Mạnh Hiệt sư gia nói: “Sau khi tống giam vẫn dùng nghiêm hình thẩm vấn, nhưng hắn một chữ cũng không khai, giờ đang hôn mê rồi.”

Lục Kiều Kiều liếc sang Ôn Tổ Ninh, nói: “Không khai cũng không sao, người vẫn còn là tốt.”

Ôn Tổ Ninh hiểu ý Lục Kiều Kiều, người này vẫn còn ở đây, chứng tỏ bên Hà đại nhân hoàn toàn không nghi ngờ về lai lịch tên áo đen, chỉ xem y như kẻ gian đào mồ trộm mả.

Manh Hiệt lắc đầu: “Thực ra theo luật lệ Đại Thanh, đào mồ trộm mả cũng không đáng tội chết, phá hoại phong thủy lại càng không có căn cứ xét xử, nhiều nhất chỉ phán là trộm cắp phá hoại âm địa nhà người khác, lưu đày ba bốn năm là được thả thôi, hắn cũng đâu nhất thiết phải ngậm chặt miệng như thế, hừm, thật kỳ lạ…”

“Thế chẳng phải cho hắn ăn chùa mấy bữa cơm ở đây sao?” Lục Kiều Kiều nói giọng châm chọc.

Quan sát sắc mặt người khác mà đoán ý là sở trường bẩm sinh của sư gia Mạnh Hiệt, ông ta lập tức nghe ra ý tứ trong lời nói của Lục Kiều Kiều: “Chẳng lẽ Lục tiểu thư muốn gặp người này?”

Ôn Tổ Ninh vội lên tiếng dàn xếp: “Hắn phá hoại từ đường nhà chúng tôi, chúng tôi cũng muốn gặp hắn, xem có thể hỏi ra điều gì hay không, Mạnh sư gia, liệu có tiện không?”

Mạnh Hiệt nhìn sang Hà đại nhân, Hà đại nhân tươi cười tỏ vẻ đồng ý – đối với Hà đại nhân, ai thẩm vấn cũng như nhau chỉ cần không phải ông ta là được.

Mạnh Hiệt bèn dẫn mọi người tới buồng giam. Nằm sâu trong góc buồng giam là tên áo đen đang thoi thóp, toàn thân đầy vết máu, hai mắt đờ đẫn.

Y nhìn thấy một nhóm người đứng từ ngoài buồng giam nhìn mình thì mắt lóe sáng, nhưng ngay sau đó lại khép lại.

Cai ngục đỡ y ra vứt ngay xuống nền phòng thẩm vấn, người y bị còng bằng một sợi xích sắt, đầu xích quấn trên giá đựng dụng cụ tra tấn. Lúc này y toàn thân thương tích, chân lại bị Lục Kiều Kiều dùng súng bắn bị thương, nên chỉ có thể bò trên đất.

Ôn Tổ Ninh bước tới trước mặt y, ngồi xổm xuống hỏi: “Thôn Ôn Phượng chúng ta và ngươi không thù không oán, tội ngươi phạm phải cũng không đáng chết. Thực ra chúng ta có thể bỏ tiền để ngươi đỡ khổ hơn… ngươi biết đấy, chúng ta chỉ muốn biết là ai cử ngươi tới thôi.”

Tên áo đen dựa người xuống đất, mở mắt nhìn Ôn Tổ Ninh, lúc sau lại nhắm mắt nằm rạp ra.

Từ ánh mắt tên áo đen, Lục Kiều Kiều có thể nhìn ra thái độ của y đối với Ôn Tổ Ninh không phải không quan tâm, mà là không buồn để mắt, lý giải về thái độ này chỉ có một khả năng: y biết mình có thể bình an rời khỏi đây, việc y cần làm chỉ là kéo dài thời gian.

Lục Kiều Kiều cũng nôn nóng muốn biết một vài chuyện, bèn ngồi xuống bên cạnh Ôn Tổ Ninh. Tên áo đen trông thấy Lục Kiều Kiều, liền trừng trừng nhìn xoáy vào cô.

Y tuổi chừng trên dưới bốn mươi, tuy bị người trong thôn và cai ngục đánh cho mặt mày bê bết máu, nhưng vẫn nhìn ra được Thiên Đình giữa trán y khá đầy đặn, sống mũi gồ lên, hai bên quai hàm vuông vức, có thể thấy người này khởi vận từ lúc còn trẻ, sớm vào quan trường, hiện giờ nhất định đang hưởng lộc quan. Bao năm quan trường thăng tiến, giờ đến tuổi này ít nhất cũng phải vào hàng lục phẩm, cấp bậc chắc chắn còn cao hơn cả Hà đại nhân.

Lục Kiều Kiều nhỏ giọng hỏi: “Một tháng trước, Quỷ kính chiếu đường ở nhà họ Quách thành Quảng Châu có phải cũng là các người làm không?”

Tên áo đen thoáng mở to mắt, cổ họng phát ra một tiếng “à”.

Mọi người cuối cùng cũng thấy tên áo đen mở miệng, đều vây cả lại.

Tên áo đen nói nhát gừng, mỗi từ thốt ra đều như phải hao tận khí lực: “Ta chỉ… nói với cô ta… các người… đi ra…”

Lục Kiều Kiều khẽ nhíu mày, trống ngực đánh thình thịch, chiêu này thật quá hiểm độc!

Tên áo đen này không hề đơn giản, chỉ một câu nói đã gài lại một mối nghi ngờ trong lòng Ôn gia, quan hệ giữa Lục Kiều Kiều và Ôn gia bỗng chốc trở thành tử cục khó lòng tháo gỡ.

Nói? Hay là không nói?

Nếu nói, sau khi ra ngoài gặp lại người họ Ôn, dù thế nào cũng không thể khiến họ tin rằng cô đã thuật lại hoàn toàn đầy đủ lời tên áo đen, hơn nữa nhà họ Ôn sẽ nghi ngờ giữa cô và tên áo đen có quan hệ gì đó.

Không nói lại càng dở, chỉ chứng tỏ Lục Kiều Kiều chột dạ tránh né, càng khiến nhà họ Ôn nghi ngờ cô đến cực điểm.

Lục Kiều Kiều vừa giao đấu với tên áo đen đã rơi vào thế hạ phong, giờ không còn cách nào rút khỏi cuộc thẩm vấn này nữa.

Lòng đã quyết, muốn ra sao thì ra, Lục Kiều Kiều không buồn bận tâm đến quan hệ với nhà họ Ôn nữa, cô cần phải làm rõ chuyện mình trước. Lục Kiều Kiều ra ý bảo mọi người ra ngoài, để một mình cô nói chuyện với tên áo đen. Để phòng ngừa bất trắc, tay cô lăm lăm khẩu súng của Jack.

Tên áo đen hỏi Lục Kiều Kiều: “Cô… được người thôn ấy… mời về?”

Lục Kiều Kiều đáp: “Ngươi vẫn chưa trả lời ta, vụ Quỷ kính chiếu đường nhà họ Quách thành Quảng Châu một tháng trước có phải do ngươi làm hay không?”

Tên áo đen rõ ràng đang rất đau đớn, vết thương trên người khiến y không ngừng rên rỉ, nhưng vẫn gắng gượng nói: “Bởi người… đều do… mệnh, chẳng chút… nào của… riêng. Cô cho rằng… cô bắn súng giỏi, thực ra… sư đệ… ta… sớm… đã biết… sẽ chết… vào đêm… hôm ấy…”

Tên áo đen không trả lời thẳng vào câu hỏi, Lục Kiều Kiều biết y đang kéo dài thời gian, một là muốn chờ đến khi có người tới cứu, hai là nhằm phân hóa kẻ mạnh nhất bên phía Ôn gia.

Giả sử y là người của triều đình, còn y giả sử Ôn gia là Hồng Môn, thì kế ly gián này bày ra rất có hiệu quả.

Lục Kiều Kiều chỉ còn cách nói theo y, cố gắng moi được càng nhiều thông tin càng tốt: “Đã biết là sẽ chết sao còn tới? Thân bất do kỷ ư?”

Một câu “thân bất do kỷ” của Lục Kiều Kiều, đã ám chỉ lai lịch công môn của đối phương. Trên đời, người cầu tài ai chẳng tham sống sợ chết, chỉ có kẻ ở chốn quan trường, dù có muốn sống nhưng bề trên bảo chết cũng phải chết, vốn chẳng được lựa chọn.

Tên áo đen cười khổ nói: “Hỏi… như vậy… là biết… các người… là Hồng Môn…”

Lục Kiều Kiều nói: “Hồng Môn cái gì chứ, chúng ta không thù oán gì với ngươi, lát nữa sẽ giúp ngươi băng bó vết thương, đưa ngươi tới nơi an toàn điều dưỡng.”

Tên áo đen cũng biết Lục Kiều Kiều đang hù dọa mình, chỉ cần bây giờ Ôn gia đưa y ra khỏi nhà lao, người phủ Quốc sư phái tới không thấy y, nửa đời sau của y sẽ bị triều đình truy đuổi.

Y khó nhọc lật người nằm ngửa trên mặt đất, ngửa mặt lên trời há miệng cười không ra tiếng: “Các người… không kịp nữa… rồi…”

Lục Kiều Kiều cũng cười nói: “Ta biết là ngươi không sao mà.”

Tên áo đen ngửa mặt lên, trợn mắt nhìn Lục Kiều Kiều nói: “Đạo thuật của cô cao… đương nhiên… là biết. Cô nương… mệnh cô không tốt… không nên ở lại đây… hại chính mình.”

Lục Kiều Kiều quỳ trên mặt đất, cúi đầu nhìn vào mặt y: “Ta biết mệnh ta không tốt, không cần ngươi nói. Có điều phái Thiên Tinh các người xưa nay chỉ ở trong Khâm Thiên giám tư lễ chọn ngày soạn lịch cho hoàng cung, cớ gì lại tới đây vào sinh ra tử, hại người hại mình?”

Tên áo đen nghe đến đây, từ từ khép mắt lại, một lúc sau mới mở ra: “Cô nương… quả không… đơn giản, như cô nói đấy… thân bất do kỷ…”

Tên áo đen gián tiếp thừa nhận thân phận của mình, lại khiến Lục Kiều Kiều nơm nớp lo sợ – lần đầu giết người đã giết mệnh quan triều đình, nếu triều đình truy xét chuyện này, cô lập tức sẽ bị phát lệnh truy nã toàn quốc, hơn nữa còn bị chém ngay không tha.

Lục Kiều Kiều không có thời gian rề rà từng câu từng từ với y, đành tận dụng thời gian truy hỏi tiếp: “Cách các người phá huyệt hiện giờ hiệu quả rất thấp, không có cách nào tốt hơn ư?”

Tên áo đen nghẹo đầu sang một bên: “Còn cách… nào nữa, cầm cây cuốc… đào mộ… là xong…”

Lục Kiều Kiều tức đến trợn trắng mắt, thế này hoàn toàn không hỏi ra được gì liên quan đến Long Quyết cả.

Tên áo đen khò khè trong họng, hít thở càng lúc càng khó khăn, nhưng vẫn gắng gượng nói: “Vì sao… tối hôm đó… ta phát ra… Thiên Tinh… ảo chú… cô dùng Tam Thanh quyết… lại có thể đỡ được?”

Tam Thanh quyết là đạo quyết ngưng thần hộ thân cơ bản, tối hôm đó Lục Kiều Kiều vừa thấy ảo chú của tên áo đen lóe lên giữa tầng không, đương lúc tình thế cấp bách đành tiện miệng niệm quyết ngưng thần, gắng sức chống đỡ.

Lục Kiều Kiều ghé vào tai tên áo đen, độc địa nói: “Không phải Tam Thanh quyết lợi hại, mà vì tối đó tôi vừa đến kỳ kinh, gặp đỏ thôi…”

Tên áo đen vừa nghe câu này, liền kêu thảm một tiếng ngất lịm.

Lục Kiều Kiều nghe ngoài phòng thẩm vấn có người gõ khoen cửa, sau đó lại thấy sư gia Mạnh Hiệt hấp tấp đẩy cửa bước vào, bảo cô: “Tri châu phủ Quảng Châu phái công sai tới, nói bên họ cũng xảy ra vụ án trộm mộ tương tự, mãi vẫn chưa phá được, nghe nói nha huyện chúng ta bắt được một người, giờ tới đòi mang người về thẩm tra xử lý.”

Lục Kiều Kiều nhìn tên áo đen đang hôn mê dưới đất, không khỏi thán phục thuật bói toán cao cường của y, thời gian nói chuyện thật vừa khéo.

Mấy viên quan sai đeo đao bước vào, nhìn Lục Kiều Kiều, lại đến nhìn tên áo đen dưới đất, lên tiếng hỏi Mạnh Hiệt: “Là y phải không?” Sau khi xác nhận liền kêu cai ngục vực tên áo đen ra khỏi nha môn.

Bên ngoài đã chuẩn bị sẵn một cỗ xe tù, tên áo đen còn sống bị vứt vào lồng gỗ trên xe, tên đã chết được quấn chiếu buộc sau xe, công sai phủ Quảng Châu trao đổi xong công văn với nha huyện Thanh Thành, lập tức đánh xe rời đi, trước sau không đầy một khắc đồng hồ. Lục Kiều Kiều và Ôn Tổ Ninh trơ mắt nhìn tên áo đen bị người ta đưa đi mất hút không tăm tích.

Xét về góc độ nha môn, vụ án này coi như đã phá xong, Hà đại nhân cuối cùng cũng phá được án làm việc tốt cho bà con nên vui vẻ nhất, cứ xoa tay cười ha hả mãi không thôi.

Sự đã đến nước này, Ôn Tổ Ninh cũng đành cảm ơn Hà đại nhân và Mạnh Hiệt, rồi cùng Lục Kiều Kiều rời khỏi nha môn.

Lục Kiều Kiều nói mấy ngày nay đã vất vả nhiều, giờ muốn cùng Jack và An Long Nhi về quán trọ nghỉ ngơi, Ôn Tổ Ninh nghe vậy liền tỏ vẻ khó chịu, anh ta còn muốn biết tên áo đen đã nói những gì với Lục Kiều Kiều.

Lục Kiều Kiều hiểu tình thế lúc này đều nằm trong tính toán của tên áo đen, có khi giờ đạt được âm mưu, y đã tỉnh lại cười khanh khách rồi cũng nên.

Lục Kiều Kiều đành đề nghị: “Hay là thế này đi, nếu Tổ Ninh đại ca không chê thì cùng bọn tiểu nữ quay về quán trọ, nghỉ ngơi một lát rồi buổi tối chúng ta nói chuyện.”

Có thể theo Lục Kiều Kiều, Ôn Tổ Ninh đương nhiên vui vẻ đồng ý, giờ điều anh ta lo nhất chính là Lục Kiều Kiều mang theo bí mật của tên áo đen, lén lút rời khỏi Thanh Thành một đi không trở lại.

Về tới quán trọ, Lục Kiều Kiều kêu người chuẩn bị nước nóng mang vào phòng, cô muốn ngâm bồn, chỉ có lấy cớ này mới cắt được cái đuôi Ôn Tổ Ninh, để bản thân có thời gian suy nghĩ mọi chuyện.

Lục Kiều Kiều vẫn ở trong căn phòng thượng hạng nhìn ra sông từ khi mới dừng chân lại Thanh Thành, từ đây mở cửa sổ có thể nhìn thấy dòng Bắc Giang xanh màu ngọc bích, thuyền cá thuyền buôn trên sông chốc chốc lại ngang qua khung cửa.

Mặt trời đã chếch về Tây, ánh nắng chiếu lên một góc giường trong phòng. Lục Kiều Kiều ngâm mình trong bồn nước, chậm rãi hút thuốc, sắp xếp lại những dòng suy nghĩ trong đầu.

Từ lời tên mặc áo đen, Lục Kiều Kiều đã khẳng định được rất nhiều suy đoán, đây cũng là mục đích cuối cùng trong việc cô chủ động gắng sức giúp thôn Ôn Phượng giải sát cục phong thủy, trận chiến ở huyệt Hùng Kê Đề Nhật coi như cũng có thu hoạch.

Thầy phong thủy phái Thiên Tinh có sở trường chọn ngày định hướng, đương nhiên ngược lại cũng có tài giết người thông qua thời gian và phương vị, lâu nay vẫn tập trung vào chuyên môn thuật số trong Khâm Thiên giám, một cơ quan chuyên lo tư tế thiên văn chốn nội cung.

Đoạn đối thoại giữa Lục Kiều Kiều và tên áo đen, thái độ và sự mặc nhận của tên áo đen, lại thêm bối cảnh bí mật của thôn Ôn Phượng, tất cả khiến Lục Kiều Kiều gần như chắc chắn tên áo đen chính là người được triều đình phái tới.

Từ vụ án chết người nhà họ Quách thành Quảng Châu đến chuyện ở thôn Ôn Phượng, có thể thấy thủ pháp giết người này xuất phát từ cùng một môn phái, nếu như đều do cao thủ phong thủy phái Thiên Tinh được triều đình phái đi thực hiện, thì vì sao Quách đại nhân là quan lại Quảng Châu cũng bị sát hại?

Hay cao thủ Thiên Tinh khi hạ thủ, không hề căn cứ vào quan viên hay phản đảng, mà có cách quy tội của riêng mình…

Bất kỳ ai cũng có thể là đối tượng hạ thủ của họ, chỉ cần… chỉ cần người đang trên đà phú quý, hoặc, chỉ cần có phong thủy mộ tổ cực tốt, đều có thể là đối tượng hạ thủ của các cao thủ Thiên Tinh.

Hơn nữa, địa bàn các cao thủ Thiên Tinh hoạt động rất rộng, chỉ trong một tháng ngắn ngủi mà đã từ Quảng Châu kéo đến Thanh Thành, ở nơi nào bọn họ cũng rất am tường long mạch địa lý, đây là chuyện các thầy phong thủy thông thường trong dân gian không thể nào làm được.

Long mạch có nghìn vạn kiểu biến hóa, lại lúc ẩn lúc hiện, để tìm ra một long mạch tốt tốn vài tháng trời là chuyện bình thường, thầy phong thủy nào cũng có khu vực và hoàn cảnh địa lý mình quen thuộc. Ngay đến danh sư phong thủy tới một địa bàn mới cũng phải cần dăm bữa nửa tháng mới có thể nắm chính xác ngọn ngành long mạch vùng sơn thủy ấy… Nếu chỉ là hạng phàm phu tục tử lừa tiền gạt bạc chắc chắn không thể tìm ra long mạch. Thế nhưng các cao thủ Thiên Tinh từ nội cung tới tận phương Nam xa xôi của Quảng Đông mà hạ thủ vẫn rất chắc chắn chuẩn xác, dường như bọn họ đã thông thuộc long mạch khắp thiên hạ, đang mưu đồ mở ra một trận đại chiến phong thủy.

Nếu triều đình đang có sách lược tiến hành trận chiến phong thủy quy mô lớn, thứ hữu dụng nhất đối với họ không gì khác chính là Long Quyết được nhà họ An cất giữ hơn nghìn năm nay.

Thuật phong thủy Long Quyết trên đời chưa từng có ai nghe qua, càng không người nào nhìn thấy, vốn không thuộc bất kỳ môn phái phong thủy nào hiện nay, biết được bí mật này chỉ có vài người trong nhà họ An.

Kể cả Long Quyết đến từ cấm cung của thiên tử, thì sao triều đình có thể biết Long Quyết đang ở trong tay An gia?

Đây không phải câu hỏi có thể tìm ra ngay lời giải, nhưng nhà của Lục Kiều Kiều ở Quảng Châu bị đập phá, đối phương để lại ý tứ rõ ràng, hoàn toàn là sự thật không cần suy đoán. Lại thêm giờ người bị Lục Kiều Kiều giết, đến chín phần là mệnh quan triều đình, nói như vậy thì giờ cô đã là trọng phạm thân mang tội chết, nếu triều đình muốn đầu của cô, lý do đã tương đối đầy đủ.

Trên thực tế, Lục Kiều Kiều hiện giờ đã không còn đường rút lui, không thể vờ như không có chuyện gì xảy ra cùng An Long Nhi quay lại Quảng Châu xem phong thủy kiếm bạc được nữa.

Ẩn cư giang hồ, triều đình sớm muộn gì cũng sẽ ra cáo trạng truy nã cô; về Giang Tây tìm phụ thân giải quyết chuyện Long Quyết, cũng lành dữ khó lường…

Nhưng cứ ngoan ngoãn để cho một bàn tay từ sau tấm màn thao túng thế này, đến khi đối phương lấy được Long Quyết rồi liệu mình có an toàn hay không?

Lục Kiều Kiều âm thầm sắp xếp lại các sự việc, bỗng cảm thấy mình như con cá đã sa vào lưới, nước cờ tiếp theo không biết đi thế nào?

Cô đứng dậy khỏi bồn tắm, lau khô người mặc quần áo mới, rồi sang phòng Jack và An Long Nhi gõ cửa.

Jack ra mở cửa, vừa trông thấy Lục Kiều Kiều đã tươi cười hớn hở: “Kiều Kiều của tôi, người em thơm quá…”, nói đoạn nhường đường để Lục Kiều Kiều vào phòng.

An Long Nhi đang ngồi bên cửa sổ đọc sách, thấy Lục Kiều Kiều bước vào, lập tức đứng dậy kéo ghế, rót trà cho cô.

Lục Kiều Kiều bảo Jack đóng cửa lại, ba người cùng ngồi quanh chiếc bàn. Khoảnh khắc này, khiến Lục Kiều Kiều cảm thấy ba người họ như một gia đình. Cô nhìn An Long Nhi và Jack, không kìm nổi nở một nụ cười.

An Long Nhi còn nhỏ mà suy nghĩ như người lớn, chính trực ngay thẳng, chẳng tiếc thân mình bảo vệ cho cô; Jack bỏ mối làm ăn lớn ở Quảng Châu, cùng cô dấn thân vào con đường nguy hiểm mà chẳng oán trách nửa lời, yêu chiều bảo vệ cô, cũng dạy cô rất nhiều kiến thức mới. Nhìn hai người này, Lục Kiều Kiều những muốn cảm tạ ông trời, bọn họ tựa như món quà ông trời ban tặng cho cô vậy, sẵn sàng ở bên cô đối diện hiểm nguy.

Lục Kiều Kiều rút trong ống tay áo ra hai tờ ngân phiếu, mỗi tờ mười lạng bạc, đặt trước mặt An Long Nhi và Jack: “Mấy hôm nay mọi người vất vả rồi, xem phong thủy… cũng có chút thù lao, mọi người cùng chia chút bạc cho vui vẻ.”

An Long Nhi cả đời chưa từng thấy tờ ngân phiếu nào to như thế, không khỏi vui mừng ra mặt, tay cầm tờ ngân phiếu lật hết bên nọ đến bên kia lên ngắm nghía.

Jack lại nhíu mày, hai ngón tay nhặt tờ ngân phiếu lên: “Em uống rượu của tôi, ngồi xe của tôi, dùng đạn của tôi, lại còn nhờ tôi giúp em bắt kẻ gian, thế mà chỉ trả được có mười lạng? Tôi thấy ít nhất cũng phải hai trăm lạng…”

Lục Kiều Kiều lại rút từ ống tay áo ra một tờ ngân phiếu hai lạng: “Sớm biết tên gian thương nhà anh muốn mặc cả, tôi đã chẳng kêu anh lên núi bắt kẻ gian, anh có muốn thêm hai trăm lạng cũng được…” đoạn đá Jack một cú dưới gầm bàn, “nhưng về sau đừng hy vọng được có tội nữa…”

Jack sực nhớ, “tội lỗi nguyên thủy” đêm Trung thu vẫn chưa xảy ra, anh thật không muốn quay lại Quảng Châu mà vẫn còn trong sạch.

“Hai lạng, có lấy không?” Lục Kiều Kiều phe phẩy tờ ngân phiếu trên tay.

Jack đưa tay giật lấy tấm ngân phiếu, nói: “Lấy, lấy tất.”

Lục Kiều Kiều lại đá anh một cái: “Cái gì cũng lấy thì tôi không cho nữa… Long Nhi đừng tị nạnh, tên gian thương này bỏ ra chút vốn, hai lạng này là cô mày hồi vốn cho hắn ta thôi.”

An Long Nhi hỏi Lục Kiều Kiều: “Có phải chúng ta chuẩn bị lên đường đi Giang Tây không ạ? Nếu định xuất phát, tối nay cháu sẽ thu xếp xe ngựa và hành lý.”

Lục Kiều Kiều cười: “Không vội, cứ nói chuyện trước đã. Hai người đi săn bao giờ chưa?”

An Long Nhi đáp: “Cháu săn chim rồi…”

Jack trả lời: “Tôi từng săn gấu, cả sói nữa.”

“Vậy thì tốt, khi đi săn hai người sợ nhất con mồi như thế nào?” Lục Kiều Kiều lại hỏi tiếp.

An Long Nhi đáp: “Săn chim thì sợ nhất là chim phát hiện ra mình, hễ phát hiện ra người tới gần, chim sẽ bay đi mất.”

Thấy Lục Kiều Kiều lại nhìn sang mình, Jack nói: “Săn gấu đương nhiên cũng sợ gấu chạy mất, nhưng nếu gấu phát hiện ra thợ săn thì sẽ lao bổ lại vồ người, thợ săn bọn tôi cũng không muốn bị gấu chạy lại cắn cho một miếng. Nếu là sói thì…”

Lục Kiều Kiều rất hiếu kỳ: “Sói thì sao?”

Jack nhún vai nói: “Sói rất giảo hoạt, nếu không cẩn thận làm mất dấu, để sói chạy mất, có khi nó còn vòng ra sau lưng thợ săn, tập kích ngược lại. Nếu săn bắt để kiếm cái ăn, bọn tôi đều không muốn săn sói, trừ phi sói ăn trộm dê cừu ghê quá, mới phải tổ chức vây bắt.”

Lục Kiều Kiều gật gù, nét mặt đăm chiêu: “Nếu chỉ có một hai người thợ săn, nhưng lại muốn theo dấu sói, nhất định sẽ rất nguy hiểm. Không muốn bị phát hiện, không muốn bị phản công chính diện, càng không muốn bị theo đuôi…”

An Long Nhi hỏi: “Cô Kiều, chúng ta sắp đi săn ư?”

Lục Kiều Kiều mím môi cười giảo hoạt, lắc đầu nói: “Ừm… không, chúng ta là sói, cần tìm ra thợ săn là ai.”

Jack nghe đến đây, bản tính ưa mạo hiểm của một tay cao bồi miền Tây bị kích thích trỗi dậy, hào hứng ghé đầu lại gần Lục Kiều Kiều nhỏ tiếng hỏi: “Chúng ta lại sắp làm chuyện lớn gì sao?”

Lục Kiều Kiều đưa tay gạt đầu anh ra: “Buổi tối sẽ nói với anh… Long Nhi, ra bờ sông bao một con thuyền lớn, mời Tổ Ninh đại ca lên thuyên dùng cơm.”

Dòng Bắc Giang bao la, sông sâu nước tĩnh, phong cảnh như họa, cũng rất thích hợp cho thương thuyền vận chuyển, vì vậy ngành vận tải bằng thuyền ở đây vô cùng phát đạt, thậm chí còn có nhà thuyền chuyên đón du khách lên thuyền ngoạn cảnh dùng cơm.

An Long Nhi bao một chiếc thuyền lớn có thể kê bốn vòng bàn ăn, sắp xếp xong thực đơn liền thông báo cho Ôn Tổ Ninh, Lục Kiều Kiều và Jack lên thuyền.

Lục Kiều Kiều vừa lên thuyền liền kêu nhà thuyền chạy ra nơi rộng nhất giữa sông, dọn bàn ăn ra chỗ thoáng mát nhất đầu thuyền. Bốn người ngồi ở đầu thuyền uống trà hóng gió, thảnh thơi nhàn tản.

Thức ăn vẫn chưa nấu xong, trên bàn bày một bàn đèn hút thuốc phiện, Lục Kiều Kiều nằm trên ghế dựa của nhà thuyền, ôm tẩu thuốc yêu thích, chốc chốc lại hút một hơi.

Cô uể oải quay sang hỏi Ôn Tổ Ninh: “Tổ Ninh đại ca, anh biết vì sao chúng ta phải ăn cơm trên thuyền không?”

Ôn Tổ Ninh nói: “Lục tiểu thư thích phong cảnh Bắc Giang Thanh Thành ư?”

“Ài…” Lục Kiều Kiều thở dài, hút một hơi thuốc. “Chúng ta trước nay luôn bị triều đình phái người theo dõi, nếu ăn cơm trên bờ, chúng ta nói chuyện gì đều có thể bị người ta nghe hết. Bây giờ hai vợ chồng nhà thuyền đang ở sau đuôi thuyền làm cơm, chúng ta nói nhỏ tiếng một chút… Long Nhi, đi giúp nhà thuyền làm cơm, chớ để họ ra đến đầu thuyền.”

“Dạ.” Long Nhi nhận lệnh đi trông chừng hai vợ chồng nhà thuyền.

Ôn Tổ Ninh ngồi lại gần Lục Kiều Kiều, nhỏ giọng hỏi: “Trưa nay tên áo đen đã nói những gì?”

“Hắn thừa nhận mình là người của triều đình, bảo tôi không nên nhúng tay vào việc của hắn… về sau công sai từ Quảng Châu đến áp giải tù nhân là người của bọn hắn, hắn chắc chắn không sao…” Lục Kiều Kiều phều phào bộc bạch.

“À… ra vậy, còn nói gì khác không?” Ôn Tổ Ninh lại hỏi.

“Hắn chắc chắn các vị là người của Hồng Môn… Còn sao vẫn chưa ra tay tiễu trừ thì không rõ, chuyện này hắn cũng không thể nói cho tôi biết…” Lục Kiều Kiều đổ hết tội trạng lên đầu tên áo đen, thực ra khi đó chính cô chủ động khai ra thân phận của tên áo đen, khiến y chắc chắn rằng dưới dãy Kê Đề là đường khẩu của Hồng Môn.

Ôn Tổ Ninh hoàn toàn không biết gì về Lục Kiều Kiều, bọn họ vốn không biết Hà đại nhân lại bỏ tiền mời Lục Kiều Kiều về giúp bọn họ, có lẽ đây chính là cái đức bình thường vẫn đút tiền vào nha môn. Vì vậy anh ta hỏi Lục Kiều Kiều: “Lục tiểu thư vì chuyện gì mà bị triều đình theo dõi vậy?”

Lục Kiều Kiều ghé tai Ôn Tổ Ninh thì thào bịa chuyện: “Thuận Nghĩa đường Hằng Sơn ở Hồ Nam bị diệt rồi, thằng bé tóc vàng kia là con trai đường chủ Thuận Nghĩa đường, tôi phải bảo vệ nó tới Quảng Châu…”

“Còn người Tây kia?” Lục Kiều Kiều là người của Hồng Môn thì Ôn Tổ Ninh còn hơi tin, nhưng anh chàng người Tây kia là thế nào thì anh ta nghĩ mãi không thông.

“Đó là thương nhân lo chuyện vũ khí đạn dược cho bọn tôi, súng Tây của bọn tôi đều lấy từ chỗ anh ta, anh ta phải tới Quảng Châu lấy hàng, tiện đường bảo vệ hai bọn tôi… Anh biết đấy, nếu có người Tây đi cùng, quan phủ sẽ không dám rầy rà.”

Lục Kiều Kiều đã cho Ôn Tổ Ninh một lý do hợp tình hợp lý.

Ôn Tổ Ninh bắt đầu hơi căng thẳng: “Triều đình theo dõi ba người liệu có phải muốn câu tiếp một đường khẩu nữa không?”

“Quân sư à, vẫn là anh thông minh…” Lục Kiều Kiều tâng bốc Ôn Tổ Ninh, “bọn tôi vốn không dám tiếp cận người mình, gặp phải đường khẩu các anh cũng là chuyện nằm ngoài dự kiến. Anh biết đấy, bọn tôi bị triều đình cử người bám đuôi, giờ như ôn thần, tới đâu là hại đó…”

Trống ngực Ôn Tổ Ninh đập thình thình, lòng thầm nghĩ lần này rắc rối to rồi, không ngờ lại rước về một ôn thần, thôn Ôn Phượng bỏ ra biết bao nhiêu tiền, gốc gác lâu nay vẫn luôn thanh bạch, mới bảo toàn được bình an vô sự đến tận hôm nay, nếu còn để cô Lục Kiều Kiều này ra vào thôn thêm vài lần nữa, triều đình thể nào cũng đóng đinh thôn Ôn Phượng là đường khẩu Hồng Môn.

“Thì ra là vậy… ba vị đều là nghĩa sĩ Hồng Môn, khâm phục khâm phục… Vậy khi nào thì Lục tiểu thư lên đường?” Ôn Tổ Ninh lập tức có ý đuổi người.

Lục Kiều Kiều nghe vậy thì biết kế hoạch đã thành công, cuối cùng cũng có thể rút êm được rồi.

Nếu cứ nhất mực muốn đi, Thái An đường ở thôn Ôn Phượng nhất định sẽ không buông tha cô, bởi mớ bòng bong tên áo đen để lại vốn không thể nào tháo gỡ được; còn nếu không đi, cũng chẳng có lợi gì cho việc của cô. Khiến đối phương tự động đuổi người là cách hay nhất.

Lục Kiều Kiều mắt trợn trừng, đờ đẫn nhìn ráng hồng trên bầu trời, lẩm bẩm nói: “Sắp tới Quảng Châu, nếu không thể cắt đứt cái đuôi ở đằng sau, thì đến Quảng Châu rồi cũng hại chết đường khẩu bên đó… Không thể tiếp tục cứ xuống miền Nam thế này được…”

Ôn Tổ Ninh cuống lên, thầm nghĩ đám ôn thần này không phải định lưu lại thôn Ôn Phượng đấy chứ? Không còn cách nào khác, anh ta bèn trượng nghĩa nói với Lục Kiều Kiều: “Huynh đệ Hồng Môn ở khắp thiên hạ, Lục tiểu thư có việc gì cần chúng tôi giúp đỡ, chớ ngại nói ra, Tổ Ninh nhất định sẽ sắp xếp giúp tiểu thư!”

Lục Kiều Kiều nghe thế thì cố nhịn cười, tiếp tục làm bộ bi ai: “Bọn tôi muốn từ Thanh Thành chuyển sang đi đường thủy, tới nơi nào đó rồi lên bờ, lòng vòng thêm mấy bận để cắt đuôi mật thám của triều đình rồi mới liên hệ với huynh đệ ở Quảng Châu, Tổ Ninh đại ca có cách nào sắp xếp được không?”

Ôn Tổ Ninh nghe Lục Kiều Kiều nói vậy, biết bọn họ cũng muốn đi thì vững dạ hơn nhiều, ngẫm nghĩ một hồi rồi nói: “Giờ tiểu thư có đến đường khẩu Hồng Môn nào cũng đều không ổn… Thế này đi, ở thôn Quan Tài thuộc Hoa Huyện[11] chúng tôi có vài huynh đệ, họ không phải là người của Hồng Môn nhưng cũng là nghĩa sĩ phản Thanh. Trên đường đi tiểu thư cứ nghĩ cách cắt đuôi mật thám, tới chỗ họ rồi thì ở lại mấy bữa, nơi đó chỉ cách Quảng Châu chín mươi dặm, nếu liên lạc đường khẩu Quảng Châu cũng tiện bề tấn công phòng thủ…”

Nếu tới Hoa Huyện thì chẳng khác nào quay lại đường cũ, Lục Kiều Kiều nghe xong lời Ôn Tổ Ninh, không ngừng thầm tính toán, lặng lẽ hút một hơi thuốc. Ôn Tổ Ninh ngồi bên cạnh lòng nóng như lửa đốt.

Cuối cùng Lục Kiều Kiều cũng lên tiếng: “Được vậy tới thôn Quan Tài ở Hoa Huyện.”

Ôn Tổ Ninh thở hắt ra một hơi.

Lục Kiều Kiều hỏi qua Ôn Tổ Ninh xem mấy người huynh đệ ở thôn Quan Tài họ tên là gì, làm sao nhận ra, xong đâu đấy thì nhà thuyền cũng đã làm xong thức ăn.

Mọi người ngồi trên thuyền vui vẻ ăn uống, sau đó Ôn Tổ Ninh một mình lên bờ trước vì muốn trở về nhà ở thôn Ôn Phượng trong đêm. Lục Kiều Kiều vẫn còn hứng du ngoạn, bèn kêu nhà thuyền lên bờ gọi một nhóm cô nương hát xuống thuyền thổi sáo kéo đàn hát ca.

Ba người bọn họ tiếp tục ngồi đầu thuyền uống rượu nô đùa, nhà thuyền ở đằng đuôi lo hầu cơm rượu, sáu cô nương cộng thêm một dì hai chủ gánh hát ở giữa khoang thuyền biểu diễn ca vũ, cảnh tượng thoáng chốc đã nhộn nhịp chẳng kém gì các thuyền hoa trên đầm Bạch Nga Quảng Châu.

Lục Kiều Kiều sắp đặt như vậy cũng là có lý do – nếu quả thật bọn họ đang bị theo dõi, nói chuyện trong phòng có khả năng sẽ bị nghe lén, đã gọi là tai vách mạch rừng, thì nơi nào có vách có tường đều không an toàn cả; nói chuyện trong quán ăn lại càng không thể, số tai bên cạnh còn nhiều hơn số đầu người; chỗ tốt nhất không đâu khác chính là mặt sông rộng lớn này.

Trên du thuyền, kẻ nghe lén nguy hiểm nhất là nhà thuyền.

Bọn họ đương nhiên không thể là mật thám, nhưng sau khi bọn Lục Kiều Kiều lên bờ, chắc chắn sẽ có người tới dùng tiền cậy miệng nhà thuyền, như vậy mỗi câu nhà thuyền nghe được đều có thể truyền tới tai mật thám và người đứng đằng sau tấm rèm, vì vậy cách ly với nhà thuyền là điều vô cùng cần thiết.

Đầu thuyền cách đuôi thuyền năm sáu trượng, ban ngày ở đầu thuyền thì thầm, đuôi thuyền sẽ không nghe thấy, nhưng vào ban đêm yên tĩnh, khả năng nghe thấy rất cao, Lục Kiều Kiều cho vời một nhóm xướng khúc ca hát trên thuyền chính là biện pháp cách ly hữu hiệu nhất với nhà thuyền ở đuôi thuyền.

Lục Kiều Kiều chọn một danh sách những bài ồn ào nhất, cho các cô nương ra sức biểu diễn, còn bản thân cô lại tận dụng tiếng nhạc huyên náo sắp đặt công việc cho Jack và An Long Nhi.

“Chúng ta cần phản công lại những kẻ đang theo dõi, Jack, bây giờ chúng ta chính là những con sói quay lại lén tập kích thợ săn.” Lục Kiều Kiều nói rõ ràng mục đích của bước tiếp theo.

Jack và An Long Nhi gật đầu, sau khi cùng Lục Kiều Kiều trải qua bao chuyện như vậy, họ đều rất tin tưởng vào sắp xếp của cô.

“Jack, lát nữa quay về quán trọ anh lập tức thu dọn hành lý, sau đó chỉ được ngủ ba canh giờ, sáng sớm hôm sau một mình lên đường, đánh xe xuất phát vào giờ Mão.”

Jack lộ vẻ ngạc nhiên: “Hả? Chúng ta chia ra ư? Vì sao?”

Jack không muốn tách rời Lục Kiều Kiều một giây một phút nào, anh ta càng lúc càng yêu cô gái phù thủy thần kỳ này, bảo cùng Lục Kiều Kiều xuống mười tám tầng địa ngục anh ta cũng dám, nhưng bắt anh ta rời xa Lục Kiều Kiều thì ngàn vạn lần không được.

Lục Kiều Kiều nhìn anh ta, mỉm cười đầy vẻ thâm tình: “Tôi sẽ đợi anh trở về, nhưng giờ anh phải giúp tôi đánh lạc hướng những kẻ theo dõi một thời gian… Anh đánh xe ngựa sẽ thu hút chú ý nhất, để anh đi dẫn dụ đối phương là thích hợp nhất.”

Jack cuống cả lên, căng thẳng nói với Lục Kiều Kiều: “Để Long Nhi đi không được sao? Thằng bé dẫn dụ đối phương, tôi đi với em…”

Lục Kiều Kiều không ngờ còn phải thuyết phục tên lớn đầu này đi lo việc, đành nhẫn nại từ tốn giải thích: “Khi chạy trốn, anh quá to cao, vô cùng dễ thấy, hơn nữa Long Nhi vẫn là trẻ con, có nhiều chuyện nó không thể tự mình quyết định, để nó đi một mình có thể sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch tiếp theo. Anh lại khác, để anh tự mình xử lý mọi chuyện, tôi rất yên tâm.”

Lục Kiều Kiều mỉm cười dịu dàng nhìn Jack, tay nắm lấy tay Jack đang đặt trên bàn.

Trái tim Jack đập thình thịch loạn lên, anh ta quả thực không kháng cự nổi nụ cười và vẻ dịu dàng của cô, thoắt chốc đã mềm lòng.

“Kiều Kiều, chúng ta phải chia cách bao lâu?” Ra điều kiện là thiên chức của con buôn, về mặt này Jack quyết không hàm hồ.

Thấy Jack nghiêm túc muốn xác nhận thời gian tách ra, Lục Kiều Kiều quả có chút cảm động: “Chúng ta chỉ cần tách ra năm ngày thôi. Nghe tôi nói này, sáng sớm mai anh lên đường đi về phía Bắc một ngày, sau đó tìm một nơi nghỉ chân, ngày hôm sau lại đi theo đường cũ trở về Thanh Thành ở một ngày…”

Lục Kiều Kiều ngừng lời, nhìn Jack xem anh có hiểu hay không, Jack gật đầu, tỏ ý đã hiểu.

“Từ hôm sau nữa đến ngày thứ năm, anh cứ theo đường cũ thong thả trở lại Quảng Châu, trên thực tế, vào ngày thứ năm anh sẽ đặt chân đến Hoa Huyện, chính là gần Đảo Địa Mộc Tinh cục lần trước, sau đó anh ở lại trong thị trấn, đợi bọn tôi tới tìm.”

“Đơn giản vậy thôi?” Jack có chút ngạc nhiên với sắp xếp này, cứ ngỡ sẽ kịch tính hơn nhiều.

Lục Kiều Kiều nói: “Đúng, bốn ngày đầu sẽ rất đơn giản, anh cứ thong thả mà đi là được. Vào tối ngày đầu tiên, bọn họ sẽ phát hiện ra tôi và An Long Nhi không đi cùng anh, nhưng cứ đi theo anh hẳn sẽ tìm ra tung tích của tôi, nên bốn ngày sau ắt càng theo sát anh hơn.”

“Tôi hiểu rồi, chúng ta chia làm hai bầy sói, em muốn phục kích gã thợ săn đằng sau tôi, phải vậy không?” Jack từng đi săn, lập tức hiểu ra ý định của Lục Kiều Kiều.

“Ừm… ngày thứ năm, nếu thuận lợi, anh chưa chắc có thể qua đêm ở Hoa Huyện, vì hôm đó có thể sẽ rất bận, hiểu không?” Lục Kiều Kiều nói chuyện với người thông minh, càng không cần nói quá lộ liễu.

Jack đáp: “Hiểu, tôi sẽ chuẩn bị đầy đủ súng ống đạn dược, đêm nay cũng chuẩn bị thêm cho em ít đạn. Vậy còn hai người? Có kế hoạch thế nào?”

Lục Kiều Kiều nói: “Chúng tôi phải nghĩ cách biến mất trước mắt kẻ địch, cho đến khi gặp lại anh ở Hoa Huyện. Anh không cần lo lắng, Long Nhi là một hảo hán, sẽ bảo vệ tôi.”

Nói đến đây, Lục Kiều Kiều đưa tay vỗ vai An Long Nhi, An Long Nhi cũng nhìn cô nhoẻn miệng cười.

Tâm trạng Jack quả thật rất không vui, anh chưa từng gặp người con gái nào khiến anh si mê đến vậy, bèn lưu luyến nắm tay Lục Kiều Kiều nói: “Bất luận thế nào, năm ngày sau tôi sẽ ở Hoa Huyện đợi em, nếu không gặp được em, tôi sẽ dùng cả đời này đi tìm em…”

Lục Kiều Kiều cũng không muốn phá hỏng không khí lúc này, cô nói với Jack: “Được, tôi nhất định sẽ để anh tìm được, yên tâm đi.”