Trảm Long - Trọn Bộ 4 Tập

Tập 1 - Chương 3: Cửu Tự Ấn

Từ cửa Bắc thành Quảng Châu xuất phát, vòng qua núi Bạch Vân đi về hướng Bắc, ngược dòng Bắc Giang là có thể tới Giang Tây. Mấy ngày đầu sau khi rời khỏi thành Quảng Châu, đi qua toàn chốn ruộng đồng sông nước, đường tuy chật hẹp khúc khuỷu nhưng mặt đường xem như vẫn còn bằng phẳng. Bọn Lục Kiều Kiều ba người ngồi xe ngựa Tây, nhưng lại đi chậm rì rì. Xe ngựa chở ba người, cộng thêm năm sáu hòm hành lý, lại cả bọc đồ to tướng chất trên nóc xe, điều khiến Lục Kiều Kiều bất ngờ nhất là, đằng sau xe còn có một thùng rượu nhỏ. Hai thớt ngựa kéo một cỗ xe lớn như vậy, tuy không đến nỗi đuối sức, nhưng trên đường nhỏ khúc khuỷu quả thực cũng không thể chạy nhanh, chỉ có thể thả vó chầm chậm.

Lục Kiều Kiều không nói cười đùa nghịch với Jack như lần trước, suốt dọc đường chỉ im lặng, mắt nhìn chăm chăm quang cảnh ngoài cửa sổ, thỉnh thoảng hút một cữ thuốc.

Từ lúc Lục Kiều Kiều tới hỏi mua ngựa, Jack đã phát hiện ra cô có điều gì đó khác lạ, nhưng không biết trong lòng cô nghĩ gì, cũng không dám làm bừa, bèn tự giác lên ngồi đầu xe nói chuyện với An Long Nhi. Song An Long Nhi cũng chỉ lo ôm sách ngồi vừa đánh xe vừa đọc, mặc kệ Jack một mình luyên thuyên đủ thứ chuyện.

Nguồn ebooks:

Xe đi được hai ngày, xung quanh vẫn là đồng ruộng mênh mông, bỗng trông thấy một quả đồi đột ngột gồ lên đằng xa, trông rất nổi bật. Xe ngựa chầm chậm đi qua quả đồi, Lục Kiều Kiều phát hiện dưới chân đồi có một thôn trang nhà gạch san sát, cả quả đồi như một cây cột lớn đổ kềnh trên mặt đất, đỉnh núi và hai bên sườn chen kín những cây đại thụ xanh mướt.

Lục Kiều Kiều bỗng nảy ra một ý nghĩ, vội kêu dừng xe, rồi trèo lên nóc xe nhìn ngắm cây cột đổ khổng lồ. An Long Nhi và Jack đứng dưới trông mỹ nữ leo trèo mà chẳng hiểu gì, nhưng họ biết cô nàng chắc chắn không làm chuyện vô vị, nhất định là có lý do riêng.

Lục Kiều Kiều quan sát một hồi, quả nhiên hỏi: “Long Nhi cũng lên đây đi, có thấy ngọn đồi nhỏ kia không?”

An Long Nhi và Jack cùng nhìn về phía Lục Kiều Kiều chỉ. An Long Nhi đáp: “Nhìn thấy ạ, chính là ngọn đồi đỉnh bèn bẹt…”

Lục Kiều Kiều nói: “Long Nhi, nghe cô nói đây.” Vẻ mặt cô vô cùng nghiêm túc, giọng nói đầy uy quyền và tự tin, hệt như lần trước dạy An Long Nhi giải quẻ tượng trên tầng hai trà lâu ở Phật Sơn vậy.

An Long Nhi và Jack đều tập trung tinh thần lắng nghe, Jack từng được chứng kiến sự lợi hại của Lục Kiều Kiều chỉ dùng mấy đồng tiền mà đoán ra trong túi anh mang bao nhiêu ngân lượng, biết cô gái này không những vẻ ngoài xinh đẹp, mà còn sở hữu năng lực của một phù thủy.

“Địa hình ta nhìn thấy lúc này gọi là Bình Dương Long Địa. Long mạch trong Bình Dương Long Địa ẩn sâu dưới lòng đất vô hình vô ảnh, chỉ những nơi long khí rò rỉ mới có thể thấp thoáng trông thấy dấu vết long mạch chảy qua…”

An Long Nhi nhìn quanh bốn phía, quả thực không thấy long khí rò rỉ ra chỗ nào, bèn hỏi: “Nơi long khí rò rỉ là gì ạ?”

Lục Kiều Kiều giải thích: “Cũng giống như khi người ta lặn thỉnh thoảng phải nhả bọt khí, rồng lặn dưới Bình Dương Địa cũng sẽ ngẫu nhiên nhả lên một ụ hay một gò đất nhỏ. Đã đọc Tuyết Tâm Phú chưa?”

An Long Nhi lắc đầu đáp: “Cháu đang đọc Kinh Dịch, vẫn chưa đọc đến quyển ấy.”

Lục Kiều Kiều nói: “Chưa đọc cũng không sao, về sau đọc đến khắc hiểu, giờ cô nói gì mày nhớ kỹ lấy: Ngọn đồi này nằm trên đường long mạch chạy qua, gọi là Đảo Địa Mộc Tinh cục, xem có thấy giống một thân cây đổ kềnh trên mặt đất không?

An Long Nhi gật đầu: “Giống.”

Lục Kiều Kiều lại nói: “Nhìn phía Bắc Đảo Địa Mộc Tinh… Nhìn thấy chưa? Thấp thoáng có mười mấy ụ đất nhỏ, cái này nối tiếp cái kia, vừa khéo tạo thành một tuyến đường chín khúc long hành từ Bắc tới Nam, cuối cùng long khí kết tụ thành Đảo Địa Mộc Tinh cục này. Đảo Địa Mộc Tinh đầu tròn thân bằng, không mấp mô xiêu vẹo, ý nói cái thân cây này là vật liệu hữu dụng có thể làm thành cột lớn, đây là thượng đẳng cách cục trong Mộc Tinh cục…”

An Long Nhi và Jack nghe Lục Kiều Kiều giảng giải, quả nhiên nhìn ra gò đất nhỏ trông như thân cây vừa dài vừa thẳng, ngay ngắn rất đẹp mắt.

“Mộc tinh cũng là Văn Khúc tinh, loại Mộc Tinh thượng cục ngay ngắn này nếu vận dụng tốt, có thể sản sinh ra những bậc văn nhân cao quý, thế nên thôn trang dưới đồi mới nhiều nhà thơ lễ, kẻ đọc sách trong thôn cũng thường giành được tam giáp chốn khoa cử, rạng danh tổ tông.”

“Cây cối trên đồi đều xanh rì cao lớn, đồng cỏ bốn bề cũng vô cùng tươi tốt, đều là nhờ long khí tiết ra từ Mộc tinh tạo thành, cây cối và Mộc Tinh cục tương phụ tương sinh, hỗ trợ hỗ chứng, chính là nguyên nhân khiến thôn này giàu có đông đúc. Đương nhiên mộ tổ thôn bọn họ cũng sẽ nằm trên Đảo Địa Mộc Tinh cục này… Có điều nhiều cây quá nên giờ vẫn chưa nhìn ra mộ tổ nằm ở đâu thôi.”

An Long Nhi trầm ngâm suy nghĩ, còn Jack chỉ biết há mồm trợn mắt, anh không ngờ trên đời này lại có người có thể thông qua hình thái địa lý giải thích cả xã hội loài người.

Lục Kiều Kiều nói tiếp: “Thôn trang này văn chương tài phú đều đủ cả, chỉ duy khuyết đường nối dõi. Mày xem thôn trải từ hướng Tây Bắc tới Đông Nam, lưng dựa Địa Mộc Tinh, mặt trước có một con sông nhỏ từ hướng Tây chảy lại, quành một vòng ra sau thôn chảy về hướng Nam, có biết hướng Tây thuộc gì trong Ngũ hành không?”

An Long Nhi đáp: “Hướng Tây thuộc Kim, vì Kim khắc Mộc nên ảnh hưởng đến Mộc Tinh cục phải không ạ?”

Lục Kiều Kiều cười nói: “Đúng một nửa, nước từ phía Tây tới mang theo Kim khí, đem đến quan vận nhưng cũng làm yếu Mộc khí, thảm nhất là dòng sông chảy về hướng Nam… Vì hướng Nam thuộc Hỏa, Mộc sinh Hỏa, hướng Nam tượng trưng cho con cái Mộc Tinh cục sinh ra, con sông chảy về hướng Nam lại chạm đúng vào Hỏa vị phương Nam, nên các nhà trong thôn đa số hiếm muộn, khó về đường nối dõi…”

Jack càng nghe càng thấy đáng sợ, không sao tưởng tượng nổi Lục Kiều Kiều đang nói cái gì, cũng không biết là thật hay giả.

Lục Kiều Kiều thấy vẻ mặt hoang mang nghi ngờ của Jack thì cười nói: “Chúng ta sắp vào thôn kiếm một món tiền lớn rồi, nhưng anh phải đồng ý một chuyện, từ lúc vào thôn, tất cả mọi thứ đều nghe theo tôi.”

Jack căng thẳng gật đầu: “Được, được.”

“Tiền kiếm được chia cho anh một phần!” Lục Kiều Kiều ghé sát mặt tới trước mặt Jack.

Jack lại gật đầu: “Được, được.”

Lục Kiều Kiều nhìn sang An Long Nhi: “Vừa rồi cô nói gì mày nhớ kỹ chưa?”

An Long Nhi gật đầu nói: “Nhớ rồi ạ.” Bấy giờ Lục Kiều Kiều mới nhảy khỏi xe, gọi An Long Nhi leo xuống bên cạnh mình.

Lục Kiều Kiều thì thào một hồi bên tai An Long Nhi, Jack không nghe nổi tiếng nào, xong đâu đấy, Lục Kiều Kiều lại leo lên đứng trên chỗ đánh xe, sắp đặt nhiệm vụ cho hai anh chàng tóc vàng: “An Long Nhi vào ngồi trong khoang xe, thả hết rèm cửa xuống, Jack làm phu xe, không được nói năng gì, lát nữa tôi hỏi có phải không anh cũng chỉ được gật hoặc lắc. Được rồi, mau đánh xe vào thôn thôi, anh phu xe Tây.”

Lục Kiều Kiều gõ lên chiếc mũ bò của Jack, cười kha kha.

Xe ngựa hừng hực khí thế tiến vào thôn trang, đến trước ngôi từ đường giữa thôn mới dừng lại, thu hút bao ánh nhìn của người dân quê.

Xe ngựa Tây, người Tây, lại thêm một cô nương duyên dáng đứng trên mui xe, mình mặc áo lục tay cầm quạt, mặt nghếch lên trời vô cùng ngạo mạn.

Lục Kiều Kiều đưa mắt nhìn tấm biển đề “Văn Hựu Công từ” trên ngôi từ đường cao lớn khang trang, thầm nhủ quả nhiên không ngoài dự đoán, đây là một thôn trang giàu có, giỏi cả làm nông lẫn đọc sách, canh bạc này ăn chắc rồi đây.

Người dân trong thôn nô nức vây lại, song vừa trông thấy người Tây đã có phần hiếu kỳ sợ sệt, dẫu sao vào thời buổi này, địa vị của người Tây ở Trung Quốc cũng tương đối cao, huống hồ người Tây này còn đeo một khẩu súng Tây nữa. Lại thấy cả cỗ xe ngựa Tây lộng lẫy cùng một tiểu mỹ nữ xinh đẹp động lòng người có thể khiến người Tây nghe lời, dân làng càng thêm căng thẳng cực độ, dồn hết chú ý vào bọn họ.

Lục Kiều Kiều dồn tụ Đan Điền, nói lớn: “Nam Nhạc Hoành sơn Cửu Chân Quan Linh Hư tiên đồng kinh qua quý thôn, nhận thấy thôn các vị sắp có đại nạn ập đến, giờ muốn gặp Trần đại lão gia của các vị!”

Không lâu sau, một người đàn ông trung niên dáng vẻ như người có học bước ra, tới trước cỗ xe ngựa, ngẩng đầu nhìn Lục Kiều Kiều, chắp tay nói: “Cô nương có chuyện gì có thể xuống đây rồi nói được không… Quả thực là cao quá…”

Lục Kiều Kiều không xuống xe, cứ đứng trên cao ngất ngưởng ngửa đầu nhìn trời cười một tràng dài, tiếng cười lanh lảnh vang vọng trước ngôi từ đường, khiến ai nấy đều sởn gai ốc.

Lục Kiều Kiều lại nói lớn: “Bản cô nương có chuyện gì ư? Kẻ có chuyện là thôn các người đấy, vốn dĩ hoàng đế nước Hoa Kỳ sai người tới đón Linh Hư tiên đồng đi làm phép trừ yêu…”

Jack lí nhí sửa lời: “Là tổng thống…”

Nhưng Lục Kiều Kiều bỏ ngoài tai, một mặt vẫn tiếp tục nói, một mặt len lén giơ chân đạp cho Jack một cái.

Jack trúng một đạp vào cẳng chân, bèn ngửa mặt nhìn trời như không có chuyện gì.

“Linh Hư tiên đồng đi ngang qua đây, chợt có linh cảm rằng sắp có đại họa giáng xuống đầu các người, nhất thời đại phát từ bi mới dừng xe lại muốn tìm Trần lão gia nói đôi điều. Mau mời Trần lão gia ra đây, đừng lãng phí thời gian, tiên đồng còn phải tới Quảng Châu lên thuyền xuất dương!”

Người đàn ông vừa bước ra thấy cứ thế này mãi cũng không phải cách, bèn chạy lại vào thôn, một lúc sau dìu ra một ông lão râu tóc bạc phơ.

Lục Kiều Kiều trở tay đập bộp mu bàn tay lên ngực Jack: “Tươi tỉnh lên!” Jack lập tức thẳng lưng, ngồi đường hoàng trên ghế đánh xe.

Lục Kiều Kiều nhảy xuống xe, cúi người làm lễ trước ông lão râu tóc bạc phơ, đoạn nói: “Chúng tôi là sứ giả nước Hoa Kỳ, tới đón Nam Nhạc Hoành sơn Cửu Chân Quan Linh Hư tiên đồng tới Quảng Châu lên thuyền đi Hoa Kỳ giúp tổng thống trừ yêu diệt quỷ, nhưng tiên đồng đi ngang qua đây, nhận thấy nơi này sắp có đại họa giáng xuống…”

Nói đến đây cô liếc nhìn Jack, Jack mỉm cười gật đầu với ông lão, tỏ vẻ thừa nhận, cũng coi như chào hỏi luôn.

Ông lão râu trắng nói: “Lão phu chính là Trần mỗ, không biết tiên đồng có gì dạy bảo? Có thể mời tiên đồng xuống xe… vào từ đường nói chuyện được không?” Vừa nói ông ta vừa vươn dài cổ định quan sát bên trong khoang xe.

Lục Kiều Kiều nói: “Linh Hư tiên đồng không dễ gặp người lạ, mong Trần lão gia đừng lấy làm ngạc nhiên.” Đoạn quay người nói vọng vào trong xe: “Linh Hư tiên đồng đại sĩ, đã mời được Trần lão gia tới, mời ngài huấn thị.”

Từ trong xe quả nhiên truyền ra tiếng một đứa bé trai: “Trần lão gia, thôn các ngài sau lưng dựa vào Đảo Địa Mộc Tinh cục, có rồng từ phía Bắc tới, nước từ phía Tây về…”

An Long Nhi ngồi trong xe, đem nguyên văn đoạn Lục Kiều Kiều ban nãy phân tích phong thủy Đảo Địa Mộc Tinh cục đọc to lại một lần, khiến Trần lão gia cùng mọi người trong thôn đứng bên nghe, ai nấy đều gật gù không ngớt.

Lục Kiều Kiều cũng chăm chú lắng nghe, An Long Nhi nói tròn vành rõ chữ, ngữ điệu đanh thép hùng hồn, đọc thuộc làu làu những gì Lục Kiều Kiều đã nói, đứng bên nghe hoàn toàn không nhận ra thằng bé đang trả bài, Lục Kiều Kiều thầm gật đầu hài lòng.

Trần lão gia nghe xong vô cùng khâm phục, run run bước lại bên xe, nói vọng vào cửa sổ: “Linh Hư tiên đồng quả nhiên đạo thuật tinh diệu, cứ như tường tận sự tình thôn chúng tôi vậy… Thôn này đông người đọc sách, đã có vài vị thám hoa bảng nhãn, tại hạ đây cũng là cử nhân, hiểu sơ sơ phong thủy. Thôn Trần gia chúng tôi trải qua mấy thế hệ, nhờ bố cục phong thủy mà hạnh phúc bình an ấm no đủ cả, chỉ riêng có chuyện phận mỏng hiếm muộn là không cách nào hóa giải… Hộ nào cũng gặp phải chuyện này, phúc phận sinh được mụn con thì đều chết yểu, thật đã đau lòng còn thương thân…”

Jack tận mắt chứng kiến Trần lão gia bộc bạch, bất ngờ đến suýt ngã khỏi xe, chỉ biết ngồi yên tròn mắt nhìn Lục Kiều Kiều, Lục Kiều Kiều cũng mím chặt môi quay lại trừng mắt với Jack.

“Xin hỏi tiên đồng thôn chúng tôi sắp phải chịu đại họa gì?” Trần lão gia kể xong sự tình lại hỏi An Long Nhi.

An Long Nhi đáp: “Qua Trung thu, Thái Tuế phá Nguyệt phá xung long mạch, đại sát cung Càn Tây Bắc, thôn các vị sẽ gặp phải dịch bệnh, những người là con trưởng đã có con nối dõi đều không thể sống sót…”

“Á?!” Cả Jack lẫn Trần lão gia, cùng toàn thể dân chúng trong thôn đều kinh hãi kêu lên.

Trần lão gia bị dọa gần như phát khóc: “Tiên đồng ngài phải cứu chúng tôi! Chúng tôi biết làm sao đây?”

Lục Kiều Kiều nói: “Trước khi vào thôn tiên đồng đã nói, Thái Tuế xung long mạch, long mạch bất an trước tiên sẽ chấn động núi tổ, sau đó mới ảnh hưỏng tới thôn trang, thương hại mạng người, tiên đồng nói mộ tổ thôn các vị nhất định nằm trên ngọn đồi sau lưng!”

Dân thôn nhao nhao nói phải, nhất tề van xin Linh Hư tiên đồng lên đồi xem mộ tổ.

Lục Kiều Kiều tháo yên cho một trong hai con ngựa kéo xe, dắt tới trước cửa xe.

Cửa xe bật mở, một bóng người vụt ra, nhảy vọt lên không trung, sau đó chuẩn xác hạ xuống vững chãi trên lưng ngựa.

Dân chúng trong thôn trông thấy một cậu bé mười hai mười ba tuổi tướng mạo đường đường, phong thái hiên ngang, đầu tóc vàng hoe, xương cốt tráng kiện, lưng đeo tay nải cùng một cây trượng gỗ đầu tròn đuôi nhọn, quả nhiên là đạo cốt tiên đồng, thì như thấy thần tiên hiển linh.

Lục Kiều Kiều để Jack ở lại từ đường trông chừng xe ngựa, còn mình dắt dây cương cho An Long Nhi, cùng Trần lão gia và mọi người lên đồi.

Đến giữa đồi, đoàn người dừng lại trước một mộ phần, rộng hơn ba trượng, được xây to đẹp, quét dọn rất sạch sẽ, có thể thấy đây chính là nơi yên nghỉ của tổ tiên các hộ trong thôn.

Lục Kiều Kiều nhìn quanh bốn phía, xem long hổ tứ ứng bát phương cát hung, sau mới bước tới trước bia mộ đá, rút ra một chiếc la bàn to bằng bàn tay, đặt lên tấm bia xem xét một hồi.

Lục Kiều Kiều nhìn quẻ tuyến trên la bàn, trong bụng đã có phương án ứng cứu giúp ngôi làng này.

Cô đưa mắt ra hiệu cho An Long Nhi đang ngồi trên ngựa, thằng bé liền tung mình đứng lên lưng ngựa, khiến dân làng và Trần lão gia lập tức nhìn theo, không biết tiên đồng định làm gì.

Trong khi mọi người đang đổ dồn chú ý về An Long Nhi, Lục Kiều Kiều đứng bên bia mộ lật tay trái, lòng bàn tay hướng về phía mình, tay phải chắp thành kiếm quyết, vẽ lên lòng bàn tay trái một đạo Lôi phù, miệng nhẩm bùa chú.

Đây chính là cấp thuật Chưởng tâm phù của Thiên sư đạo ở Long Hổ sơn tỉnh Giang Tây.

Chưởng tâm phù có rất nhiều tác dụng, tuy uy lực không hẳn cực mạnh, nhưng một khi vận dụng thì rất mau đạt hiệu quả, là môn học bắt buộc đối với người học đạo.

Lúc này An Long Nhi đứng trên lưng ngựa, tay trái rờ ra sau lưng vỗ từ dưới lên trên tay nải đang đeo, từ tay nải phóng ra một chiếc la bàn lớn cỡ vung nồi.

Chiếc la bàn bay vút lên chừng hơn một trượng thì hạ xuống đỉnh đầu An Long Nhi, từ trên lưng ngựa, An Long Nhi nhảy vọt lên không trung, tung chân đá chiếc la bàn bay về phía bái đường trước mộ.

Trước mỗi mộ phần thông thường đều có một khoảng đất trống gọi là bái đường, cứ khi đến kỳ cúng giỗ, hậu nhân có thể đứng ở đây dâng hương bái tiền nhân. La bàn đập xuống mảnh đất phía trước cách bia đá chừng một trượng, đánh “binh” một tiếng. Bàn tay trái vẽ Lôi phù của Lục Kiều Kiều chụm thành kiếm chỉ, đồng thời chỉ thẳng vào vị trí la bàn tiếp đất.

Chỉ thấy chỗ la bàn rơi xuống lóe lên một quầng sáng trắng, sau tiếng sấm vang rền, từ mặt đất bốc lên một làn sương khói, khiến mọi người đều đồng thanh kêu lên kinh ngạc.

An Long Nhi đá bay chiếc la bàn xong, xoay người trên không trung đá liền ba cước nữa, tà áo bay phần phật trong gió Chiêu này gọi là Toàn Phong cước, vì mượn thân xoay tròn tiếp lực đá ra liên hoàn, kình lực ắt kinh người, khi tung Toàn Phong cước, có thể nghe thấy trên không những tiếng đá liên hồi, cho nên chiêu này còn được gọi là Phích Lịch Toàn Phong cước.

Tiếng chân đạp gió vừa dứt, An Long Nhi đã chuẩn xác đáp xuống chiếc la bàn trước bia mộ. La bàn tiếp đất cộng thêm Chưởng Tâm Lôi quyết của Lục Kiều Kiều khiến khoảng bái đường trước bia mộ mịt mù khói bụi, dân chúng trong thôn chưa từng trông thấy cảnh tượng này bao giờ, vội vàng dạt ra xa. Trong khói bụi mịt mờ, An Long Nhi rút ra một sợi thừng đầu gắn phi tiêu dài chừng một trượng ba thước, liên tiếp quất ra bốn phương tám hướng, mọi người chỉ nghe thấy tiếng vù vù xé gió, biết vòng tròn ấy là khu vực nguy hiểm, lại càng không dám tiến gần.

Roi tiêu quất vun vút một hồi, An Long Nhi lại từ la bàn nhảy lên, lướt qua đầu đám dân thôn, quay về ngồi chễm chệ trên lưng ngựa, mặt không đỏ, hơi không loạn, quả thật tĩnh như khuê nữ, động tựa thỏ chạy.

Màn khói sương ở bái đường vẫn chưa tan hết, An Long Nhi đã không nói không rằng, quay đầu thúc ngựa xuống núi, chui vào trong xe ngồi không ra nữa. Mọi người trố mắt ra nhìn, hoàn toàn không hiểu đã xảy ra chuyện gì.

Khói sương dần tan đi, giữa bái đường là một chiếc la bàn lớn, mặt đất xung quanh la bàn xuất hiện hơn chục tia cắt, lấy la bàn làm tâm tỏa ra như hình nan quạt, rõ ràng là dấu vết An Long Nhi múa sợi thừng để lại.

Lục Kiều Kiều lấy trong người ra hai đồng tiền ném lên trời, đợi tiền rơi xuống đất, xem thấy một sấp một ngửa, một âm một dương, quẻ tượng đại cát, mới nói với Trần lão gia: “Trần lão gia, Linh Hư tiên đồng có để lại cách giải cứu bại cục phong thủy, giờ coi qua ý trời, thấy Trần gia thôn các vị quả có phúc sử dụng đại cục này, nhưng từ đường Trần gia phải quyên ra hai trăm lạng bạc ròng, coi như cả tộc Trần thị đáp đền thành ý thiên ân.”

Trần lão gia vẫn ngây người, chưa định thần lại được trước cảnh tượng vừa rồi.

Người đàn ông trung niên vẫn dìu Trần lão gia bấy giờ mới ghé tai ông ta nói: “Thái công, xem chừng phải quyên hai trăm lượng bạc trước thôi, nếu không cô nương này sẽ không nói ra cách giải phong thủy đâu.”

Trần lão gia nghe vậy vội vàng gật đầu: “Quyên, quyên chứ! Đa tạ Linh Hư tiên đồng huấn thị!”

Lục Kiều Kiều nghe Trần lão gia nói chịu quyên bạc, mỉm cười cúi người cảm tạ, đoạn nói: “Trần lão gia cũng là bậc thầy phong thủy, chỉ là ý trời chưa ứng, có được núi lành định được hướng lành nhưng không đạt được đường lành, Mộc Tinh Đảo Địa cục này, cát huyệt táng ở nơi Mộc tinh đâm chồi, vốn ứng với con cháu đầy đàn, nhưng tuyến đặt quẻ lại chệch mất nửa phân.”

Thấy Trần lão gia nhập tâm lắng nghe, Lục Kiều Kiều nói tiếp: “Cát huyệt này nằm trên hướng Đông Nam sang Tây Bắc, nhờ Càn sơn Tốn hướng mà thu khí quẻ Địa Thiên Thái, nhưng lại thu nhầm hào tuyến, vạn sự đại cát, độc thương tử tôn… Giờ được Linh Hư tiên đồng chỉ dạy, tấm bia này phải dịch sang trái nửa phân, thu sơ hào của quẻ Thái, hình thành quẻ tượng tử tôn Sơn Thiên Đại Súc, trong vòng nửa năm ắt có quý tử…”

Lục Kiều Kiều nhìn quanh, thấy mọi người vẫn còn ngơ ngác mông lung, bèn nghiêm giọng quát lớn: “Linh Hư tiên đồng dạy rằng, lúc này đang giờ lành, không mau động công, còn đợi đến lúc nào!”

Trần lão gia vừa nghe nói là giờ lành, lập tức kêu gọi mọi người: “Còn không mau đem cuốc xẻng lại đây, dịch chuyển bia mộ! Mau lên! Mau lên!”

Một nhóm người trong thôn xúm lại dịch chuyển bia đá theo tuyến đường Lục Kiều Kiều vẽ ra, tuy bia đá chẳng qua chỉ cần dịch sang bên trái nửa phân, nhưng thứ Lục Kiều Kiều vận dụng là thuật phong thủy Dương công thượng thừa, phương vị chuyển dịch chỉ một phân một độ đã có thể cải thiên hoán địa, đón cát lánh hung, quyết không phải dối gạt.

Sau khi đo đạc lại bia tuyến chuẩn xác không chút sai lệch, Lục Kiều Kiều cùng Trần lão gia và mọi người xuống đồi, đợi kế toán của từ đường đưa ra hai trăm lạng bạc trắng. Cô từ chối bữa cơm khách, trở vào xe ngựa, chạy thẳng khỏi Trần gia thôn.

Rời Trần gia thôn đi về hướng Bắc, sắc trời càng lúc càng tối, vầng trăng đã treo lơ lửng đằng Đông. Giờ đang là mùa thu, qua mấy ngày nữa là đến Trung thu, ánh trăng rải trên đồng cỏ, tựa như rắc lên mặt đất một lớp thủy ngân.

Xe ngựa vẫn thong dong tiến về phía trước, bọn Lục Kiều Kiều ở trong xe cũng đang vui vẻ nô đùa.

Lục Kiều Kiều đòi Jack đem thùng rượu tây ra rót đầy nửa túi rượu da trâu, chuốc cho mình. Jack cũng lấy ra bình rượu đeo bên hông, uống cùng Lục Kiều Kiều. Anh nói đây là rượu Tequila của nước Mexico, tuy vừa cay vừa đắng, nhưng một thùng nhỏ này có thể bán được hơn một trăm lạng bạc. An Long Nhi thực không uống nổi thứ rượu này, nhe răng trợn mắt nhai bánh mì tây Jack đem theo trên xe, thỉnh thoảng lại bị Lục Kiều Kiều cướp lấy véo một miếng bỏ tọt vào mồm.

Lục Kiều Kiều móc trong túi tiền ra hai lạng bạc ròng, bạc ròng không phải ngân phiếu, mà là thỏi bạc đích thực, thỏi nào thỏi nấy nặng trĩu tay. Cô chia cho Jack và An Long Nhi mỗi người một lạng.

An Long Nhi cả đời chưa từng được nhận nhiều tiền thế này, vui đến không khép nổi miệng. Nhưng Jack chứng kiến Lục Kiều Kiều thu những hai trăm lạng bạc, mà chỉ chia cho mình một lạng tiền công thì chê ít, bám rịt lấy Lục Kiều Kiều đòi phí tổn xe ngựa, lải nhải mãi không thôi.

Đợi khi đã cách Trần gia thôn một quãng thật xa, Lục Kiều Kiều mới tìm một chỗ dừng xe bên con sông nhỏ huyện Khai Dương để đánh một giấc.

Jack lôi bọc đồ lớn trên nóc xe xuống, dựng trên đồng cỏ một căn lều khiến Lục Kiều Kiều vừa kinh ngạc vừa thích thú, bò ra bò vào nghịch mãi một hồi. An Long Nhi ra xung quanh nhặt ít cành cây khô về, nhóm một đống lửa trước lều.

Ba người cuối cùng cũng có thể dừng chân, ngồi xuống nghỉ ngơi, Lục Kiều Kiều chui vào trong lều nằm một lúc đã ngủ thiếp đi.

Ngày hôm sau tỉnh dậy, Lục Kiều Kiều ra bờ sông sửa sang xong xuôi, lại gấp rút hối hai anh chàng tóc vàng lên đường.

Trên đường đi, Jack cuối cùng cũng không nhịn nổi, lên tiếng hỏi Lục Kiều Kiều về chuyện ngày hôm qua.

“Kiều Kiều, hôm qua rốt cuộc cô đã làm gì thế? Tôi chẳng hiểu tí tẹo nào, cũng không biết vì sao cô lại đoán chính xác chuyện xảy ra ở cái thôn ấy như thế?”

Jack mở ra chủ đề câu chuyện.

Thứ Lục Kiều Kiều đợi chính là câu hỏi này của Jack. Cô hiểu rõ chuyến đi về Giang Tây lần này có liên quan rất lớn tới phong thủy, hơn nữa tuyệt đối không phải du sơn ngoạn thủy. Cho đến giờ bọn họ vẫn chưa gặp phải nguy hiểm nào trên đường đi, chỉ là bởi bọn họ vẫn còn có giá trị lợi dụng. Cô không biết đối phương là người thế nào, nhưng dựa vào cách thức bọn họ chọn đúng thời điểm thích hợp đột nhập vào nhà cô trong ngõ Hinh Lan tìm đồ, có thể thấy đối phương nắm rất rõ hành tung của cô, cuộc hành trình hiện nay, cũng rất có thể đang nằm dưới sự giám sát của đối phương.

Thời điểm đối phương tới nhà cô tìm đồ cực kỳ chuẩn xác, lúc rời đi lại không lấy bất cứ tài sản gì, đây hiển nhiên là một dấu hiệu thị uy lộ liễu. Đối phương căn bản không cần vờ như mình là kẻ trộm vặt, hơn nữa vẫn để lại tài sản cho cô, để cô có chỗ mà đi, có tiền mà tiêu, rõ ràng có ý nói cho Lục Kiều Kiều biết lý do họ tới, tiếp đó để Lục Kiều Kiều tự nghĩ xem, nên đi đâu, làm gì.

Lục Kiều Kiều muốn cắt đứt sự đeo bám của đối phương, chỉ cần giao ra Long Quyết, hoặc người nhà của cô phải giao ra Long Quyết.

Ngày nào Long Quyết chưa xuất hiện, ngày đó Lục Kiều Kiều còn không lo nguy hiểm tính mạng, nhưng cũng đừng hòng được sống yên thân.

Sự xuất hiện của An Thanh Nguyên cũng trùng hợp đến kỳ lạ, khiến Lục Kiều Kiều bán tín bán nghi. Lục Kiều Kiều không hề ghét bỏ người anh này, bởi từ nhỏ hai người đã chẳng gặp nhau được mấy lần, quá xa lạ, căn bản không thể nói là thích hay ghét.

An Thanh Nguyên là người trong chốn quan trường, tuy nói là quan văn trong Hàn Lâm viện, nhưng Lục Kiều Kiều rất rõ, anh ta chắc chắn là một thầy phong thủy cao tay, trước đây còn chuyên quản huyền học thuật số thuộc Khâm Thiên giám trong nội cung. Nếu như phía quan phủ muốn có được Long Quyết thì anh ta về nhà trực tiếp hỏi cha chẳng phải là xong sao? Cớ gì tìm cô bày trò thế này?

Nếu như An Thanh Nguyên vốn không hề biết chuyện này, vậy sự xuất hiện của anh ta liệu có phải cũng do một lực lượng nào đấy của quan phủ đưa đẩy? Nếu đúng là vậy, cả nhà họ sẽ giống như lời An Thanh Nguyên nói, vì Long Quyết mà lâm vào hiểm nguy. Giữa vô vàn những mắc mớ trong lòng, Lục Kiều Kiều hiểu rõ nhất một điều, chính là đối phương đang ép cô về lại quê nhà Giang Tây, ép cô giải quyết chuyện Long Quyết, nếu cô tìm cách trốn chạy, thì lần sau e rằng không chỉ bị người ta đột nhập gia tư đập phá đồ đạc, mà còn gặp phải mối nguy hiểm lớn hơn.

Đối phương là ai? Vì sao muốn có Long Quyết? Đối phương ở đâu? Lớn mạnh nhường nào? Tất cả đều phải đợi Lục Kiều Kiều về tới nhà, chạm tới Long Quyết, mới có thể giải đáp được.

Trong chuyến hành trình này, An Long Nhi chỉ đóng vai trò hộ vệ. Thằng bé tận mắt chứng kiến gia đình xảy ra chuyện, hẳn cũng đã chuẩn bị tâm lý tương đối, nhưng chỉ dựa vào đầu óc giản đơn của một đứa trẻ, chắc không tưởng tượng nổi trước mặt có bao nhiêu nguy hiểm. Jack thì chắc chắn đã thích cô, anh ta rất thiện chiến, nhưng đến tận giờ vẫn cứ nghĩ chuyến đi này là một cuộc du ngoạn. Nếu muốn anh phối hợp giải quyết chuyện này, nhất định anh sẽ không sợ hãi thoái thác, nhưng muốn anh hiểu đối thủ vô hình trước mặt muốn chiếm đoạt thứ gì từ cô, lại chẳng phải chuyện đơn giản.

Lục Kiều Kiều không hề có ý định kiếm tiền trên đường đi, nhưng cô muốn cho Jack tận mắt chứng kiến phong thủy là gì, như vậy Jack mới có thể hiểu được chuyến đi này của họ nguy hiểm nhường nào, màn biểu diễn phong thủy ở Trần gia thôn là vô cùng cần thiết.

Nếu chủ động nói với Jack rằng Trung Quốc có loại thần thuật này, anh sẽ chỉ coi đó là trò phù thủy; nhưng trước tiên cho Jack thấy sức mạnh phong thủy thật sự, để tự anh phải lên tiếng hỏi về vấn đề này, thì sẽ hiệu quả hơn nhiều.

“Jack, không phải tôi đoán được ở thôn đó xảy ra chuyện gì, mà là nhờ vận dụng một loại thần thuật cổ xưa, người Trung Quốc gọi là phong thủy.”

Jack rất hào hứng lắng nghe, ánh mắt lộ ra thần sắc Lục Kiều Kiều muốn thấy nhất, hiếu kỳ mà hoang mang.

Lục Kiều Kiều chậm rãi giải thích: “Thuật phong thủy có thể thông qua thăm dò đất đai để biết được về người và sự việc liên quan đến mảnh đất đó; cũng có thể thông qua việc khống chế và cải biến đất đai, mà thay đổi và khống chế vận mệnh của con người, thậm chí cả chuyện sống chết. Thuật phong thủy có rất nhiều cách thức vận dụng đối với sự vật, có thể đạt đến hiệu quả thần kỳ. Anh có thể cho rằng đây là thuật phù thủy, nhưng dù là ma thuật phù thủy thì nó cũng là một sức mạnh đích thực, anh đã thấy tận mắt rồi đấy.”

Jack gật đầu nói: “Đúng thế, thật là thần kỳ.”

“Dòng họ chúng tôi nắm giữ bí thuật phong thủy thần kỳ nhất, vĩ đại nhất thiên hạ, gọi là Long Quyết. Giờ có người muốn chiếm lấy Long Quyết, bọn họ cho rằng cuốn sách ghi chép về thuật phong thủy này nằm trong tay tôi, nên vẫn theo dõi tôi thậm chí còn đột nhập vào nhà tôi uy hiếp, vì vậy tôi mới buộc phải rời khỏi Quảng Châu…”

Jack trông có vẻ vẫn mông lung mơ hồ, đầu óc nhất thời không tiêu hóa nổi nhiều vấn đề như thế, bất giác đưa tay lên gãi đầu.

Lục Kiều Kiều đem chuyện loạn An Sử thời Đường, An Linh Đài công chạy khỏi cung đình mang theo Long Quyết ẩn cư vùng Giang Tây cho tới những chuyện mới xảy ra gần đây kể cho Jack, nói mãi hồi lâu cuối cùng mới khiến Jack hiểu được, thì ra chuyến hành trình lần này của họ vô cùng nguy hiểm…

An Long Nhi ngồi một bên yên lặng lắng nghe, bộ dạng có vẻ như hiểu, lại có vẻ như không hiểu, song tuyệt không hề lộ vẻ sợ hãi hay kinh ngạc.

Jack nói với Lục Kiều Kiều: “Nếu không phải chứng kiến chuyện ở thôn Trần gia, tôi quả thực không dám tin những lời cô nói, nhưng giờ tôi hiểu rồi, thì ra tự tôi đã chọn cùng cô chạy trốn.”

Lục Kiều Kiều thoáng mỉm cười, nghiêng đầu hỏi Jack: “Anh hối hận không? Sợ không?”

Jack xòe tay về phía Lục Kiều Kiều, nói: “Công chúa của tôi, đây là Thượng đế đã an bài, cũng chính là mọi thứ tôi muốn! Nào, đập tay tôi một cái.”

Lục Kiều Kiều cắn môi cười hạnh phúc song cũng không kém phần mờ ám, giơ bàn tay nhỏ ra đập thật mạnh xuống tay Jack. “Bốp!”

Con đường phía trước không còn là đồng ruộng bằng phẳng nữa, mà là những dãy núi chót vót kéo dài hun hút tận chân trời.

Gian sảnh nhỏ trong phủ Đốc quân về đêm vẫn sáng ánh đèn.

Phó sứ phủ Quốc sư Chương Bỉnh Hàm đứng bên cửa sổ, ngắm ánh trăng sáng bên ngoài: “Lại sắp tới Trung thu rồi, thời gian trôi càng lúc càng nhanh…”

Quốc sư ngồi bên bàn, hai ngón tay chậm rãi gõ nhịp đều đều, tiếp lời Chương Bỉnh Hàm mà như lầm bầm độc thoại: “Tam nguyên cửu vận[5] tương sinh tương khắc, tự cổ chí kim, triều đại nào chẳng từng thế này…”

“Nhất định là ở Quảng Đông ư?” Chương Bỉnh Hàm trầm ngâm hỏi.

“Hai năm trước, một trăm tám mươi năm mới có một lần nguyên vận đất trời giao kết, bầu trời phía Nam chẵn một tháng hoàng khí xông thiên, con sư tử đá trước Ngọ môn phía Nam Tử Cấm thành đúng mùng năm tháng Năm đột nhiên gầm một tiếng kinh động, làm chiêng trống hai bên nhất tề rền vang, còn đầu rồng đá bên góc điện Huyền Vũ môn phía Bắc thì gãy lìa, chao ôi… Mệnh trời ứng với điềm trời, sư tử phương Nam gây nguy hại tới rồng xanh của Đại Thanh ta… Không phải Quảng Đông thì còn đâu nữa?”

Quốc sư miệng nói, hai ngón tay vẫn đều nhịp gõ xuống mặt bàn.

Chương Bỉnh Hàm quay người lại, hỏi Quốc sư: “Chuyện cô gái kia có cần tại hạ giúp gì không?”

Quốc sư nói: “Giờ vẫn chưa cần, ở Giang Tây đã sắp đặt xong rồi. Trên đường đi lần này, phải tìm hiểu rõ xem cô ta tài cán thế nào, có biết dùng Long Quyết hay không… Nếu như không tìm ra Long Quyết, chỉ còn người là thứ hữu dụng duy nhất…”

Chương Bỉnh Hàm nói: “Để tại hạ sắp xếp, cho cô ta thi thố một phen?”

Quốc sư nói: “Không, để ta sắp xếp, chỉ có ta mới biết môn học này nên thi thế nào.”

Cỗ xe ngựa của Jack nghênh ngang chạy trên đường cái quan, bọn họ biết rất có thể đằng sau có kẻ bám theo, nhưng chưa đến Giang Tây, chắc sẽ không gặp nguy hiểm, lúc này những kẻ bám đuôi có vẻ giống bảo tiêu hơn.

Biết rõ là như thế, nhưng thi thoảng Jack vẫn không khỏi quay đầu lại nhìn xem có ai đi theo họ không. Lục Kiều Kiều chỉ nằm ngả trong xe, an tâm hút thuốc. An Long Nhi vẫn ngày ngày đọc sách, không hiểu chỗ nào lại hỏi Lục Kiều Kiều, Lục Kiều Kiều lần nào cũng nhắc lại quy định đã đề ra lúc đầu: không hiểu không cần hỏi, nhưng rồi vẫn lơ đễnh giải thích cho thằng bé.

An Long Nhi hỏi Lục Kiều Kiều: “Cô Kiều, lần trước ở thôn Trần gia cô đặt lại bia tuyến, có thật là có hiệu quả không?”

Lục Kiều Kiều đang hút thuốc, mơ màng đáp: “Ờ… đấy là quẻ Công Tôn Tử Tức, chuyên trị tình trạng tổn hại nhân đinh, tấm bia đó chỉ dịch chuyển nửa phân là vận khí đã hoàn toàn khác rồi.”

An Long Nhi gật đầu nói: “Khi chúng ta quay lại, ngang qua đó có thể rẽ vào xem sao.”

Lục Kiều Kiều trừng mắt nhìn An Long Nhi: “Nhóc con mày thật có thiên tư đấy nhỉ, hành nghề phong thủy giống như đi học vậy, không thể một mực tin vào những điều trong sách, tự mình phải kiểm tra, chứng minh, mới biết được đã làm đúng hay sai, trong sách viết có phải là công phu thật hay không… Ngay đến khẩu quyết phong thủy cũng nói, chẳng tin kinh văn này, viếng mộ cổ nhân ấy…”

“Nhưng…” Lục Kiều Kiều lại nhắm mắt tận hưởng cảm giác phiêu bồng trong khói thuốc, “mày có cơ hội quay lại hẵng tính, bằng không, cô đã chẳng lấy mỗi hai trăm lạng bạc…”

An Long Nhi nhìn Lục Kiều Kiều: “Á? Cô còn định đòi cao hơn?”

Lục Kiều Kiều nói: “Không phải đòi cao hơn, mà là cô làm không đúng quy ước trong nghề… phá giá quá.”

Lục Kiều Kiều giải thích cho An Long Nhi: “Phong thủy âm trạch có hiệu quả cao, nhưng nếu dùng Dương công phong thủy thuật thường cần thời gian tương đối dài, bởi vậy thầy phong thủy làm phong thủy âm trạch, bày cục xong xuôi thu ít lộ phí là phải khăn gói đi luôn. Số tiền còn lại ba năm sau mới quay lại lấy… mà cũng chỉ lấy vàng, thông thường thu năm sáu chục lạng đã là phải chăng rồi, đương nhiên còn phải xem phúc phần bát tự của gia chủ và phúc lực của huyệt mộ ấy. Nếu gia chủ đã giàu có, nhà cao cửa rộng, cuộc sống sung túc đương nhiên có thể nhìn ra ngay, cục phong thủy thành công, thầy phong thủy có thể thu vàng rồi đi; còn nếu như bày cục thất bại, chết người bại sản khuynh gia thì có muốn thu cũng chẳng thu được…”

An Long Nhi nghĩ ngợi rồi lại hỏi: “Vậy nếu gia chủ đã thăng quan phát tài, nhưng lại giấu thầy phong thủy, nói cục phong thủy bày không thành, không muốn đưa tiền, chẳng phải thầy phong thủy công cốc sao?”

Lục Kiều Kiều bật cười ha hả: “Thằng oắt này đúng là nhân tài, cô vốn cũng không định dạy mày, nhưng giờ mới phát hiện ra mày quả thật đáng yêu đấy… Thầy phong thủy có quy tắc hành nghề riêng, sớm liệu được chiêu này, thông thường đều để lại cục phong thủy một cơ quan, nếu gia chủ dối gạt mình, tham giàu bất nhân, thầy phong thủy sẽ quay lại cục phong thủy mình đã bày, tiến hành phá cục.”

An Long Nhi chợt hiểu ra, “ồ” lên một tiếng: “Vậy nên…”

Lục Kiều Kiều nhanh miệng cướp lời: “Vậy nên thầy phong thủy là người phải đề phòng bị lừa nhất, trên người có thứ gì tốt thì người muốn lừa ta càng nhiều, đó gọi là tội ở kẻ mang ngọc.”

An Long Nhi nghe không hiểu: “Tội ở kẻ mang ngọc là sao ạ?”

Lục Kiều Kiều trong lòng nghĩ tới Long Quyết, nên buột miệng cảm thán mà thôi, không muốn lại phải dạy An Long Nhi tiết cổ văn, bèn buông gọn lỏn một câu: “Không liên quan đến mày, đừng hỏi nữa.”

Bình thường An Long Nhi chẳng có mấy cơ hội được nói chuyện với Lục Kiều Kiều, hôm nay hiếm lắm mới gợi chuyện được, nên vẫn cố hỏi tiếp: “Cô Kiều, bày cục phong thủy có thể thu vàng, sao cô chỉ đòi người ta bạc?”

Lục Kiều Kiều nói: “Thế gọi là tiền không thể kiếm vội, chúng ta không có thời gian kì kèo với bọn họ, chỉ có thể đánh nhanh thắng nhanh, đã ra tay là trấn áp đám người ấy, ra luôn một cái giá bọn họ có thể chấp nhận được, cầm được tiền rồi là biến. Chúng ta… chưa chắc đã có cơ hội quay lại đó lấy thêm bạc.”

Lục Kiều Kiều đang nói thì dừng, sắc mặt nghiêm nghị như suy nghĩ điều gì: “Thà đòi ít một chút, cầm tiền rồi dong thẳng, với phong thủy ở thôn bọn họ, chút tiền đó có đáng gì… hơn nữa cục diện đã được cứu rồi, nhận hai trăm lạng bạc cũng chẳng có gì phải hổ thẹn.” Nói xong cô lại quay đi hút thêm hơi thuốc.

Jack ngồi đầu xe ngắm phong cảnh, quả thật không nghe tiếp nổi nữa: “Kiều Kiều, tôi vượt biển xa xôi, bỏ ra bao nhiêu tiền vốn mới gây nổi một vụ làm ăn kiếm ít lời, còn cô ra tay một cái là thu của người ta những hai trăm lạng bạc mà còn chê ít à?”

Lục Kiều Kiều không hề núng thế: “Vậy trong tay anh có thứ gì có thể khiến các nhà các hộ ở thôn Trần gia bình an sinh con đẻ cái hay không? Ối dào…” nói đoạn ngáp một cái, “nếu có cũng có thể bán giá hai trăm lạng bạc…”

An Long Nhi vẫn còn muốn hỏi thêm: “Cô Kiều, ở trước mộ tổ Trần gia, cô cho tiếng sấm nổ làm cháu sợ phát khiếp, đấy là cái gì ạ?”

Lục Kiều Kiều vặn lại An Long Nhi: “Mày cho đó là gì?”

An Long Nhi nghĩ không ra, bèn đáp bừa: “Giống như tiếng pháo nổ…”

Lục Kiều Kiều bật cười: “Ha ha ha… mày cũng vui tính quá đấy, cô xem phong thủy còn phải kè kè theo người quả pháo, nhân lúc mày không để ý thì ném xuống chân mày chắc? Ha ha ha…” Lúc sau, cô ngưng cười, nghiêm mặt bảo An Long Nhi: “Đấy là Chưởng tâm phù, sau này mày cứ từ từ mà luyện.”

Nói rồi ngả đầu nằm ngủ.

Hôm đó đúng Trung thu, bọn Lục Kiều Kiều vào đến địa giới Thanh Thành.

Thanh Thành tiếp giáp Bắc Giang, là đầu mối giao thông đường thủy quan trọng giữa Nam Bắc Quảng Đông, dân cư đông đúc, hàng hóa phong phú không sao tả xiết.

Chạy xe liên tiếp mấy ngày, mọi người đều đã có chút mệt mỏi, Lục Kiều Kiều bèn sắp đặt cho ba người nghỉ lại một ngày trong một quán trọ ven sông.

Tối đến cả bọn lên thuyền khách trên dòng Bắc Giang, kêu nhà thuyền dọn một bàn bày rượu ngon cá ngọt ở đầu thuyền, lại mua cả hoa quả bánh trái, cùng đón tết Trung thu.

Bắc Giang là một con sông lớn, mặt sông giáp với Thanh Thành còn rộng hơn cả Châu Giang ở thành Quảng Châu, tết Trung thu ngồi thuyền du ngoạn Bắc Giang, có thể cảm nhận được mỹ cảnh “Giang thanh nguyệt cận nhân” trong thơ cổ nhân.

Lục Kiều Kiều rất tò mò về cuộc sống của Jack, nhân lúc ăn cơm bèn tranh thủ hỏi anh: “Ở Hoa Kỳ các anh có tết Trung thu không?”

Jack nói: “Không có tết Trung thu, nhưng có các lễ tết khác, ví dụ như Giáng sinh, Năm mới đều là các ngày lễ rất quan trọng.”

Lục Kiều Kiều vừa gỡ xương cá vừa hỏi: “Ngày lễ nào được mọi người trong gia đình coi trọng nhất, tụ họp đông đủ nhất?”

Jack đáp: “Chắc là lễ Giáng sinh.”

Lục Kiều Kiều dù gì cũng đang rỗi rãi, lại tiếp tục chuyện phiếm: “Lễ Giáng sinh là lễ gì?”

Jack ở Trung Quốc đã lâu, dùng đũa cũng rất thành thạo. Anh thích món gà hấp trên bàn, vừa nhồm nhoàm nhai thịt gà, vừa cố nói thật ngắn gọn: “Ờ… Đấy là ngày kỷ niệm con trai duy nhất của Thượng đế chào đời, ngài tên là Giê su.”

Lục Kiều Kiều nối: “Tên này đặt rất hay, sê su su sê, nghe đã thấy ngon rồi…”

“Ây, Giê su không phải để ăn…” nghe Lục Kiều Kiều đọc chệch, Jack nghẹn cả thịt gà. “Ự… không được ăn… ngài đại diện cho Thượng đế…” sau đó khó nhọc uống một ngụm nước cho trôi qua họng.

Lục Kiều Kiều lại hỏi: “Thượng đế chính là ông trời có phải không?”

Jack không nói nổi nữa, chỉ khổ sở nhắm chặt mắt gật gật đầu.

Lục Kiều Kiều lại tự động suy diễn: “Đến su sê cũng có thể đại diện cho Thượng đế, vậy thì bánh sữa có thể đại diện Quan Âm nương nương rồi…”.

Jack giải thích: “Giê su hơn hai nghìn năm trước vì thay chúng tôi chuộc tội mà chết, sau đó lại phục sinh.”

Lục Kiều Kiều dừng đũa, bưng chén trà hỏi: “Anh phạm tội gì mà cần người ta chết để chuộc thay?”

Jack lúng túng: “Tôi không phạm tội, nhưng con người sinh ra đã có tội… chính là cái chuyện… chuyện giữa nam với nữ đó…”

Nghe tới đây Lục Kiều Kiều liền vô cùng hào hứng, ghé đầu chớp mắt nhìn Jack hỏi: “Giữa đàn ông với đàn bà có tội gì cơ?”

Jack nhún vai, bĩu môi đáp: “Làm một số chuyện không nên làm thôi…”

Lục Kiều Kiều bắt chéo chân dưới bàn, chầm chậm khều khều vào chân Jack, cười mờ ám nói: “Dù sao cũng là chuyện rất xấu phải không… hì hì…”

Jack hiểu ý nhướng mày: “Cũng không hẳn là rất xấu, chỉ vì phép tắc của Thượng đế nghiêm quá thôi…”

Lục Kiều Kiều vẫn giữ nguyên nụ cười ám muội: “Su sê cũng thật trượng nghĩa, hai nghìn năm trước đã chuộc tội hộ anh, chắc giờ anh hết tội rồi nhỉ…”

Jack nuốt ực nước miếng: “À ừm… cái đó… lâu lắm cũng không mắc tội rồi.”

Lục Kiều Kiều lấy đầu đũa chọc chọc ngón tay Jack, thẽ thọt, nói, vẻ ngây thơ: “Nếu anh không có tội thì Su sê người ta chuộc cho anh làm gì…”

Jack không biết nên nói gì, Lục Kiều Kiều thấy vậy phá lên cười khanh khách, quay đi lớn tiếng gọi nhà thuyền: “Chủ thuyền, quay thuyền lại đi, chúng tôi muốn lên bờ!”

Jack vừa nghe vậy liền hùng hục ăn thịt uống rượu, phải no thì mới có sức được.

Ba người về đến quán trọ, Jack tắm rửa thay quần áo sạch sẽ, kêu An Long Nhi về phòng ngủ trước, nói mình phải tìm Lục Kiều Kiều bàn chút chuyện rồi chạy thẳng tới phòng Lục Kiều Kiều. Khóa trái cửa, thổi phụt đèn, khép hờ cửa sổ, ánh trăng vằng vặc rọi xuống mặt sông ngoài cửa càng làm người ta có cảm giác căn phòng thêm tăm tối.

Thấy Lục Kiều Kiều đứng trước cửa sổ, Jack ôm chầm lấy cô từ phía sau.

Lục Kiều Kiều nói: “Tôi sắp đi ngủ rồi…”

“Lúc ở trên lưng ngựa, chẳng phải em cũng ngủ trong lòng tôi thế này đấy thôi?” Jack thì thào bên tai Lục Kiều Kiều.

Lục Kiều Kiều từ từ tựa vào lòng Jack, vòng tay ra sau, dò dẫm nơi đôi tay có thể vừa vặn chạm tới – cơ thể Jack ấm áp mà mạnh mẽ.

Đầu cô ngả vào ngực Jack, anh cúi đầu mơn trớn hôn lên môi cô, hai tay mân mê bầu ngực, cố cởi bỏ chiếc xường xám màu lục thẫm…

Hơi thở của Lục Kiều Kiều càng lúc càng gấp gáp, toàn thân khẽ run rẩy.

“Rầm!” Cửa phòng Lục Kiều Kiều đột nhiên bị ai đó húc mạnh vào, khiến hai người giật nảy mình. Ngoài cửa bắt đầu vang lên tiếng đấu đá kịch liệt, hơn nữa còn mỗi lúc một đông, dường như cả quán trọ đều đang góp phần vào trận ẩu đả.

Lục Kiều Kiều lập tức quay người dựa vào tường cài lại áo, Jack thì tức tối giậm mạnh chân kêu lên: “Shit!”

Anh ta bước vội tới cạnh cửa ra vào, ngồi thụp xuống chặn cửa, tay phải rờ lên hông nhưng không thấy súng đâu, thì ra trước khi tới phòng Lục Kiều Kiều, anh đã thay bộ quần áo khác, đồ đạc mang theo và súng đều để hết bên phòng An Long Nhi.

Lục Kiều Kiều chạy lại bên giường, hất tung chăn màn lấy ra một khẩu súng lục, cô vẫn luôn mang theo súng bên mình, lúc đi ngủ thì đặt ở đầu giường. Khẩu súng được trao lại cho Jack, anh cầm lấy rồi kéo Lục Kiều Kiều cùng ngồi xuống bên cửa, định nhìn qua khe xem bên ngoài xảy ra chuyện gì.

Cửa lại bị đập rầm rầm, có tiếng An Long Nhi hốt hoảng gọi: “Cô Kiều! Cô Kiều! Cô có trong đấy không?”

Lục Kiều Kiều ra hiệu cho Jack mở cửa. An Long Nhi đứng trước cửa, tay cầm cây gậy chống, vừa lui được vào phòng, đang định đóng cửa thì đã có hai gã đàn ông lực lưỡng đồng thời đạp cửa xông vào, làm ba người Lục Kiều Kiều, Jack và An Long Nhi giật bắn, lùi lại mấy bước.

An Long Nhi tay cầm cây gậy gỗ, lật cổ tay một cái cây gậy từ góc hiểm nhất đập thẳng vào mặt tên cao to trọc đầu đứng bên làm hắn đau điếng, kêu thét lên một tiếng quái dị, máu me be bét đầy mặt cả người dừng khựng lại, thanh đao thép trên tay rơi đánh keng xuống đất. Tất cả dường như đã nằm trong dự tính của An Long Nhi, thằng bé vận quyền cước thành thục, chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, cước trái đã trúng vào hạ bộ đối phương, lại còn đá đúng chỗ yếu ớt nhất trên cơ thể đàn ông, khiến tên này đau đớn cùng cực, toàn thân co rúm, bắn văng ra cửa.

Dưới ánh đèn hành lang, con mắt sắc lẹm của Lục Kiều Kiều trông thấy một khuôn mặt rúm ró đẫm máu, miệng sùi bọt trắng.

Gã to con vừa ngã văng khỏi cửa, chân trái An Long Nhi vừa đá lên thuận thế đạp xuống, chân phải lập tức vọt lên, như bóng theo hình bổ thẳng ra cửa, đuổi đến trước đối phương, gậy gỗ thu về ép chặt giữa eo, tay trái kéo vạt áo đối phương, tay phải thúc mạnh đầu nhọn của cây gậy vào bụng hắn.

Trong khoảnh khắc chớp giật lửa xẹt, Lục Kiều Kiều cảm thấy một luồng sát khí bùng lên trên người An Long Nhi, trực giác mách bảo cô – An Long Nhi đã từng giết người!

“Đừng!” Lục Kiều Kiều hét lên.

An Long Nhi nghe tiếng Lục Kiều Kiều, động tác cũng chậm lại, nhưng cây gậy đã kịp cắm sâu một tấc vào bụng gã đàn ông kia. Thằng bé rút gậy ra, quay người lùi vào phòng, đầu gậy vẫn nhỏ máu tong tỏng.

Ban nãy Jack và Lục Kỉều Kiều đang chuẩn bị màn thân mật nóng bỏng, đèn dầu trong phòng sớm đã bị thổi tắt, ngoài cửa sổ trăng treo giữa trời, ánh trăng chiếu thẳng xuống mặt đất, chẳng có tia sáng nào chếch vào cửa sổ, càng khiến trong phòng thêm tối tăm. Gã đàn ông còn lại xông vào phòng, mắt không nhìn thấy gì, chỉ thấy trước mặt có ánh sáng liền cầm đao gào thét xông ra cửa sổ.

Jack lách người nhường đường, tay trái che cho Lục Kiều Kiều đứng sau, tay phải vẫn giơ súng chĩa vào đầu gã ta. Lục Kiều Kiều nhìn chằm chằm vào mặt gã, nhưng gã cứ thế xông thẳng đến cửa sổ, nhảy ra ngoài.

Bên ngoài chính là dòng Bắc Giang, chỉ nghe “tõm” một tiếng, người đã mất hút vào dòng nước.

Lục Kiều Kiều nhìn cảnh tượng này, bỗng cảm thấy như đã gặp ở đâu.

Trong phòng không còn người lạ nữa, An Long Nhi lập tức cài chặt then cửa. Tiếng ẩu đả ngoài cửa vẫn càng lúc càng kịch liệt. An Long Nhi nói với Jack và Lục Kiều Kiều: “Cô Kiều, cô không sao chứ? Bên ngoài có hai nhóm người đang đánh nhau, tổng cộng phải hơn bốn mươi người, bên nào cũng mang theo đao…”

Lục Kiều Kiều nói: “Hai kẻ vừa xông vào đây không giống phường trộm cướp mà đều có vẻ như thần trí thiếu minh mẫn, cứ xem xem thế nào…”

Ba người cùng tới nấp bên cửa sổ gần cửa ra vào, cạy một thanh cửa nhìn ra ngoài.

Quán trọ này nằm ven sông, phong cảnh đẹp lại rộng rãi, là chốn trú chân thượng hảo ở Thanh Thành. Trong sân lớn có một lâm viên nhỏ, một hành lang quây lấy mảnh sân theo hình chữ Hồi (回), các phòng trọ được sắp xếp dọc hành lang, trong ngoài đều chạm rồng vẽ phượng, trang hoàng điển nhã như chốn vương phủ.

Ra khỏi cửa lớn sát mặt đường là tiệm ăn của quán trọ, nếu hôm nay không phải Trung thu, bọn Lục Kiều Kiều đã lên thuyền ăn cơm ngắm trăng thì đây cũng là một nơi ăn uống thuận tiện.

Hiện giờ trong sân có hơn mười người đang chém giết lẫn nhau, dưới đất còn hơn mười người nữa, máu me đầm đìa, vẻ mặt hệt như hai kẻ vừa xông vào phòng, ngũ quan rúm ró miệng sùi bọt trắng.

Lục Kiều Kiều nói với Jack: “Nhìn thấy không, đám người kia dường như điên hết cả rồi, bọn họ không biết mình đang làm gì nữa.”

Jack đáp: “Tôi cũng thấy thế, bọn họ không giống binh lính đã qua huấn luyện, mà như đang chém bừa chặt bãi, đao cứ bổ xuống thế này thì chết cả đám mất…”

“Giờ chúng ta không thể ra khỏi đây được, nếu bọn họ chết cả, quan phủ tra tới, chúng ta cũng khó thanh minh… Trước tiên phải khiến bọn họ dừng tay lại đã.” Lục Kiều Kiều ngẩng đầu nhìn Jack, đợi ý kiến của anh.

Jack gật đầu: “Đúng, xông ra gô cổ cả đám lại rồi tính… Kiều Kiều, em ở lại đây đóng cửa đợi tôi.” Nói đoạn đặt khẩu súng lục vào tay Lục Kiều Kiều.

An Long Nhi nghe đến đây liền xách gậy, mở cửa xông ra, Lục Kiều Kiều hét với theo: “Long Nhi nhớ không được làm ai bị thương.”

An Long Nhi “dạ” một tiếng, tiên phong xông lên. Thằng bé vọt qua hành lang trước cửa, nhảy xuống sân, lập tức cuộn tròn người lăn trên đất, chìa gậy quét ngang mắt cá chân đám người đang hỗn chiến xung quanh.

An Long Nhi mới chỉ là một thằng bé mười mấy tuổi đầu người còn chưa cao lớn, lại thêm lăn trên đất dễ tránh loạn đao, đao pháp Địa Đường từng học giờ được phát huy hết uy lực. Thằng bé lăn lông lốc dưới chân đám người điên loạn, nhanh chóng quét gậy ra tứ phía, người đã nhanh gậy còn nhanh hơn, hệt như một trận cuồng phong cuốn qua rừng cây khô, cuốn đến đâu mấy gã trai tráng đang say máu lũ lượt đổ rạp đến đấy.

Jack theo ngay sau An Long Nhi, nhảy ra sân, ôm chăn màn vừa cuộn lấy trên giường, nhanh như cắt lách sang một bên, xé chăn thành từng dải, gặp kẻ nào trói gô kẻ đó. Jack xuất thân từ miền Tây nước Mỹ, sở trường phi thừng bắt bò ngựa, đối với anh ta, đè người xuống đất rồi trói lại hoàn toàn không phải chuyện khó.

Chẳng mấy chốc, đám người điên loạn chém giết đã bị gô cả lại, trong sân la liệt đàn ông trai tráng, người không động đậy chẳng biết sống hay chết, kẻ còn động đậy thì đều bị trói chặt.

Jack và An Long Nhi xử lý xong trong sân, lại xông ra quán ăn trước sảnh nhà trọ, thấy ở đây đã chẳng còn mống thực khách nào, bàn ghế bát đĩa văng khắp sàn, trên đất cũng có xác người, sáu người nữa vẫn đang hung hăng chém giết giữa bóng kiếm ánh đao, ông chủ quán trọ giơ ghế trốn sau quầy thu ngân, toàn thân run lẩy bẩy, mặt mũi giàn giụa nước mắt.

Jack trấn an chủ quán: “Đừng sợ, tôi tới giúp ông đây, ông cứ trốn kỹ đừng ra vội!”

An Long Nhi tung cước đá chiếc bàn bên cạnh bay thẳng ra ngoài, đập trúng một tên trong đám náo loạn, đồng thời tung sợi thừng một đầu gắn phi tiêu vẫn giắt trên người, quấn gọn lấy mắt cá chân hắn.

Kẻ ấy thân trên bị chiếc bàn dông thẳng từ phía sau, chân dưới lại bị An Long Nhi dùng dây thừng kéo giật, lập tức mất thăng bằng ngã lăn ra đất, Jack từ gầm bàn bổ ngay tới, trói gô y lại.

Gã đang đánh nhau với tên vừa ngã vẫn vung đao huơ loạn, thấy đối thủ đột nhiên biến mất trước mắt mình thì chưng hửng, thở phì phò nhìn trái ngó phải tìm người. Jack không đợi suông, dù gì cũng đang núp dưới gầm bàn, bèn thò hai tay ra tóm lấy chân gã kéo mạnh, hạ đo ván gã, rồi thuận thế trói luôn hai tên vào với nhau.

Jack trói người rất có kỹ thuật, chắc hẳn ở miền Tây đã trói gia súc quen rồi. Anh ta dùng ít vải mà hiệu quả lại cao, chỉ cột vải ở cổ tay cổ chân, sau đó gập tứ chi ra sau lưng, buộc túm lại. Cách trói này gọi là cột lợn, thường được dân nuôi lợn và các nông trường sử dụng, các bổ đầu quan phủ cũng hay dùng cách này để trói trọng phạm.

Trước mặt An Long Nhi vẫn còn bốn gã đang phát điên, Jack trói xong hai kẻ dưới đất cũng đứng lên, cùng An Long Nhi hiệp lực đối phó với bốn tên còn lại.

An Long Nhi nhảy lên bàn, ngồi thụp xuống quay một vòng dây thừng trên đỉnh đầu, sau đó quăng sợi thừng ra hết chiều dài, sợi thừng bay cao ngang cổ lướt tới. An Long Nhi một tay giữ đuôi thừng, quấn rồi lại kéo, dây thừng đồng thời quấn lấy cổ hai gã đàn ông, kéo đầu bọn họ sát lại nhau, mặt kề mặt, vô cùng thân thiết.

An Long Nhi lập tức từ trên bàn vọt tới đỉnh đầu họ, từ trên không quấn cho hai cái cổ thêm vòng thừng nữa, rồi thuận đà đáp xuống đất, kéo theo sợi dây, làm bọn họ cùng đổ kềnh ra đất. Jack nhanh nhẹn chạy bổ tới, dùng dải vải buộc gom luôn bốn cái chân lại với nhau.

“Hảo công phu!” Sau lưng Jack và An Long Nhi bỗng có tiếng người nói lớn, đồng thời còn vang lên vài tiếng vỗ tay.

Từ phía sau xuất hiện hơn mười bổ khoái quan sai, người vỗ tay cất tiếng đứng giữa đám quan sai ấy, mặc một tấm áo dài hoa đen thẫm.

Trong lúc người mặc áo đen lên tiếng, đã có bốn bổ khoái tay lăm lăm dây thừng, vượt qua An Long Nhi và Jack, xông đến hai kẻ điên cuối cùng còn sót lại, nhanh chóng gô chúng lại.

Đám bổ khoái còn lại thoắt cái đã vây lấy An Long Nhi và Jack, hơn mười thanh đao chĩa thẳng vào hai người.

Ông chủ quán trọ nãy giờ vẫn trốn dưới quầy thu ngân vội vàng chạy tới bên mấy gã bổ khoái, nói: “Hà đại nhân, xin đừng bắt họ, không liên quan gì đến bọn họ, họ là khách trọ ở đây ra tay giúp đỡ thôi…”

Hà đại nhân nhìn từ trên xuống dưới hai kẻ tóc vàng, thấy một tên chỉ là thằng nhóc mười ba mười bốn tuổi, không mang binh khí; một tên trong tay cũng chỉ có mấy dải vải, quan trọng nhất, đối phương còn là người Tây, đắc tội với người Tây chẳng tốt đẹp gì, gặp phải người Tây nếu không thể giết luôn tại trận hủy xác phi tang, thì dứt khoát đối xử tốt với người ta một chút, vì triều đình từ lâu đã hạ thông lệnh, người Tây phạm tội phải giao cho lãnh sự quán giải quyết, có bắt cũng bằng không.

Hà đại nhân nói với đám bổ khoái: “Thả người… Phong tỏa quán trọ, bất kỳ ai đều không được phép ra vào. Tra khảo kẻ gây sự, thẩm vấn toàn bộ khách trọ!”

Jack và An Long Nhi thấy Hà đại nhân không quan tâm đến mình nữa, việc đầu tiên là chạy về phòng xem tình hình Lục Kiều Kiều ra sao.

Phòng Lục Kiều Kiều đã thắp đèn, tiểu mỹ nữ thảnh thơi ngồi bên cửa sổ ngắm ánh trăng trên mặt sông, khẩu súng lục đặt trên bàn, bên cạnh còn có một ấm trà, tay cầm tẩu thuốc phiện đang nhả khói.

Thấy Jack và An Long Nhi bước vào, Lục Kiều Kiều cười với hai người, lật hai chén trà trên bàn, rót cho mỗi người một chén, đoạn nói: “Tối nay mọi người đều không phải ngủ nữa rồi.”

Xảy ra chuyện này, quả thực chẳng ai còn buồn ngủ nữa. An Long Nhi quay về phòng mình kiểm tra sắp xếp lại hành lý, Jack ở lại cùng Lục Kiều Kiều uống trà nói chuyện. Ánh trăng chênh chếch về Tây, giờ đã là canh tư.

Jack không ngớt lời khen ngợi thân thủ của An Long Nhi, cũng nhiệt liệt tán dương sự thần dũng vô địch của bản thân, thao thao bất tuyệt kể lại chuyện xảy ra trong khoảnh khắc ban nãy, chỉ một pha hành động chưa đầy năm phút mà anh kể đúng nửa canh giờ, Lục Kiều Kiều ngồi nghe, như cười như không, dõi mắt nhìn ánh trăng trên mặt nước ngoài cửa sổ.

Ngoài sân xếp đầy những người mới đánh nhau ban nãy, đa số bọn họ đều bị trói chặt bằng thừng, nhưng vẫn không ngừng giãy giụa, vài người còn gầm gào trong cổ họng như dã thú. Dưới sự coi chừng của vài bổ khoái võ công tương đối cao, đám người nguy hiểm này được một vị đại phu do nha môn cử đến băng bó vết thương.

Ngoài nhóm bổ khoái ban đầu, về sau còn có thêm một đám nha sai tới giúp đỡ công vụ. Phía nha môn có chừng hơn hai mươi quan sai tập trung ở đây, cộng thêm khách trọ và đám người đang bị trói dưới đất, khiến trong sân chật kín những người là người, nhưng không hề to tiếng huyên náo, chỉ nghe lầm rầm tiếng nói chuyện cùng vài tiếng kêu quái dị thỉnh thoảng lại vang lên.

Quán ăn phía trước giờ đang ngồi chật kín đàn bà và người già. Đây đều là thân nhân của những người đánh nhau kia, do nha môn thông báo gọi tới, tiện đỡ đần và xử lý các thủ tục phía quan phủ. Đương nhiên cũng có mấy vị nha sai coi chừng bọn họ, tránh tình trạng gia quyến thân nhân lại xông vào đánh nhau.

Hai vị sư gia dẫn theo hai viên quan phụ trách sổ sách lần lượt hỏi han khách trọ và mấy người phục vụ về tình hình ban nãy rồi ghi chép lại, Hà đại nhân cũng cùng thẩm vấn.

Hai gian phòng Lục Kiều Kiều thuê nằm ở giữa hành lang, hai vị sư gia chia nhau đi hỏi cung từ hai đầu, mãi vẫn chưa hỏi tới họ.

Lúc này đột nhiên trong sân vang lên tiếng kêu cứu: “Có lang trung nào ở đây không, có vị nào biết y thuật không? Mau tới cứu người!”

Mọi người nghe thấy tiếng kêu này liền đồng loạt nhìn ra sân, thấy cánh tay phải của vị đại phu đang cứu chữa cho những kẻ bị trói chảy máu xối xả, tay trái ông ta rịt chặt lấy thương, vẻ mặt vô cùng đau đớn.

Lục Kiều Kiều và Jack từ cửa sổ nhìn ra, thấy sau đó có một vị khách trọ xách theo hòm nhỏ, trèo qua hành lang chạy tới giúp.

Vị đại phu hỏi người khách mới tới: “Ngài là đại phu ư?”

Người khách đáp “phải”, đại phu lập tức nói: “Không cần lo cho tôi, tôi tự băng bó được, nhưng bọn họ sắp không xong rồi, ngài mau xem xảy ra chuyện gì!”

Vị khách cúi đầu kiểm tra, thấy có đến nửa số người bị trói trên đất mặt mày trắng bệch, toàn thân run rẩy, những người này chính là chủ lực trong vụ ẩu đả. Những người khác chỉ nằm im thin thít, hôn mê bất tỉnh, không ngừng đổ mồ hôi lạnh.

Bọn họ toàn thân rét run, rờ vào mà lạnh cóng, tuy bị thừng trói chân tay cứng đờ nhưng vẫn ra sức túm đạp, răng nghiến ken két, mặt lộ vẻ khủng khiếp, đau đớn…

Điều khiến hai vị đại phu lo lắng nhất là, hơi thở của họ rất hỗn loạn, ai nấy đều khò khè thở bằng miệng, nhưng hơi thở càng lúc càng ngắn, mắt bắt đầu chuyển sang trắng dã. Cứ tiếp tục thế này, ngạt thở và co rút gân cơ đều có thể khiến họ tử vong.

Đám thân nhân ngồi trong quán ăn vì lo lắng an nguy của người nhà, cũng bắt đầu náo loạn cả lên, dồn hết vào mảnh sân con, muốn xem xem xảy ra chuyện gì. Vài nha sai dùng vũ lực ngăn bọn họ lại, quát tháo không cho bọn họ lấn tới nữa, làm tình hình càng thêm rối loạn.

Vị đại phu kiêm khách trọ lấy từ trong hòm nhỏ ra một bao châm cứu, định châm kim vào huyệt Nhân Trung dưới mũi bệnh nhân, cũng là đám người đang nằm la liệt trong sân.

Vị đại phu vừa bị thương lập tức kêu lên: “Cẩn thận! Bọn họ cắn đấy, tay tôi bị cắn nên mới thành ra thế này đây…”

Lục Kiều Kiều từ cửa sổ nhìn ra vị đại phu giữa sân, trong đầu chợt lóe lên một cảnh tượng.

Một tháng trước, bên đầm Bạch Nga ở Quảng Châu, cô từng nghe chị béo giúp việc trên thuyền hoa kể lại một chuyện: “Hắn ta cắn người, có người bị hắn cắn mất nửa miếng thịt trên tay, hắn vùng khỏi tay mọi người, tự đâm đầu nhảy xuống dòng Châu Giang…”

“Hắn cũng cắn người…” Lục Kiều Kiều không kìm được lẩm bẩm một mình.

Vị đại phu khách trọ đáp một tiếng, rồi tiện tay nhặt một miếng vải nhét vào mồm bệnh nhân: “Vâng, tôi sẽ cẩn thận, bệnh trạng của bọn họ giống như chứng động kinh, nhưng sao có thể cùng một lúc phát bệnh? Động kinh cũng lây được ư? Trước tiên tôi sẽ châm ở vài huyệt quan trọng…” Nói đoạn đâm một cây kim vào giữa huyệt Nhân Trung của người trước mặt. Vị đại phu bên quan phủ cũng vô cùng lo lắng, vừa dùng nước xối rửa rồi băng bó vết thương, vừa nói: “Còn mấy huyệt vị chính như Dũng Tuyền, Thái Xung, Nội Quan… Tôi tới giúp ông ngay đây, tôi cũng chưa từng nghe nói động kinh có thể lây!”

Hai vị đại phu luống cuống bắt đầu châm cứu cho hơn chục phạm nhân đang lên cơn co giật.

Có hai kẻ vừa được châm kim, đột nhiên bật dậy từ dưới đất, rồi lại ngã uỵch xuống, “ọc” một tiếng phun ra một miệng máu, cả miếng giẻ nhét miệng cũng bị nhổ ra luôn, tình hình đã loạn lại càng khủng khiếp.

Hai vị đại phu sợ hãi đứng bật dậy lùi lại mấy bước, sững người đứng trước hai người vừa thổ huyết.

Vị đại phu kiêm khách trọ run run hỏi đại phu của quan phủ: “Bệnh động kinh… có thổ huyết không?”

Đại phu của quan phủ mặt be bét máu lẫn mồ hôi: “Không biết… không biết nữa…”

Động kinh hay còn gọi là chứng kinh phong, nội tạng tim gan thận mất cân bằng huyết khí, phiền muộn nghiêm trọng đều có thể dẫn đến phát bệnh, nhưng nếu bệnh bắt nguồn từ huyết khí thì không thể xảy ra hiện tượng nội xuất huyết, cũng không thể truyền nhiễm, bởi vậy hơn mười người đồng loạt lên cơn động kinh, cộng thêm hai người phát bệnh đến độ thổ huyết thế này là trường hợp vô cùng kỳ lạ, hoàn toàn nằm ngoài hiểu biết của hai vị đại phu.

Lục Kiều Kiều xem tới đây thì đẩy cửa bước ra hành lang, đi tới cạnh Hà đại nhân nói: “Đại nhân, dân nữ từng học chút y thuật, có thể tới giúp hai vị đại phu được không?”

Hà đại nhân cũng đang sững sờ, nghe có người nói vậy đương nhiên mong còn chẳng được, còn quản gì ai với ai vội vàng nói: “Mau ra xem sao!”

Jack và An Long Nhi thấy Lục Kiều Kiều đi ra, lập tức theo sau cô xem có gì cần giúp không.

Đám đông thấy một tiểu cô nương xinh đẹp dẫn theo một người Tây tóc vàng và một thằng bé tóc vàng hoe bước ra sân, tiếng xì xào dần chùng xuống. Cô gái đẹp quá, người Tây cao quá, thằng bé trông chính khí lẫm liệt quá, ba người này đi cạnh nhau thật là hút mắt, mọi người càng không ngờ một người Tây cũng có thể ra tay cứu người Trung Quốc.

Ba người đến giữa sân, Lục Kiều Kiều lập tức sắp xếp công việc cho mọi người: “Ông chủ quán, mau kêu người khiêng một trăm cân củi ra chất trong sân!”

“Bổ khoái đại ca, phiền các vị đem những người này xếp thành vòng tròn, giống như đang sưởi lửa ấy, chân hướng về đám lửa, đầu hướng ra ngoài, cởi hết giày của bọn họ ra.”

“Hai vị đại phu, xin chuẩn bị thêm ít que ngải đốt,[6] kim bạc có thể thu lại rồi.”

Mọi người vội vàng chia nhau đi chuẩn bị, Jack và An Long Nhi ở lại sân giúp các vị bổ khoái xếp người thành vòng tròn, rất mau đã nhóm lên một đống lửa giữa sân, những người đánh nhau cũng đều được trói lại xếp thành một vòng vây quanh đống lửa. Hai vị đại phu đã sẵn sàng hơn chục que ngải trong tay.

Trong thuật châm cứu Trung y, tuy đều làm thủ thuật với huyệt vị, nhưng châm và cứu lại là hai phương pháp hoàn toàn khác nhau.

Châm là dùng kim châm đâm vào huyệt vị, còn cứu lại là dùng sức nóng của que ngải đốt làm thủ thuật trên huyệt vị. Que ngải được làm từ ngải cứu, có mùi nồng nồng đặc trưng, bởi Trung y cho rằng ngải cứu có thể điều hòa khí huyết, trục hàn thấp, dịu kinh cầm máu, an thai thậm chí xua đuổi tà ma, có nơi còn dùng ngải cứu làm món ăn vặt.

Lục Kiều Kiều thấy tất cả đã chuẩn bị xong xuôi, mới đi đến bên đống lửa, chắp hai tay, ngón giữa, ngón áp út và ngón út đan vào nhau, hai ngón trỏ chập lại, chĩa thẳng lên trời, siết chặt tay, hét lớn: “Lâm!”

Đống lửa bỗng bùng lên thành một ngọn lửa mãnh liệt, đỏ rực cả bầu trời đêm nhàn nhạt ánh trăng, ánh sáng đỏ như một cái lồng bao trùm cả bầu không phía trên mảnh sân quán trọ.

Đám người vây quanh thấy ngọn lửa cháy phừng phừng, nhiệt lượng tỏa ra càng lúc càng mạnh, đều lấy làm kinh ngạc.

Lục Kiều Kiều đang dùng mật quyết đuổi tà trấn đạo trong Thiên sư đạo, hai tay đan thành ấn thứ nhất trong Cửu Tự ấn – ấn bất động căn bản, thủ ấn này lấy bùa chữ “Lâm” cộng thêm tâm pháp Đạo gia dẫn động, có tác dụng an hồn định phách, hình thành kết giới trên thân thể người thi đạo thuật, bảo vệ phạm vi thân thể không bị tà khí xâm nhập. Khi Cửu Tự ấn hoàn thành, kết giới ấy sẽ được chuyển từ thủ sang công, khiến thân thể người thi thuật sản sinh ra vòng tròn bảo vệ lan rộng ra ngoài, từ đó đuổi trừ tà khí.

Hai tay Lục Kiều Kiều vẫn ép chặt như cũ, không ngừng biến đổi dạng thủ ấn, từng bước tăng cường sức mạnh linh thiêng của kết giới. Mỗi lần đổi một thủ ấn, cô lại dõng dạc hét lên một từ mật quyết:

“Binh!”

“Đấu!”

“Giả!”

“Giai!”

“Trận!”

“Liệt!”

“Tại!”

“Tiền!”

Cửu Tự đọc xong, cửu ấn được mở, hai tay Lục Kiều Kiều chắp lại, đống lửa càng bùng lên dữ dội. Tuy giờ đang là đêm rằm tháng Tám lạnh lẽo, nhưng trong sân còn nóng hơn cả trưa hè, mọi người bắt đầu đua nhau đưa tay áo quẹt mồ hôi trên mặt.

Jack kinh ngạc đến không sao hình dung nổi, cô gái lúc trước còn liếc mắt đưa tình, lẳng lơ hoan hỉ với mình, giờ lại như một nữ thần đứng giữa đám người, thao túng ngọn lửa. Trong suy nghĩ của anh ta, Lục Kiều Kiều không phải thiên sứ thì cũng nhất định là phù thủy.

Lục Kiều Kiều đi đến phía Đông vòng tròn người, kêu Jack và An Long Nhi giữ chặt một người ở phía Đông, sau đó lại kêu hai vị đại phu qua, nói: “Trước tiên tôi sẽ dùng que ngải cứu vào huyệt Dũng Tuyền, sau đó hai vị nội trong thời gian một cái vỗ tay lần lượt cứu vào huyệt Đản Trung trước ngực và huyệt Ấn Đường trước trán, động tác phải nhanh, nhưng không được nhanh hơn tôi.”

Đại phu quan phủ hỏi Lục Kiều Kiều: “Chỉ riêng phương pháp bào cứu của Lôi công đã có mười bảy loại, cô nương đang nói đến loại nào?”

Que ngải là một loại que thuốc lá giống như xì gà, khi trị thương, đem châm lửa đốt, sau đó định vị hơ nóng trên các huyệt vị tương ứng, dùng sức nóng kích thích huyệt vị để đạt được hiệu quả trị liệu, phương pháp hơ nóng huyệt vị tùy vào thời gian và độ nóng khác nhau mà được chia ra hơn mười mấy loại.

Lục Kiều Kiều cười nói với đại phu: “Không phải cách mà ông biết đâu, ông cứ nhắm đúng huyệt vị, rồi xem tôi làm thế nào thì làm theo như thế là được.”

Lục Kiều Kiều ngồi xuống trước một đôi chân trần, ánh lửa hắt lên sau lưng cô, tựa một bóng hình yểu điệu được phác ra bằng thứ mực màu đỏ máu.

Cô niệm chú ngữ, sau đó nín thở, hai tay lần lượt cầm hai que ngải đã đốt, chậm rãi uyển chuyển như múa lượn vẽ lên một dấu hiệu.

Khói ngải ngưng thành một đạo bùa chú trên không, khi đạo bùa còn chưa tan đi, Lục Kiều Kiều phà hơi ra đằng miệng, yểu điệu quát một tiếng: “Tật!”, hai tay dùng que ngải ấn thẳng vào huyệt Dũng Tuyền phía dưới hai bàn chân trần thật nhanh.

“Xèo” một tiếng, người nằm trên mặt đất co rúm toàn thân, cách dùng lâm sàng của que ngải có yêu cầu đầu tiên là không làm bỏng người bệnh, song Lục Kiều Kiều làm thế này, huyệt vị của người bệnh chắc chắn sẽ bị bỏng, hai vị đại phu chưa từng thấy cách dùng que ngải kiểu này, đều há hốc mồm nhìn Lục Kiều Kiều.

Lục Kiều Kiều vẫn chưa rút que ngải về, que thuốc vẫn xèo xèo đốt trên huyệt Dũng Tuyền, thấy hai vị đại phu đứng đờ ra nhìn mình, bèn quay sang trừng mắt, ra ý cho họ mau mau làm việc.

Hai vị đại phu sực tỉnh, vội vàng làm theo Lục Kiều Kiều dùng que ngải đốt vào huyệt vị trước ngực và trên trán người đó.

“Xèo… xèo…” hai tiếng, người nằm trên mặt đất bỗng bật dậy, đầu và chân cắm xuống đất, ngực ưỡn lên trên, Jack và An Long Nhi lấy hết sức ép anh ta xuống, thì người ấy kêu “a” một tiếng, từ miệng thổ ra một luồng khí trắng, rồi lại ngất lịm đi, nhưng sắc mặt đã hồng hào trở lại, không còn trắng bệch như giấy nữa, cơ thể cũng bắt đầu mềm ra, có khí ấm.

Hai vị đại phu cũng “A” lên một tiếng: “Được rồi! Cứu được rồi! Mau mau, người tiếp theo!”

Mọi người thấy đã cứu được người đầu tiên thì phấn chấn hẳn lên, lập tức tiến hành cứu chữa cho người tiếp theo.

Lục Kiều Kiều sắp đặt mọi người lần lượt tiến hành theo thứ tự Đông Nam Tây Bắc, công việc cứu chữa xong xuôi cũng đã là canh năm, ráng hồng phía Đông đã ló dạng.

Được Lục Kiều Kiều cứu chữa, mấy gã gây chuyện ai nấy đều thổ ra một luồng khí trắng, ngất lịm đi một lúc rồi thi nhau tỉnh lại, mặt tuy đã có sắc máu nhưng tinh thần vẫn vô cùng mệt mỏi, cứ nằm lăn ra đất.

Lục Kiều Kiều cả đêm không ngủ, chữa trị cho mười mấy người xong, toàn thân ướt đẫm mồ hôi, thể lực cũng đã vượt quá ngưỡng chịu đựng, cô xua tay với mọi người, để quan sai và đám thân nhân người nhà tự lo liệu, kêu ông chủ quán trọ đem một thùng nước nóng vào phòng, rồi một mình về phòng đóng cửa tắm rửa.

Lục Kiều Kiều ngâm mình trong nước ấm, cảm giác mệt mỏi lập tức lan từ não đi khắp thân thể, muốn suy nghĩ chút chuyện cũng thấy không đủ tinh thần.

Cô đặt một chiếc bàn cạnh bồn tắm, để có thể vừa ngâm mình vừa hút thuốc, thư giãn một chút. Cô nhắm mắt định ngủ một lúc nhưng không sao dứt ra khỏi tình cảnh lúc nãy, trong đầu vẫn hiện lên hơn ba mươi khuôn mặt co rúm đau đớn kia.

Sử dụng đạo thuật vốn chẳng phải chuyện tốn sức lực gì, nhưng yêu cầu tập trung ý chí đến cực hạn, hiển nhiên rất tiêu tốn “tinh”, “khí”, “thần”, về sau không chỉ dẫn đến mệt mỏi về thể chất, mà còn khiến người ta kiệt sức như ba ngày ba đêm không ngủ.

Trước khi Lục Kiều Kiều rời Quảng Châu, trong thành cũng xảy ra chuyện tương tự, những người cùng mang họ Quách chỉ trong một đêm đã điên cuồng giết người rồi tự sát, Lục Kiều Kiều và An Long Nhi còn vì tò mò mà đến trước cửa nhà họ Quách nghe ngóng tin tức, bọn họ đã nhìn thấy một sát cục phong thủy được người ta bố trí ở đó – Quỷ kính chiếu đường, chuyện này khiến Lục Kiều Kiều rất dễ liên tưởng việc xảy ra đêm qua cũng là một vụ hung sát do phong thủy gây ra.

Muốn tháo chuông vẫn phải cần đến người buộc chuông, chuyện do phong thủy gây ra đương nhiên chỉ có thể dùng phong thủy để giải quyết. Lục Kiều Kiều dùng một loạt các đạo thuật phong thủy cứu sống người ta, lòng lại nảy sinh càng nhiều nghi vấn.

Những người này phát điên là do phong thủy gây ra sao?

Vì sao những tất cả đều mang đao?

Vì sao chuyện lại xảy ra đúng vào tết Trung thu?

Chuyện này và vụ án mạng nhà họ Quách ở Quảng Châu có phải chỉ là trùng hợp?

Mình gặp phải chuyện này cũng là trùng hợp?

Lục Kiều Kiều không hề quên, chuyến đi về Giang Tây lần này của cô đang bị một đôi tay vô hình sắp đặt.

Khi Lục Kiều Kiều dậy khỏi giường đã là hoàng hôn. Cô rửa mặt chải đầu, rồi mở cửa bước ra ngoài, đang định gọi người đến thu dọn bồn tắm thì thấy Jack đang cùng một người đàn ông gầy gò xanh xao ngồi trên băng ghế hành lang nói chuyện, trông thấy Lục Kiều Kiều bước ra, hai người đều cười hì hì bước đến chào.

Jack giới thiệu vị Mạnh Hiệt tiên sinh này là sư gia bên tri huyện Thanh Thành, phụng mệnh tri huyện Hà đại nhân, đến mời Lục Kiều Kiều và An Long Nhi đi dùng cơm, đương nhiên cũng không thể thiếu được gã đẹp trai Jack.

Lục Kiều Kiều nhận ra vị Mạnh tiên sinh này là một trong các vị sư gia vẫn túc trực bên Hà đại nhân làm việc ghi chép sổ sách.

Mạnh tiên sinh tuổi chừng ba mươi, người tầm tầm, tướng mạo nho nhã, trên mặt để ba chòm râu không dài không ngắn, vừa nhìn đã biết là làm sư gia.

Mạnh tiên sinh cười híp mắt bước lên phía trước một bước, chắp tay nói: “Xin chào Lục tiểu thư, tri huyện Hà đại nhân vô cùng cảm tạ ba vị đêm qua đã ra tay giúp đỡ, có cho chuẩn bị một bàn rượu lạt trong nha môn để cảm ơn! Xin nể mặt nhận lời.”

“Hà đại nhân khách khí quá…” Lục Kiều Kiều nói vài câu xã giao kéo dài thời gian, tay chắp sau lưng bấm đốt tính quẻ.

Người nha môn tìm đến, không chỉ đơn giản là ăn một bữa cơm, nhất định còn có uẩn khúc gì nữa. Không đi thì không được, chỉ có thể xem nha môn có phải tính gây rắc rối, mình có nên giở trò thoát thân hay không mà thôi.

Tục ngữ có câu “sinh không vào cửa quan, chết không xuống địa ngục”, Lục Kiều Kiều rất rõ chuyện trong chốn nha môn, mấy người làm quan lúc nào cũng có thể thình lình trở mặt đâm sau lưng người ta một đao, hôm qua xảy ra chuyện lớn như vậy cũng không biết có người chết hay không, tri huyện muốn báo cáo lên trên, liệu có định kiếm người chịu tội thay? Cứ tính một quẻ cho chắc.

Cũng may, tính ra một quẻ tiểu cát, “phàm sự hòa hợp, ra đường chẳng hung”, vậy thì cứ đi thôi, đâu phải lúc nào cũng có cơ hội ăn cơm nhà quan, ăn một bữa cũng tốt.

Lục Kiều Kiều nhận lời, cảm ơn Mạnh Hiệt xong, bèn gọi An Long Nhi thu xếp đồ đạc, ba người đi theo Mạnh Hiệt tới nha môn.

Thanh Thành không rộng rãi và phồn hoa như Quảng Châu, nhưng trên phố cũng rất đông cửa hiệu hàng quán, người qua kẻ lại tấp nập.

Nha môn cách quán trọ không xa, bọn họ đi theo Mạnh Hiệt chừng nửa khắc là đến.

Vào đến chính sảnh nha môn, đã thấy Hà đại nhân mặc thường phục như hôm qua đang đợi, hàn huyên một hồi, bèn mời mọi người vào trong sân sau.

Sân sau là nơi ở của quan huyện, là chốn riêng tư nên bình thường quan sai đều không được đi vào. Nếu có việc tiếp khách công, tri huyện đại nhân sẽ ra tửu lâu thực quán đặt tiệc. Phàm những người được dẫn vào nhà dùng cơm thì không phải thân bằng cố hữu cũng là khách quý.

Trên đường Lục Kiều Kiều đã ghé tai dặn dò An Long Nhi và Jack: thấy gì ăn nấy, tuyệt đối không được khách khí, chúng ta là khách qua đường, ăn được bữa này chưa chắc đã còn cơ hội ăn thêm bữa sau, không ăn no thì đừng có hối hận.

Bàn tiệc được bày tại hậu hoa viên, xung quanh đều là các loại cây cỏ Hà đại nhân trồng, hai vị sư gia tối qua cũng được sắp xếp cùng tiếp khách. Bàn ăn tổng cộng có sáu người, thức ăn cũng rất ngon miệng phong phú.

Mọi người ổn định chỗ ngồi xong xuôi, Hà đại nhân trước tiên kính rượu ba vị khách, bày tỏ lòng cảm tạ. Lục Kiều Kiều thoái thác rằng không uống được rượu, lấy trà thay rượu đáp lễ; An Long Nhi trước nay chưa từng uống rượu, nên chỉ có mình Jack cùng cạn với chủ nhà ba chén.

Nói mấy chuyện tầm phào về đất đai con người nơi đây, làm quen lẫn nhau xong thì mặt trời đã xuống núi, nhường chỗ cho ánh trăng, vừa đúng mười lăm trăng sáng mười sáu trăng tròn, khi ánh trăng nhô lên bên tường Đông hậu hoa viên, cả mảnh vườn nhỏ được chiếu sáng như ban ngày.

Lục Kiều Kiều không muốn lâu la thêm nữa, trực tiếp hỏi luôn: “Hà đại nhân hôm nay mời chúng tôi tới đây thưởng nguyệt, không biết có căn dặn gì?”

Hà đại nhân liền khách khí đáp: “Nào dám nói đến căn đặn, Hà mỗ chỉ có tấm lòng thành, hoàn toàn là muốn cảm ơn ba vị tối qua đã giúp nha môn một việc lớn, mời ba vị cùng thưởng thức cảnh đêm thu mát mẻ…”

“Có điều…” Hà đại nhân ngập ngừng, câu “có điều” suýt làm người ta chết sặc, “có điều sư gia chỗ tôi quả thực có chút chuyện muốn thỉnh giáo ba vị, mong ba vị rộng lượng chỉ dạy cho.”

“Ồ…” Lục Kiều Kiều hiểu ra, Hà đại nhân cũng giống rất nhiều quan huyện khác, đều không có năng lực làm quan, cũng không biết chức quan này là do mua về hay nhờ quan hệ đằng vợ mà có được nữa, dù sao đây cũng chính là một bối cảnh chốn nha môn, ra chủ ý sắp đặt công việc chủ yếu đều do một tay sư gia đảm nhiệm, tình trạng này rất phổ biến ở thời bấy giờ.

Mạnh Hiệt quay sang Lục Kiều Kiều, xem ra người cần nói chuyện chính là vị Mạnh sư gia này đây: “Lục tiểu thư, hơn ba mươi người cô cứu tối qua, giờ đang nằm nhà tĩnh dưỡng, bọn họ đều là dân địa phương… Vụ án tụ tập gây rối đợi bọn họ khá hơn một chút sẽ đưa lên công đường xử lý. Đáng tiếc là có bảy người đã chết vì đánh nhau và phát bệnh sau đó…”

Lục Kiều Kiều thầm nghĩ, còn có một người từ cửa sổ phòng mình nhảy xuống sông nữa, không biết đã chết hay chưa… không phải đổ lên đầu mình thì được rồi.

Cô tiện miệng thoái thác: “Những người khác không sao thì tốt rồi, chúng tôi chỉ là khách thuê trọ, cũng không biết nhiều về mấy chuyện này, ha ha…”

Mạnh Hiệt nói: “Không nhờ Lục tiểu thư giúp đỡ, e rằng toàn bộ đám người đó đã chết cả rồi, gia quyến những người được cứu mạng đều vô cùng cảm ơn Lục tiểu thư, còn nói muốn đích thân gặp mặt cảm tạ nữa. Chúng tôi lo Lục tiểu thư còn mệt nên hôm nay đã cử người đi ngăn bọn họ lại, nhưng mai thì khó nói lắm… ha ha ha…”

Lục Kiều Kiều thấy phía nha môn không phải muốn đổ tội vạ lên đầu bọn họ, cũng yên tâm phần nào, yên lặng đợi Mạnh Hiệt nói vào chủ đề chính.

“Mạnh Hiệt là người đọc sách, lúc rỗi rãi cũng lướt qua vài cuốn đạo thuật, nên tối qua thấy Lục tiểu thư thi thuật liền nhận ra đó là thủ ấn mật quyết của Đạo gia, không biết có đúng hay không?”

Mạnh Hiệt có thể biết những thứ này Lục Kiều Kiều cũng không lấy làm lạ. Đương thời có rất nhiều kẻ đọc sách tài cao tám đấu nhưng chỉ vì lỡ duyên khoa cử hoặc không có tiền mua chức quan mới phải nhún mình làm sư gia. Cô gật đầu: “Đúng vậy, đó chính là công phu căn bản của đạo thuật chính tông Giang Tây, đã lưu truyền từ rất lâu, dân nữ chẳng qua chỉ học được sơ sơ chút ít.”

Mạnh Hiệt thấy đã khơi được chủ đề, bèn nói tiếp: “Công phu không nằm ở cao thấp, làm việc thiện là công đức vô lượng rồi. Lục tiểu thư là cao nhân đạo thuật, lại quá khiêm nhường. Không biết khi cứu những người kia, vì sao Lục tiểu thư lại dùng đạo thuật chứ không phải y thuật?”

Đây là câu hỏi mọi người đều rất tò mò, khi đó hai vị đại phu đều chữa cho đám người kia theo cách chữa bệnh động kinh, chữa không đúng bệnh thì dù phương pháp châm cứu có giỏi đến mấy, thuốc có quý nhường nào cũng chỉ tổ chết người. Vậy mà Lục Kiều Kiều có thể đoán đúng bệnh, quả thực khiến kẻ đọc sách kinh ngạc.

Lục Kiều Kiều thấy năm người đàn ông cùng bàn đều dừng đũa nhìn mình, xem ra lần này không nói gì đó thì không rút nổi: “Dân nữ nhìn thấy hơn chục người chém giết lẫn nhau, còn có biểu hiện của bệnh động kinh bèn nghĩ ngay đến ở thành Quảng Châu từng xảy ra một vụ án phong thủy tương tự, nên đoán rằng chuyện này liệu có phải cũng xuất phát từ phong thủy, thấy tình thế cấp bách, mạng người quan trọng, chỉ đành mạo muội ra tay tận lực, thử dùng đạo thuật phong thủy hóa giải… Thực ra lúc đó trong lòng cũng không chắc lắm, khiến Hà đại nhân cười chê rồi.”

Hà đại nhân nghe mỹ nhân nhắc đến mình, cuối cùng cũng có cơ hội góp lời, thì cảm thấy vô cùng hãnh diện, nâng chén rượu nói: “Thật vạn phần khâm phục, Lục tiểu thư hiểu nhiều biết rộng, quả nhiên là cao nhân! Chuyện này chính là do phong thủy gây ra. Nào nào, Hà mỗ kính Lục tiểu thư một chén!”

Mọi người đều cạn một chén rượu, Lục Kiều Kiều và An Long Nhi cạn chén trà.

Mạnh Hiệt vẫn còn điều muốn hỏi, uống xong chén rượu vội vàng chen ngang lời Hà đại nhân, hỏi Lục Kiều Kiều: “Vì sao khi ấy Lục tiểu thư lại xếp bệnh nhân quây quanh đống lửa, còn dùng que ngải kích huyệt cứu nguời? Dùng kim châm không được sao?”

Lục Kiều Kiều vừa nghe đã biết bữa cơm này thành ra buổi đàm luận sách vở, không dứt nổi rồi. Có điều vài thứ lý thuyết này vẫn có thể nói được. Cô đưa mắt nhìn An Long Nhi, thằng bé hiểu đây cũng chính là cô đang dạy mình, liền ngồi lại ngay ngắn chăm chú đợi Lục Kiều Kiều giảng bài: “Đầu tiên, động kinh không phải chứng bệnh truyền nhiễm, việc nhiều người cùng phát bệnh một lúc rất không bình thường; tiếp đó sau khi đại phu dùng kim châm, bệnh nhân liền thổ huyết, điều này lại càng kỳ quái. Châm kim có thể thông mạch thuận khí, cũng có thể gây mất máu tiết dương, nhưng không thể dẫn đến thổ huyết, thổ huyết chứng tỏ đã dùng sai phương pháp.

Lục Kiều Kiều nhìn An Long Nhi, nói tiếp: “Trung thu thời điểm chuyển giao từ nóng sang lạnh trong một năm, mặt trời là dương tinh, mật trăng là âm tinh, vào Trung thu khi mặt trăng tròn nhất, chính là lúc âm khí thịnh nhất, khi ấy trăng tròn đã quá bầu không, là canh ba khắc cuối, âm hàn tới cực điểm. Huyết trong Dịch quẻ là quẻ Khảm thuộc Thủy, tiết Trung thu thuộc Kim, cây Kim châm đại phu dùng cũng thuộc Kim, Kim sinh Thủy quá mức mới dẫn đến thổ huyết, nhưng trong cơ thể người bình thường có ba ngọn chân hỏa, âm dương cân bằng dương khí không thể yếu đến mức không chống đỡ nổi một cây kim, có thể thấy cơ thể những người này đã tích hàn khí tới mức sắp chết…”

Lục Kiều Kiều thấy An Long Nhi chăm chú lắng nghe thì tiếp tục nói: “Hàn khí thâm nhập lục phủ ngũ tạng khiến chân tay cứng đờ, thâm nhập não tủy khiến người trở nên điên loạn, vì vậy đầu tiên dân nữ dùng Cửu Tự ấn quyết thổi bùng đống lửa sinh kết giới, chặn đứng hàn khí của ánh trăng và thời tiết xâm nhập vào sân; đồng thời sưởi ấm tăng cường dương khí cho người bệnh, cuối cùng dùng que ngải châm lửa, vẽ linh phù Hỏa Đức Tinh Quân xong thì cứu vào huyệt đạo, đả thông kinh mạch toàn thân từ dưới lên trên, ép âm hàn tà khí ra qua đường miệng…”

Mạnh Hiệt vỗ tay cảm thán: “Tinh diệu tinh diệu… Quả nhiên nắm được lý lẽ đất trời, luận việc có căn cứ, đến khi làm việc thì kín kẽ không chê vào đâu được! Kiến thức của Lục tiểu thư đây là lý học chính tông, quyết không phải đạo thuật giang hồ! Thật khiến Mạnh Hiệt tin phục!”

Lục Kiều Kiều được người hiểu nghề công nhận lòng cũng lấy làm vui sướng, đắc ý khom người nói với Mạnh Hiệt: “Mạnh sư gia quá khen rồi, những vấn đề xuất phát từ phương thuật huyền học mới có thể dùng huyền thuật ứng phó, còn nếu thật có bệnh thì vẫn phải mời đại phu chữa trị.”

Mạnh Hiệt lại hỏi: “Cuối cùng, Lục tiểu thư bắt đầu cứu người ở phía Đông trước, sau mới đến phía Nam rồi Tây, Bắc, có phải cũng có huyền cơ gì chăng?”

Lục Kiều Kiều cười nói: “Mạnh sư gia quả là người tinh ý. Như ban nãy đã nói, bệnh này do âm hàn tích tụ trong tạng phủ, mà khí âm hàn không Kim thì Thủy. Sau khi dân nữ sưởi ấm cho người bệnh, bắt đầu tiến hành cứu chữa từ phía Đông là thuận theo thuyết ngũ hành tương sinh, Thủy sinh Mộc nên thủy khí gặp tổn mộc khí được lợi; Mộc lợi ắt hỏa vượng, vì Mộc có thể sinh Hỏa; mà Hỏa vượng…”

“Thì có thể xua đuổi âm hàn! Quả nhiên có huyền cơ… chậc chậc…” Mạnh Hiệt tỏ ý khen ngợi.

Lục Kiều Kiều nhìn An Long Nhi, nói tiếp: “Trong thuật phong thủy, chế ngự không bằng hóa giải, có thể ôn hòa làm suy giảm thủy khí, hóa hại thành lợi, vẫn hơn là trực tiếp khắc chế.”

An Long Nhi nghiêm túc gật đầu.

Hà đại nhân và hai vị sư gia đều tấm tắc khen ngợi, lại rót thêm lượt rượu nữa, mọi người cùng cạn một chén xong, Hà đại nhân nói với Lục Kiều Kiều: “Lục tiểu thư, Hà mỗ gặp được vị thần tiên sống như tiểu thư thì chuyện này có cơ cứu rồi…”

Lục Kiều Kiều đã biết sẽ có màn này, chỉ là đợi xem nên khước từ hay kiếm món hời mà thôi.

Ba năm thanh tri huyện, mười vạn bạc tuyết hoa, Hà đại nhân chắc cũng giắt túi được không ít bạc, có cơ hội đương nhiên phải san sẻ bớt với ông ta, cứu tế cho cái nghèo của mình. Hơn nữa, tính hiếu kỳ của kẻ học đạo cũng khiến Lục Kiều Kiều không thể không nghe tiếp. Cô thực sự muốn biết căn nguyên của chuyện này.

Hà đại nhân thoáng trầm ngâm, đoạn nói: “Chuyện này bắt nguồn từ sự bất hòa giữa hai gia tộc lớn ở đây, cũng đến hơn một năm rồi, hai bên đều phải chịu thương vong, huyện thái gia ta đã hòa giải nhiều lần, nhưng đều… Nói ra thì dài lắm, một năm trước…”

Cách Thanh Thành mười dặm về phía Nam có núi Kê Đề (gà gáy), thế núi sừng sững, đỉnh núi trùng điệp, từ xa nhìn lại tựa như một con gà trống khổng lồ cao ngạo ngó xuống nhân gian.

Dãy Kê Đề có một con suối chảy từ đỉnh núi xuống, ngoặt mấy vòng giữa lưng chừng núi, cứ chảy rồi lại ngừng, chảy rồi lại ngừng, kết thành vô số đầm nước ngọt, cuối cùng hình thành một dòng suối nhỏ chảy xuống thôn trang và đồng ruộng dưới chân núi, làm tươi tốt cả một vùng.

Dưới dãy Kê Đề có thôn Ôn Phượng và thôn Thượng Cát, nằm bên bờ Đông và bờ Tây con suối, nhờ đất đai màu mỡ dưới dãy Kê Đề mà xưa nay hòa hảo vô sự. Nhưng hậu nhân của hai thôn có một số nhà dần dần phất lên, từ nông dân trở thành thương nhân, còn có vài người mở phường lập xưởng ở Thanh Thành, trong thành vì thế xuất hiện hai gia tộc lớn – Ôn gia và Lương gia.

Một năm trước, Lương gia của thôn Thượng Cát phát hiện việc làm ăn của gia tộc mình bỗng chốc sa sút, các cửa tiệm nhà họ Lương lần lượt bị đóng cửa. Bọn họ vốn nghĩ rằng do thời thế khống tốt, hoặc việc kinh doanh xảy ra vấn đề gì, nhưng đến mùa thu lại phát hiện ngay cả điền sản cũng giảm mạnh, thế này thì buộc phải nghi ngờ còn có nguyên nhân nào khác.

Người nhà Lương gia thôn Thượng Cát lại trông sang thôn Ôn Phượng, tuy chỉ cách nhau có một khe suối, nhưng thôn Ôn Phượng buôn bán ngày một khấm khá, điền sản cũng bội thu, chụyện này khiến thôn Thượng Cát không sao lý giải nổi.

Mọi người đều ở cùng một nơi, cách một con suối đã khác biệt nhường ấy, sao không khiến người ta sinh nghi?

Một người dân làm ruộng trong thôn đã lâu nhớ ra, vốn đầu năm bên thôn Ôn Phượng có xây lại mộ tổ, mời từ Giang Tây một thầy phong thủy họ Triệu, chấm một cái huyệt trên thượng du con suối, chuyển xương cốt lão tổ tông chín đời lên đấy an táng. Vậy là người thôn Thượng Cát vỡ lẽ, đoán rằng Ôn gia trùng tu mộ tổ, cướp phong thủy của Lương gia trên thượng du, họ cũng mời về một thầy phong thủy xem phong thủy cho cả thôn.

Thầy phong thủy tới xem xong, bảo với người họ Lương rằng, huyệt thôn Ôn Phượng đã điểm quả thực là thượng đẳng cát huyệt, Linh Quy Ẩm Thủy, huyệt nằm trên thượng du, đắc thủy trước cho nên cũng đắc khí trước, nước linh quy uốn qua lại chảy về hạ du, đối với thôn Thượng Cát đã thành tử khí, nên Ôn gia một năm nay phát tài, Lương gia một năm nay lụn bại, quả thực có liên quan đến cái huyệt này.

Người thôn Thượng Cát lập tức hỏi thầy phong thủy liệu có thể vớt vát được gì không. Thầy phong thủy nói, trong thôn Thượng Cát cũng có tiểu cát huyệt địa Hà Giải Cật Thủy, nhưng khí thế vốn đã không bằng Linh Quy địa của thôn Ôn Phượng, lại thêm đầu năm bị thầy phong thủy điểm huyệt giành lấy địa khí cho Linh Quy, toàn bộ phúc lực đã thất thoát sang nhà họ Ôn, cho dù thôn Thượng Cát có điểm cát địa chăng nữa, cũng không thể phục hồi được phú quý trước đây.

Người thôn Thượng Cát gục đầu tiu nghỉu, mời thầy phong thủy về xem tướng đất đã tốn không ít tiền, giờ nếu xin thầy điểm huyệt tạo táng lại phải thêm một khoản tiền nữa, cuối cùng huyệt vị mộ tổ điểm ra cũng chỉ có thể bảo toàn bình an, chứ không khôi phục được phú quý trước kia, cứ thế thì có ích gì?

Người thôn Thượng Cát chẳng biết phải làm sao, đành mời thầy phong thủy cứ về trước, để họ bàn bạc xong rồi tính.

Thảo luận mấy ngày trời không có kết quả, người thôn Thượng Cát càng nghĩ càng tức, cuối cùng quyết định lấy gậy ông đập lưng ông. Mọi người gom chỗ này góp chỗ kia, được một khoản tiền không nhỏ, tìm tới thầy phong thủy họ Triệu đã điểm huyệt bên thôn Ôn Phượng, chồng tiền đề nghị ông phá Linh Quy huyệt.

Thầy phong thủy họ Triệu thấy tiền thì mờ mắt, bị món tiền lớn mê hoặc, bèn nhận lời làm chuyện này.

Hai tháng sau, đến ngày lành tiếp tục dời mộ cho thôn Ôn phượng, lần này là hài cốt tổ tiên bốn năm đời trước của họ.

Thầy phong thủy họ Triệu điểm xong huyệt vị, liền kêu người trong thôn động thổ đào huyệt.

Mọi người cứ cặm cụi đào, thầy phong thủy thì không ngừng nói: “Sâu thêm nữa, sâu thêm chút nữa…”

Cuối cùng đào ra một cái động sâu tới tám thước, từ lòng đất tuôn ra một khe nước đỏ, ai nấy đều kinh hoảng, riêng Triệu tiên sinh lại ra sức ca ngợi đây là điềm lành của huyệt tốt, kêu người thôn Ôn Phượng cứ yên tâm táng mộ.

Mộ tổ táng xong, chưa đầy ba tháng, cũng lại xảy ra tình trạng hệt như thôn Thượng Cát – làm ăn lụn bại, nhân khẩu thương bệnh không dứt, mọi người nháo nhào tìm thầy phong thủy họ Triệu kia, nhưng người đã một đi không trở lại, bặt vô âm tín.

Người thôn Ôn Phượng sực tỉnh ngộ, suy đoán qua loa liền kéo sang hỏi tội thôn Thượng Cát, hai bên đánh nhau một trận tơi bời, ngay trong ngày đã tử thương hơn chục người. Từ đó về sau hai họ không ngừng tranh chấp, từ chân núi Kê Đề đánh đến huyện Thanh Thành, gặp ở đâu là gây lộn ở đó, cứ dăm bữa lại rầm rộ một trận, quan phủ ra mặt cũng không khống chế nổi.

Mãi đến hai tháng trước, có một thầy phong thủy tên gọi Hữu Hiên tiên sinh trên đường qua dãy Kê Đề, biết được nguyên nhân hai thôn xích mích, bèn đưa ra một chủ ý.

Hữu Hiên tiên sinh nói trên dãy Kê Đề này còn có một chính huyệt chân long, nếu như người hai thôn có thể hòa hảo với nhau như lúc đầu, không so đo món nợ trước kia, ông ta sẽ chỉ ra long huyệt ấy, để hai thôn cùng chấn hưng gia nghiệp.

Trước lời của Hữu Hiên tiên sinh, hai thôn nửa tin nửa ngờ. Vì thôn Ôn Phượng âm thầm điểm Linh Quy Ẩm Thủy tranh khí trước, thôn Thượng Cát dùng kế phản gián phá huyệt sau, dân thôn này đã không còn tin dân thôn kia, giờ lại từ đâu mọc ra một thầy phong thủy, không biết là có ý gì.

Hữu Hiên tiên sinh nói với dân hai thôn, giờ phong thủy dưới dãy Kê Đề đã bị phá hủy hoàn toàn, không còn nơi nào có thể táng mộ được nữa, cứ tiếp tục thế này cả hai thôn chỉ có một con đường chết, chi bằng cứ nghe ông ta một lần, làm theo cách ông ta nói.

Hai thôn bàn bạc với nhau, thấy một là Hữu Hiên tiên sinh cũng không thu phí quá cao, hai là mọi người thực đã cùng đường tuyệt lộ, chỉ đành thử xem sao. Vậy là Hữu Hiên tiên sinh giúp họ chỉ ra chính huyệt long mạch trên dãy Kê Đề, giải tượng là Hùng Kê Đề Nhật (gà trống gáy sáng), ông ta chỉ điểm phải xây trên huyệt này một ngôi từ đường, thờ tổ tiên hai thôn, để hai thôn cùng được hưởng vượng khí, từ đó hợp thành một nhà.

Hữu Hiên tiên sinh trông nom người hai thôn xây xong móng từ đường, đặt xong một phần bài vị tổ tiên, thu một ít bạc vụn rồi bỏ đi, hẹn năm sau quay lại thu nốt số tiền còn thiếu.

Người hai thôn do không rõ lai lịch Hữu Hiên tiên sinh ra sao, khó tránh đoán già đoán non liệu ông ta có phải người do thôn bên kia mời về diễn kịch hại mình hay không. Trong một tháng hai bên không xảy ra tranh chấp nữa, chuyện làm ăn cũng yên ổn phần nào, nhưng vẫn mang lòng đề phòng đối phương.

Tối Trung thu, thành viên chủ chốt trong gia tộc hai thôn hẹn nhau cùng đón lễ tết tại tửu lâu nổi tiếng nhất Thanh Thành, cũng chính là quán trọ ba người Lục Kiều Kiều nghỉ lại. Bọn họ một mặt muốn nối lại quan hệ, mặt khác cũng đề phòng đối phương thừa cơ gây sự, nên hai bên dẫn theo hơn hai mươi người, tất cả đều găm gọn binh khí đi uống rượu thưởng nguyệt.

Hà đại nhân lắc đầu nói: “Vốn dĩ ta ở nhà đón tết, thấy hai thôn bọn họ cuối cùng đã có thể hòa giải, ngỡ rằng thế là an lành vô sự, ta cũng thanh thản phần nào, ai ngờ đám người này nói làm là làm, bỗng dưng đánh nhau giữa lúc uống rượu…”

Mạnh Hiệt tiếp lời: “Nha sai đều đã nghỉ phép về nhà, chỉ còn vài người ở lại coi sóc nha môn, lúc chúng tôi nhận được tin, tập hợp người kéo đến quán trọ thì thấy hai vị tiểu ca này đi khống chế cục diện, nếu không nhờ các vị kịp thời trói bọn họ lại, có thể số thương vong còn lớn hơn nhiều.”

Mạnh Hiệt quay sang nói với Lục Kiều Kiều: “Tối qua thấy Lục tiểu thư ra tay cứu người, biết tiểu thư là cao nhân đạo thuật, sớm nay chúng tôi đã thảo luận qua về tình tiết vụ án, nhận định chuyện tối qua có liên quan đến phong thủy, nên muốn nhờ Lục tiểu thư giúp thêm nha môn một việc…”

Lục Kiều Kiều do dự thưa với Hà đại nhân: “Hà đại nhân, dân nữ chỉ hiểu biết sơ sơ, nếu không phải vì chuyện cấp bách, cũng không dám mạo muội ra tay… Hơn nữa dân nữ chỉ đi ngang qua quý huyện, ở nhà còn đang có việc gấp…”

Hà đại nhân vội nài nỉ: “Lục tiểu thư đã giúp thì giúp cho trót, nhất định phải giúp chúng tôi việc này. Tiểu thư cũng biết việc này liên quan đến chuyện sinh tử của hơn nghìn mạng người hai thôn, ta chỉ mong tiểu thư có thể lên núi xem qua long huyệt Hữu Hiên tiên sinh điểm, có khó khăn hay yêu cầu gì Lục tiểu thư cứ thẳng thắn đưa ra, Hà mỗ nhất định gắng sức giải quyết!”

Lục Kiều Kiều hỏi ông ta: “Không rõ Hà đại nhân là nhân sĩ nơi nào?”

Hà đại nhân đáp: “Hà mỗ là người Chiết Giang”

Lục Kiều Kiều lại hỏi: “Xin hỏi Hà đại nhân đã nhậm chức ở Thanh Thành bao năm rồi?”’

Hà đại nhân đáp: “Đã hai năm rồi…”

Lục Kiều Kiều nói: “Nếu Hà đại nhân có thành tích xuất chúng, được bách tính dâng thư cầu tái nhiệm, cũng là cái phúc của bách tính…”

Hà đại nhân vội vàng nói: “Đúng thế đúng thế, quan lại địa phương chúng ta chỉ muốn làm chút chuyện tốt cho bách tính, cứ dăm bữa lại xảy chuyện thế này, chúng ta cũng phải chạy Đông chạy Tây, mọi người đều vất vả… Lục tiểu thư quả là thông minh tinh tường… hà hà…”

Cả bàn ăn cùng rộ lên cười, chỉ có Jack và An Long Nhi ù ù cạc cạc chẳng hiểu gì, đành ngậm miệng im thin thít.

Vốn dĩ quan lại địa phương cứ ba năm một nhiệm kỳ, một viên tri huyện năm đầu nhậm chức phải nắm rõ tình hình địa phương, bỏ tiền mua chuộc trên dưới hắc bạch lưỡng đạo; năm thứ hai, thứ ba mới là thời gian chính thức kiếm tiền, nếu được nhậm chức ở nơi giàu có sung túc, quan huyện kiếm tiền hợp pháp, sau ba năm vơ vét được tám vạn mười vạn lạng bạc cũng là chuyện đơn giản.

Hà đại nhân hiện đang ở năm thứ hai nhậm chức, chính là lúc kiếm được nhiều nhất, ông ta đương nhiên không muốn huyện mình xảy chuyện để cấp trên soát xuống, nên nhất định phải dẹp yên chuyện tranh chấp giữa hai gia tộc lớn ở Thanh Thành.

Nếu tri huyện làm việc đắc lực, có thể thông qua bách tính dâng sớ xin triều đình giữ lại viên quan ấy. Được như vậy, Hà đại nhân sẽ không phải bỏ ra một khoản tiền đến nơi khác móc nối quan hệ nữa, nhiệm kỳ tiếp theo có thể hốt trọn bạc cả ba năm. Trong bách tính dâng sớ, không thể không có các gia tộc lớn trong thành, mà ở đây chính là Ôn gia và Lương gia, Hà đại nhân quan tâm đến chuyện này như vậy cũng là hợp tình hợp lý.

Lục Kiều Kiều đã nhìn thấu tâm tư Hà đại nhân: “Dân nữ đi đường không đủ lộ phí, về nhà sắp xếp chuyện gia đình cũng cần chút bạc, đang canh cánh trong lòng…”

Hà đại nhân ghé đầu nhỏ giọng hỏi Lục Kiều Kiều: “Không biết Lục tiểu thư còn thiếu bao nhiêu lộ phí? Để xem Hà mỗ có thể giúp gì được chăng.”

Lục Kiều Kiều cũng ghé đầu lại, khẽ khàng đáp: “Một trăm lạng…”

“À…” Hà đại nhân hiểu ý, mỉm cười gật đầu.

“… vàng.” Lục Kiều Kiều bổ sung.

“Cạch…” Đôi đũa trên tay Hà đại nhân rơi xuống đất.