Thiên Long bát bộ (bản mới)

Hôi28(b)

Chết đi sống lại mấy lần,

Một thân gánh chịu muôn phần khổ đau.

Kim chi ngọc diệp còn đâu,

Đầu đeo lồng sắt xiết bao thảm hình.

*

A Tử nói:

- Nếu quả là ngươi thích thú, sao không cười lên? Sao không nói là

được đánh thật sướng quá?

Du Thản Chi bị nàng hành hạ đến hết hồn hết vía, quên cả phẫn nộ,

chỉ đành xuôi theo:

- Cô nương đối với tiểu nhân thật là tử tế, lại sai người đánh thật là

sướng đời.

A Tử nói:

- Nói thế nghe được đấy, để thử xem sao.

Chát một tiếng, y lại bị thêm một roi, Du Thản Chi vội kêu:

- Đa tạ ơn cứu mạng của cô nương, roi này đánh sướng lắm.

Chẳng bao lâu đã bị đánh hơn hai chục roi, tính cả trận đòn trước thì

đã quá ba chục. A Tử xua tay nói:

- Thôi hôm nay thế đủ rồi. Ngươi mau đút đầu vào chuồng ta coi.

Du Thản Chi toàn thân đau như dần, khập khiễng bước tới bên

chuồng sư tử, nghiến răng đút đầu qua song sắt. Con sư tử thấy y dám tiến

lên khiêu khích như thế, sợ quá giật mình lùi lại hai bước, lom lom nhìn

chiếc đầu sắt một hồi, lại lùi thêm hai bước nữa, miệng gừ gừ ra oai. A

Tử quát:

- Bảo sư tử cắn đi, sao nó chưa cắn?

Gã dạy thú quát lên mấy tiếng, sư tử nhận được hiệu lệnh, liền chồm

tới, há mồm ra, ngoạm vào đầu Du Thản Chi, tiếp theo là tiếng kèn kẹt

răng sư tử cạ vào lồng sắt. Du Thản Chi nhắm chặt hai mắt, cảm thấy một

luồng hơi nóng theo lỗ mắt, lỗ mũi, lỗ mồm phà vào, biết rằng đầu mình

đã lọt thỏm trong mồm con mãnh thú, rồi sau ót và trán đau nhói lên.

Khi y bị chụp cái lồng sắt vào đầu, mặt mũi đầu tóc y đã bị chiếc

lồng nóng đỏ đốt cháy, sau mấy ngày bắt đầu liền da, bây giờ lại bị sư tử

cắn, bao nhiêu vết thương lại vỡ tung ra.

Con sư tử cố sức cắn mấy cái nhưng không được, ngược lại răng còn

bị ê ẩm, bèn ra oai giơ chân phải lên chộp lên vai Du Thản Chi. Du Thản

Chi đầu vai đau điếng, kêu A lên một tiếng. Con sư tử đột nhiên thấy

vật trong mồm mình bỗng rống lên, kinh hoảng nhả đầu y ra, lùi về nép

tại một góc lồng.

Gã dạy sư tử lớn tiếng quát tháo, giục sư tử xông đến cắn Du Thản

Chi lần nữa. Du Thản Chi giận quá, đột nhiên vươn tay ra, chộp luôn ót

gã huấn sư, đẩy mạnh một cái, dúi luôn đầu y vào trong chuồng sư tử,

khiến gã kêu lên inh ỏi. A Tử vỗ tay reo hò nói:

- Hay quá! Hay quá! Không ai được can thiệp, để hai đứa vật nhau

xem ai sống ai chết.

Bọn lính Khất Đan đang định tiến lên nắm tay Du Thản Chi lôi ra,

nghe A Tử nói thế đều đứng tại chỗ không động tĩnh gì. Gã dạy sư tử hết

sức dãy dụa, nhưng dã tính của Du Thản Chi nổi lên, nói gì thì nói nhất

định không buông. Gã huấn sư chỉ còn nước nhờ sư tử giúp mình, kêu lên:

- Cắn! Cắn y ngay!

Con sư tử thấy y thúc giục, gầm lên một tiếng chồm tới. Con vật chỉ

nghe chủ nhân bảo nó cắn đi, nhưng nào có biết cắn cái gì, hai hàm răng

nhọn hoắt há ra ngoạm luôn một nửa đầu gã dạy thú, khiến cho máu lẫn

óc tung tóe đầy mặt đất.

A Tử cười nói:

- Hề Sắt thắng rồi!

Nàng bèn bảo sĩ binh đem cái xác gã dạy thú và lồng sư tử ra ngoài,

nói với Du Thản Chi:

- Thế là phải! Ngươi làm cho ta hoan hỉ, phải thưởng gì mới được!

Thưởng cái gì đây nhỉ?

Nàng chống tay vào cằm nghiêng đầu suy nghĩ. Du Thản Chi nói:

- Cô nương, tiểu nhân không mong cô thưởng tiền, chỉ cầu xin một

việc.

A Tử hỏi:

- Ngươi cầu xin gì?

Du Thản Chi đáp:

- Xin cô cho tiểu nhân được ở bên cạnh hầu hạ, làm đầy tớ cho cô

nương.

A Tử ngạc nhiên:

- Làm đầy tớ cho ta ư? Sao lại thế? Có gì thích thú đâu? Ồ, ta biết

rồi, ngươi định đợi Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù

cho cha mẹ chứ gì?

Du Thản Chi vội đáp:

- Không! Không! Không phải thế đâu.

A Tử nói:

- Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Không phải không nghĩ đến, có điều một là báo thù không được,

hai là không muốn để cô nương bị dính líu vào.

A Tử hỏi:

- Thế sao ngươi lại thích làm đầy tớ cho ta?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương là tiên trên trời hạ phàm, là người đẹp nhất trong thiên

hạ. Tiểu nhân... tiểu nhân... mong được ngày ngày trông thấy cô nương.

Câu đó cực kỳ vô lễ, ở vào tình trạng y lúc này, thì lại cũng thật là

lớn mật. Thế nhưng A Tử nghe vào tai thì lại rất vừa ý. Nàng tuổi còn

nhỏ, dung mạo tuy đẹp đẽ thật nhưng thân thể chưa trưởng thành, lại

thêm trọng thương mới khỏi, tiều tụy xanh xao mà bảo là người đẹp nhất

trong thiên hạ thì thật quá đáng, nhưng nghe một người vì nhan sắc mình

mà đắm đuối như thế cũng không khỏi mở cờ trong bụng.

Nàng đang toan bằng lòng lời thỉnh cầu của Du Thản Chi thì bỗng

nghe một tên cung vệ lên tiếng báo:

- Đại vương đến thăm.

A Tử đưa mắt cho Du Thản Chi, hạ giọng hỏi:

- Tiêu đại vương đến rồi kìa, ngươi có sợ không?

Du Thản Chi sợ đến mất vía nhưng vẫn run run nói cứng:

- Không sợ!

Điện môn mở toang ra, Tiêu Phong mặc khinh cừu đai lỏng5, chậm

rãi đi vào. Ông vừa vào cửa điện đã thấy trên sàn đầy những máu tươi,

lại thêm Du Thản Chi đầu đeo lồng sắt đứng đó, hình dáng hết sức lạ

lùng bèn vừa cười vừa hỏi A Tử:

- Hôm nay khí sắc cô trông tươi tỉnh lắm, lại có trò chơi gì mới

chăng? Người này trên đầu đeo cái gì lạ thế?

A Tử cười đáp:

Bối cảnh xã hội đời Tống

- Đây là người đầu sắt do nước Cao Xương bên Tây Vực tiến

cống, tên là Hề Sắt. Đầu y cứng lắm, đến sư tử cắn còn không vỡ, anh coi

nè, đây là vết răng sư tử đó.

Tiêu Phong coi kỹ chiếc lồng sắt, quả nhiên còn dấu răng mãnh thú

thật. A Tử lại tiếp:

- Tỉ phu, anh có cách gì gỡ cái lồng sắt này ra được không?

Du Thản Chi nghe nói thế, sợ đến hồn phi phách tán. Y đã từng

chính mắt trông thấy thần dũng của Tiêu Phong một mình đấu với quần

hùng Trung Nguyên, song chưởng đánh ra khiến cương thuẫn của cả bá

phụ và phụ thân đều văng đi, nếu như muốn gỡ cái lồng trên đầu mình thì

thật dễ như trở bàn tay. Khi bị người ta gắn chiếc lồng sắt vào đầu, y đau

khổ thất vọng, đến bây giờ thì lại mong rằng cái lồng sắt đó sẽ mãi mãi ở

trên đầu mình để Tiêu Phong không nhìn thấy bộ mặt thật.

Tiêu Phong giơ ngón tay búng nhẹ vào cái lồng sắt mấy cái, phát

tiếng leng keng cười nói:

- Cái lồng sắt này thật chắc chắn, thật tinh vi, làm hỏng thì uổng

lắm.

A Tử nói:

- Sứ giả nước Cao Xương nói rằng, gã đầu sắt này sinh ra mặt xanh

nanh vàng, ba phần người, bảy phần quỉ, ai trông thấy cũng phải hoảng

hồn tránh xa thành thử cha mẹ y mới đúc cái lồng này cho y đội để khỏi

làm cho người khác tởn thần. Tỉ phu ơi, em muốn xem bộ mặt thực của y

thế nào, có thực là kinh khủng dễ sợ hay không?

Du Thản Chi sợ quá run lẩy bẩy, răng đánh bò cạp kêu lách cách.

Tiêu Phong thấy y kinh hoảng dị thường bèn nói:

- Gã này sợ đến mất vía, thôi đừng bửa đầu y ra làm chi. Người này

từ nhỏ đội đã quen, nếu cố gắng lấy ra e rằng y không sống được.

A Tử vỗ tay reo lên:

- Thế thì thật thú vị. Mỗi khi em thấy con rùa em đều bắt nó đem

lột mai ra để xem rùa không mai có sống được không?

Tiêu Phong chau mày, nghĩ đến con rùa bị lột vỏ, quả là tàn nhẫn

nói:

- A Tử, sao ngươi lại cứ thích những trò tàn ác khiến cho người ta

sống dở chết dở như thế?

A Tử hứ một tiếng nói:

- Anh không thích em chứ gì? Em làm sao tốt được như chị A Châu?

Em mà được như chị A Châu thì đâu có đến nỗi mấy ngày anh không

thèm đến thăm.

Tiêu Phong nói:

- Làm cái chức khốn khổ Nam Viện Đại Vương này, suốt ngày bận

tối tăm mặt mũi. Thế nhưng chẳng phải ngày nào ta cũng đến chơi với cô

một lúc hay sao?

A Tử phụng phịu:

- Chơi với cô một lúc? Hứ, chơi với cô một lúc? Em chẳng thích cái

lối vờ vĩnh đến chơi với cô một lúc cho có chuyện của tỉ phu đâu? Giá

như em là chị A Châu thì ắt hẳn anh luôn luôn ở bên cạnh em không rời

một bước chứ đâu phải chỉ một lúc, nửa lúc mà thôi.

Tiêu Phong nghe nàng nói quả không sai nên không sao trả lời được,

chỉ đành cười trừ nói:

- Tỉ phu là người lớn, đâu có thích chơi đùa với trẻ con, sao em

không kiếm một cô gái nhỏ tuổi nào để trò truyện giải sầu?

A Tử hậm hực đáp:

- Trẻ con, trẻ con... em nào có còn là trẻ con nữa? Anh không thích

chơi với em, sao còn đến đây làm gì?

Tiêu Phong đáp:

- Ta đến xem cô đã khỏe chưa? Hôm nay uống mật gấu rồi chứ?

A Tử cầm chiếc nệm trên ghế quăng mạnh xuống đất, giơ chân đá

một cái nói:

- Trong lòng em không được vui, dù mỗi ngày uống hàng trăm cái

mật gấu thì cũng chẳng khỏe được.

Tiêu Phong thấy nàng lại giở trò hờn mát, nếu là A Châu ông ắt sẽ

dỗ dành để nàng bớt giận làm lành, còn cô bé điêu ngoa ác độc này thì

càng nghĩ càng chán ghét nên chỉ nói:

- Thôi em đi nghỉ đi thôi.

Ông đứng lên đi ra. A Tử nhìn theo sau lưng ông, ngơ ngẩn muốn

khóc, chợt nhìn thấy Du Thản Chi, cơn giận bùng lên, bao nhiêu bực dọc

muốn trút lên đầu y bèn quát:

- Thất Lý, đánh thêm cho nó ba mươi roi nữa.

Thất Lý vội đáp:

- Vâng!

Y cầm chiếc roi lên. Du Thản Chi thất thanh kêu lên:

- Cô nương, tôi làm lầm lỗi gì thế?

A Tử không đáp, vẫy tay nói:

- Đánh mau!

Vút một tiếng, Thất Lý liền đánh xuống. Du Thản Chi lại kêu:

- Cô nương, quả thực tiểu nhân phạm tội gì, xin cô cho biết để lần

sau khỏi tái phạm.

Thất Lý cứ vút một roi rồi lại một roi nữa. A Tử nói:

- Ta muốn đánh là đánh, ngươi không được hỏi là tội gì, không lẽ ta

đánh sai hay sao? Ngươi hỏi là mình phạm tội gì ư? Thì chính vì ngươi hỏi

cho nên ta mới đánh.

Du Thản Chi nói:

- Tại cô nương đánh trước, tiểu nhân mới hỏi. Tôi chưa hỏi cô

nương đã sai đánh rồi mà.

Vút một roi, lại vút vút vút thêm ba roi nữa. A Tử cười nói:

- Ta đoán là ngươi sẽ hỏi cho nên ta sai người đánh trước. Quả

nhiên ngươi hỏi thật, có đúng là ta liệu sự như thần hay không? Cái đó

chứng minh là ngươi đâu có hết lòng hết dạ với ta. Cô nương bỗng nhiên

muốn đánh người, nếu quả ngươi trung thành thì phải xông lên, tự động

hiến thân cho ta đánh mới phải. Ngươi lầu bầu như thế đủ biết trong lòng

không phục. Được rồi, ngươi không thích ta đánh, thì thôi không đánh

cũng chẳng sao.

Du Thản Chi nghe nàng nói không đánh cũng chẳng sao mà sợ run

lên, người nổi da gà, biết rằng A Tử sẽ nghĩ ra những hình phạt còn đau

đớn khổ sở gấp mười lần đánh, chi bằng ngoan ngoãn chịu ba chục roi

còn hơn, vội nói:

- Tiểu nhân biết sai rồi! Cô nương đánh là đại ân đại đức, có ích

cho thân thể tiểu nhân, xin cô nương đánh thêm nữa, càng nhiều càng tốt.

A Tử nở một nụ cười tươi như hoa nói:

- Xem ra ngươi kể cũng thông minh nhưng ta đâu có để cho người

khác giăng bẫy được, ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là để cho ta

cao hứng tha cho ngươi chứ gì?

Du Thản Chi đáp:

- Nào có dám thế, tiểu nhân quả không dám giăng bẫy đánh lừa cô

nương.

A Tử nói:

- Thế ngươi bảo đánh càng nhiều càng tốt là phát xuất tự đáy lòng

đấy chăng?

Du Thản Chi đáp:

- Quả đúng như thế, chính là tâm nguyện của tiểu nhân.

A Tử nói:

- Nếu đúng như vậy thì thôi ta cũng chiều ý ngươi. Thất Lý, đánh

cho nó một trăm roi, y thích đánh cho thật nhiều.

Du Thản Chi sợ đến mất mật, nghĩ bụng: Đánh một trăm roi thì

mạng mình còn sao nổi?. Thế nhưng việc đã đến nước này, dù y bảo

mình không muốn, nhưng người ta đánh là đánh cãi lại có ích gì đâu, nên

đành lặng thinh không dám nói gì cả.

A Tử hỏi:

- Sao ngươi không nói gì cả? Có phải trong lòng không phục chứ

gì? Ta sai người đánh ngươi, ngươi thấy không công bình chăng?

Du Thản Chi đành gượng đáp:

- Tiển nhân vui lòng thành khẩn, biết là cô nương đánh là do lòng

tốt muốn thành toàn cho tiểu nhân.

A Tử nói:

- Thế sao ngươi không nói gì cả?

Du Thản Chi không còn cách gì trả lời, ngập ngừng một hồi rồi đáp:

- Cái đó... cái đó... tiểu nhân nghĩ đến ơn đức cô nương nặng tày

non, trong lòng cảm kích, không còn biết nói sao nữa, chẳng biết tương lai

làm thế nào để báo đáp.

A Tử nói:

- Tốt lắm! Ngươi hỏi làm cách nào báo đáp ta ư? Mỗi roi ta đánh

ngươi, ngươi lại thêm hận thù một chút nhớ kỹ trong lòng chứ gì.

Du Thản Chi liên tiếp lắc đầu:

- Không! Không! Không đâu! Tiểu nhân nói báo đáp là nói chuyện

báo đáp chân chính. Tiểu nhân một lòng một dạ mong được vì cô nương

tan xương nát thịt, dẫu phải nhảy vào nước sôi, xông vào lửa bỏng cũng

không từ.

A Tử nói:

- Được, thế thì đánh đi.

Thất Lý vội đáp:

- Vâng.

Nghe chát một tiếng, roi da đã quất xuống. Đánh đến hơn năm chục

roi thì Du Thản Chi đau đến tê người, hai đầu gối nhũn đi, từ từ sụm

xuống. A Tử cười khì khì đứng coi, chỉ đợi cho y mở miệng van xin một

tiếng là nàng sẽ kết tội y nói láo, tăng thêm năm chục roi đòn. Có ngờ

đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa tỉnh nửa mê, chẳng còn biết gì nữa, chỉ

rên khe khẽ nhưng không van xin câu nào. Đánh đến bảy chục roi thì y đã

ngất xỉu, Thất Lý vẫn không nương tay, đánh cho đủ một trăm roi lúc đó

mới ngừng.

A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp, chín chết một sống không

khỏi cụt hứng. Nàng nghĩ đến thái độ của Tiêu Phong chẳng thèm để ý

đến mình, trong bụng ấm ức nói:

- Lôi y đi! Gã này chẳng có gì vui! Thất Lý, có trò chơi mới nào

nữa không?

Du Thản Chi bị trận đòn đó phải dưỡng thương một tháng trời mới

khỏi. Người Khất Đan thấy A Tử đã quên y rồi nên không lôi y ra hành

hạ nữa, bỏ y vào ở chung với một đám người Tống bị bắt khác, bắt y phải

làm những việc hạ tiện nặng nhọc hơn cả, dọn hố xí, rửa chuồng cừu,

nhặt phân bò, phơi da thú chuyện gì cũng đến tay.

Du Thản Chi đầu đội cái lồng sắt nên ai ai cũng đem y ra chửi mắng

làm trò cười, đến cả đồng bào người Hán cũng coi y như con quái vật.

Thế nhưng y việc gì cũng nhịn, tưởng như biến thành người câm. Người

khác đánh chửi, y cũng không kháng cự, chỉ có khi nào có ai cưỡi ngựa đi

qua thì mới ngửng đầu lên nhìn, trong lòng khắc khoải duy nhất một

chuyện: Không biết đến chừng nào cô nương mới gọi mình lên đánh

đòn?. Y chỉ mong được nhìn thấy A Tử cho dù phải chịu roi vọt cũng

cam lòng chứ tuyệt nhiên chưa bao giờ có ý định đào tẩu.

Cứ như thế hơn hai tháng trời, khí hậu ấm dần. Hôm đó Du Thản Chi

theo mọi người ra phía nam thành Nam Kinh xúc đất khiêng gạch để đắp

thêm cho tường thêm chắc chắn, bỗng nghe thấy tiếng chân ngựa lộp cộp,

mấy người từ trong Nam môn đi ra, có tiếng cười trong trẻo nói:

- Ô kìa, tên Hề Sắt còn sống nhỉ? Ta vẫn tưởng y chết ngỏm từ đời

nào! Hề Sắt, ngươi lại đây.

Chính là tiếng của A Tử. Du Thản Chi ngày mong đêm nhớ, canh

cánh mong tới giờ phút này, nghe tiếng A Tử gọi, hai chân như đóng chặt

xuống đất, không sao di động được, chỉ thấy tim trong ngực đập thình

thình, lòng bàn tay toát mồ hôi.

A Tử lại gọi:

- Hề Sắt, đáng chết thực! Ta gọi ngươi lại đây, ngươi điếc hay sao?

Du Thản Chi lúc ấy mới đáp:

- Thưa cô nương, vâng.

Y đi đến trước đầu ngựa của cô gái. A Tử trong lòng thật vui vẻ, cười

nói:

- Hề Sắt, sao ngươi chưa chết hả?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân vẫn mong... vẫn mong báo đáp ân điển cô nương mà

chưa được nên không thể chết.

A Tử càng thêm vui, cười khanh khách mấy tiếng nói:

- Ta đang đi tìm một đứa đầy tớ trung thành một lòng một dạ để

làm một chuyện, chỉ sợ người Khất Đan chân tay vụng về làm hỏng việc,

nếu ngươi chưa chết thì thật tốt quá. Ngươi đi theo ta.

Du Thản Chi đáp ngay:

- Vâng!

Lập tức đi theo sau ngựa nàng. A Tử vẫy tay bảo Thất Lý và ba tên

vệ sĩ Khất Đan quay trở về, không phải theo nữa. Thất Lý biết rằng nàng

đã nói gì thì người khác không thể nào khuyên giải được, cũng may tên

đầu sắt này nhút nhát khiếp nhược, đi theo nàng ắt không có chuyện gì

xẩy ra bèn nói:

- Xin cô nương sớm quay về phủ.

Bốn người bèn nhảy xuống ngựa đứng đợi bên cửa thành. A Tử giục

ngựa chạy chậm chậm, đi chừng bảy tám dặm, càng lúc càng hoang dã rẽ

vào một sơn cốc tối om om, gió lạnh từ một khe núi thổi qua khiến hai

người da thịt như se lại.

A Tử nói:

- Thôi, ở đây được rồi!

Nàng ra lệnh cho Du Thản Chi buộc ngựa tại một gốc cây rồi bảo:

- Những chuyện ngươi trông thấy ngày hôm nay, không được tiết lộ

cho ai một tí gì, ngay cả với ta cũng không được đề cập tới, nhớ chưa?

Du Thản Chi vội đáp:

- Vâng! Vâng!

Trong bụng vui muốn phát điên, A Tử chỉ cho một mình mình đi

theo, đến một nơi hẻo lánh như thế, dẫu cho nàng có đánh cho y một chập

thật đau thì cũng vẫn còn cảm thấy ngọt như đường. A Tử cho tay vào bọc

lấy ra một chiếc đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm, để trên mặt đất nói:

- Lát nữa nếu có côn trùng gì quái lạ bò ra, ngươi không được la lối

om sòm, nhất định không được lên tiếng nghe chưa?

Du Thản Chi vội vàng đáp:

- Vâng!

A Tử lại cho tay vào túi lấy ra một cái gói vải nhỏ, mở ra thấy có

mấy cục hương liệu màu vàng, màu đen, màu tím, màu đỏ. Nàng bẻ mỗi

cục một miếng nhỏ, bỏ vào trong đỉnh, dùng hỏa đao, hỏa thạch đánh lên

châm lửa đốt, sau đó đậy nắp lại nói:

- Mình ra dưới gốc cây kia ngồi rình xem.

A Tử ngồi dưới gốc cây, Du Thản Chi đâu dám ngồi bên cạnh nàng,

ra một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh hiu hiu, trong hơi gió có thoang

thoảng mùi thơm từ người nàng bay ra, Du Thản Chi không khỏi mê mẩn

tâm hồn, thấy rằng được một lúc như thế này, bao nhiêu khổ sở dày vò y

phải chịu những ngày qua kể cũng không uổng. Y mong sao A Tử vĩnh

viễn ngồi dưới gốc cây, còn mình được đời đời kiếp kiếp ở nơi đây hầu

bên cạnh.

Y còn đang say sưa lãng đãng, bỗng nghe thấy có tiếng loạt soạt,

một vật gì đỏ chót đang động đậy trong bụi cỏ xanh, chính là một con rết

thật lớn, toàn thân lấp lánh, trên đầu lồi ra một cái bướu nhỏ, trông khác

xa những con rết thường.

Con rết đó ngửi thấy mùi hương trong mộc đỉnh lập tức trườn tới,

chui theo cái lỗ dưới chiếc đỉnh mà vào rồi không thấy ra nữa. A Tử lấy

trong bọc ra một vuông gấm dày, rón rén tới gần, chụp mảnh gấm lên

trên chiếc đỉnh bao lại thật chặt sợ con rết chui ra mất rồi bỏ vào trong

chiếc bao da treo bên cổ ngựa cười nói:

- Thôi đi!

Nàng lập tức lên ngựa khởi hành. Du Thản Chi lẽo đẽo theo sau nghĩ

thầm: Cái tiểu mộc đỉnh đó thật là kỳ quái, nhưng chắc hẳn là vì đốt

hương liệu mà dụ được con rết đó chui vào. Không biết con rết đó có cái

gì vui mà cô nương lại lận đận vào tận trong sơn cốc để bắt nó?.

A Tử về đến Đoan Phúc Cung sai thị vệ dọn một cái phòng nhỏ ở

bên cạnh làm nơi ở cho Du Thản Chi. Du Thản Chi mừng quá, biết rằng

rồi đây mình sẽ được gặp A Tử luôn. Quả nhiên sáng hôm sau, A Tử đã

sai gọi Du Thản Chi đến, dẫn y vào bên cạnh điện, tự tay đóng cửa, trong

điện chỉ còn hai người. A Tử sang phía tây lấy một chiếc hũ bằng sành,

mở nắp ra cười nói:

- Ngươi xem này, coi có hùng tráng không?

Du Thản Chi thò đầu vào nhìn, thấy chính là con rết bắt được hôm

qua đang chạy lăng quăng trong đó. A Tử lấy ra một con gà trống đã để

san bên cạnh, rút đoản đao chặt đứt mỏ và cựa, vứt vào trong hũ. Con rết

kia liền nhảy lên đầu con gà cắn cổ hút máu, chẳng bao lâu con gà trúng

độc chết liền. Mình con rết từ từ căng lên, cái đầu màu đỏ tưởng như

muốn bật máu ra. A Tử vẻ mặt đầy vui sướng nói nhỏ:

- Thành rồi! Thành rồi! Môn công phu này có thể luyện thành công

được rồi!

Du Thản Chi nghĩ thầm: Thì ra cô đi bắt rết là để luyện một môn

công phu. Công phu đó chắc tên là Ngô Công Công. Cứ như thế nàng

nuôi nó bảy ngày, mỗi ngày cho con rết hút máu một con gà trống lớn.

Đến ngày thứ tám, A Tử lại gọi Du Thản Chi vào trong điện, cười hì hì

hỏi:

- Hề Sắt, ta đối với ngươi thế nào?

Du Thản Chi đáp:

- Cô nương đối đãi tiểu nhân ơn nặng tày non.

A Tử hỏi thêm:

- Ngươi từng bảo sẽ vì ta tan xương nát thịt, nhảy vào nước sôi,

xông vào lửa bỏng cũng không từ, cái đó thực hay giả thế?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân chẳng dám nói láo cô nương. Cô nương sai bảo chuyện

gì tiểu nhân nhất định không từ chối.

A Tử nói:

- Thế thì hay lắm. Để ta nói cho ngươi hay, ta muốn luyện một môn

công phu nhưng phải có người giúp mới xong được. Ngươi có bằng lòng

giúp ta luyện công không? Nếu như luyện thành rồi, ta thể nào cũng

trọng thưởng cho ngươi.

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân đương nhiên nghe cô nương bảo gì làm nấy, chẳng cần

phải thưởng.

A Tử nói:

- Thế thì hay lắm, mình luyện công được rồi.

Nàng ngồi xuống xếp bằng, hai tay xoa vào nhau, nhắm mắt vận khí,

một hồi sau mới nói:

- Ngươi thò tay vào trong hũ, con rết đó thể nào cũng cắn ngươi,

ngươi giá nào cũng không được động đậy, phải để cho nó hút máu, càng

nhiều càng tốt.

Bảy ngày qua ngày nào Du Thản Chi cũng thấy con rết đó hút máu

gà, chỉ giây lát, một con gà trống đang khỏe mạnh đã ngã ra chết ngay,

đủ biết con rết này độc kinh khủng, nghe A Tử bảo thế, không khỏi ngần

ngừ không trả lời. A Tử mặt sầm xuống hỏi lại:

- Chờ gì nữa? Ngươi không muốn làm hay sao?

Du Thản Chi đáp:

- Không phải không muốn, có điều... có điều...

A Tử ngắt ngang:

- Cái gì? Có điều con rết này độc tính lợi hại, ngươi sợ chết chứ gì?

Ngươi là người hay ngươi là gà trống?

Du Thản Chi đáp:

- Tiểu nhân không phải là gà trống.

A Tử nói:

- Đúng thế, gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là

gà, sao lại chết được? Ngươi bảo san lòng vì ta nhảy vào nước sôi, xông

vào lửa bỏng, tan xương nát thịt, vậy mới để rết hút có một chút máu thì

đã gọi là tan xương nát thịt hay chưa?

Du Thản Chi ứ họng không trả lời được, ngẩng đầu nhìn A Tử, thấy

nàng khóe miệng hơi trĩu xuống ra chiều khinh miệt, lập tức ý loạn tình

mê như bị ma nhập liền khẳng khái đáp:

- Được, tiểu nhân nghe lời sai bảo của cô nương.

Y nghiến chặt hàm răng, nhắm mắt lại, tay phải chầm chậm thò vào

trong cái chóe. Bàn tay y vừa lọt vào trong hũ, đầu ngón tay giữa liền bị

đau nhói như kim chích khiến y nhịn không nổi rụt tay lại. A Tử kêu lên:

- Giữ yên đó! Không được động đậy!

Du Thản Chi cố gắng chịu đựng, mở mắt ra, thấy con rết kia đang

cắn đầu ngón tay giữa của mình hút máu. Du Thản Chi toàn thân nổi gai

ốc, chỉ muốn kéo tay ra vẩy cho con rết rơi xuống lấy chân đạp cho chết.

Thế nhưng tuy y không quay đầu lại cũng biết đôi mắt sắc như dao của A

Tử đang nhìn sau lưng mình, chẳng khác gì hai lưỡi kiếm đâm tới thì làm

sao dám cử động?

Cũng may khi con rết hút máu không đau lắm chỉ thấy con vật từ từ

phồng lên, còn đầu ngón tay giữa của Du Thản Chi thì mờ mờ phủ một

lớp màu tím thẫm. Màu tím đó từ nhạt chuyển sang đậm, rồi từ từ biến

thành màu đen, một lát sau, từ ngón tay lan sang bàn tay, rồi chạy lên

cánh tay.

Du Thản Chi lúc này không còn coi sống chết vào đâu, ngược lại còn

thản nhiên như không, mép nở một nụ cười, có điều nụ cười đó dấu sau

tấm mặt nạ thép nên A Tử không nhìn thấy được.

A Tử hai mắt đăm đăm nhìn con rết, hết sức chăm chú không dám

sao nhãng chút nào. Sau cùng con rết nhả tay Du Thản Chi ra, nằm bất

động dưới đáy hũ. A Tử kêu lên:

- Ngươi nhè nhẹ bắt con rết bỏ vào mộc đỉnh cho ta, cẩn thận đó,

đừng làm nó tổn thương.

Du Thản Chi y lời nhặt con rết lên, bỏ vào trong chiếc tiểu mộc đỉnh

để ở trước cẩm đôn. A Tử liền đóng nắp lại, chỉ trong giây lát, từ trong

chiếc lỗ có những giọt máu đen nhỏ ra. A Tử vẻ mặt vui mừng, vội đưa

tay hứng máu đó, ngồi xếp bằng vận công, hút những giọt máu độc đó

vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: Đây là huyết dịch của

ta, bây giờ đi vào trong người nàng. Thì ra cô nương đang luyện Ngô

Công độc chưởng.

Một lúc lâu sau, máu đen từ chiếc đỉnh đã chảy ra hết, A Tử mở nắp

ra thấy con rết kia đã chết rồi. A Tử hai tay xoa vào nhau, nhìn lại bàn

tay thấy chẳng khác gì bạch ngọc không một tì vết, cũng không có vết

máu, biết rằng phương pháp luyện công nàng nghe lóm được của sư phụ

không sai chút nào, trong bụng sung sướng, bưng chiếc một đỉnh lên, trút

con rết ra rồi hấp tấp ra khỏi điện, chẳng thèm nhìn nhõi gì đến Du Thản

Chi, coi y không khác gì con rết chết, không còn dùng vào việc gì được

nữa.

Du Thản Chi nhìn theo sau lưng A Tử cho tới khi nàng đi khuất, lúc

ấy mới cởi áo ra xem thấy sắc đen đã lan lên tới nách, đồng thời cả cánh

tay ngứa ngáy khó chịu, chỉ giây lát đã tưởng chừng như có muôn ngàn

con rận cùng cắn một lượt.

Y kêu rầm lên, nhảy choi choi, đưa tay gãi, nhưng càng gãi thì càng

ngứa, tưởng như từ trong xương tủy, phế phủ đều có sâu bọ chui vào, ngo

ngoe ngọ ngoạy khắp nơi. Đau thì có thể chịu đựng nhưng ngứa lại thật

khó mà nín nhịn. Y nhảy lên nhảy xuống, vừa nhảy vừa kêu, lấy chiếc

đầu sắt húc mạnh vào tường, nghe kêu boong boong, chỉ mong mình ngất

đi, mất hết tri giác, để khỏi phải chịu cái cơn ngứa ngáy kinh khủng này.

Đập đầu thêm mấy cái nữa, nghe cạch một tiếng, cái gói bằng vải

dầu từ trong bọc rơi ra, lộ ra một cuốn sách bìa đã vàng, chính là bản kinh

thư bằng tiếng Phạn hôm nọ y nhặt được. Lúc này trong cơn ngứa ngáy

kịch liệt, y cũng chẳng nghĩ tới chuyện nhặt lên làm gì, chỉ thấy cuốn

sách mở tung. Du Thản Chi toàn thân khó chịu, lăn lộn dưới đất vùng vẫy

như con cá mắc lưới. Một lúc sau, y chỉ còn nằm gục một chỗ thở hồng

hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi từ các chỗ hổng trên chiếc lồng sắt

chảy ra, rơi cả xuống cuốn kinh chữ Phạn.

Trong cơn mơ màng, y thiếp đi không biết bao lâu, cuốn sách dính

đầy dãi nhớt, không hiểu vì sao bỗng từ trên những hàng chữ cong cong

quẹo quẹo, hiện ra hình của một nhà sư. Tăng nhân đó tư thức cực kỳ

quái dị, đầu cúi xuống chui qua háng thò ra ngoài, hay tay đưa xuống nắm

hai cổ chân.

Y nào còn tâm trí đâu mà xem hình thế cổ quái trong sách, chỉ thấy

người ngứa ngáy tưởng chừng thở không nổi, đành lăn ra đất, cào gãi lung

tung, xé vụn quần áo đang mặc trên người để cọ da thịt lên nền đá cho đỡ

ngứa, chỉ chốc lát da dẻ đã rướm máu. Y lăn qua lộn lại ma sát như thế,

đột nhiên vô ý sao, đầu chui tọt vào giữa hai bắp đùi. Đầu y có mang cái

rọ sắt, trong cơn gấp gáp không rút lại được, giơ tay tính đẩy trở ra, tay

phải quều quào sao nắm ngay cổ chân.

Đến lúc đó Du Thản Chi đã mệt ngất ngư chẳng còn hơi sức gì nữa,

không thể động đậy, chỉ đành nghỉ một chốc thở vài hơi, vô tình sao nhìn

thấy cuốn sách mở dưới đất, trong sách vẽ hình một nhà sư gầy gò, tư

thức cũng na ná như y đang làm, trong bụng vừa kinh dị lại cảm thấy tức

cười. Kỳ quái làm sao, y theo tư thức này, tuy thân thể vẫn còn ngứa ngáy

như cũ nhưng hơi thở đã dễ dàng hơn, thành thử cũng không vội chui đầu

ra khỏi háng, mà đành nằm phục dưới đất như hình vẽ, tay trái cũng đưa

ra nắm luôn cổ chân phải, cằm chống xuống đất. Thế là y và đồ hình của

nhà sư trong sách hoàn toàn giống nhau, hơi thở lúc này đã dễ dàng hơn

nhiều.

Y nằm phục như thế, đôi mắt để gần ngay cuốn sách, nhìn vào tăng

nhân thấy ở bên cạnh nhà sư có hai chữ màu vàng cực lớn, hình dáng

quái lạ cong cong quẹo quẹo, nhưng trong nét bút lại có vô số những mũi

tên đỏ nhỏ xíu bắn ra. Du Thản Chi lúc này đang nằm gục xuống hết sức

mỏi mệt nên buông tay ra đứng lên. Y vừa đứng dậy, lập tức lại ngứa đến

ngạt thở, vội vàng lại cúi xuống chui đầu vào giữa hai đùi, hay tay nắm

cổ chân, cằm chống xuống đất. Chỉ có tư thế cổ quái đó y mới lại thấy dễ

chịu mà thôi.

Du Thản Chi không dám động đậy gì nữa, một lúc sau không có việc

gì làm, đưa mắt nhìn nhà sư vẽ trên sách rồi nhìn qua hai chữ quái dị ở

bên cạnh đồ hình. Y xem những mũi tên trên hai chữ đó, tự nhiên đưa

mắt theo những đầu mũi tên quan sát nét bút, bỗng thấy những chỗ ngứa

trên tay phải biến thành một luồng khí ấm, từ cổ họng chạy xuống ngực

bụng, chạy quanh vài vòng theo hai vai lên đỉnh đầu rồi chầm chậm biến

mất.

Y thử nhìn vào đầu mũi tên trên hai chữ quái dị vài bận, lần nào

cũng có một luồng khí ấm chạy lên trên óc, còn cánh tay thì lại bớt ngứa

đi một chút. Du Thản Chi kinh ngạc nhưng chẳng hơi đâu nghĩ đến

nguyên nhân vì sao, cứ theo thế mà làm đến hơn ba chục lần thì cánh tay

chỉ còn hơi ngứa, làm thêm mươi lần nữa, ngón tay, lòng bàn tay, cánh

tay không chỗ nào còn cảm giác gì khác lạ.

Y rút đầu ra khỏi hai đùi, giơ tay xem, hắc khí trên bàn tay đã hoàn

toàn biến mất, y vui mừng khôn xiết đột nhiên kinh hoảng kêu lên:

- Chết rồi, không xong. Chất kịch độc của con rết đều chạy lên óc

cả rồi.

Thế nhưng lúc đó cơn ngứa quái lạ kia đã hết, y nghĩ thầm nếu sau

này có chuyện gì thì cũng không đến nỗi nào. Du Thản Chi tự hỏi: Cuốn

sách này rõ ràng nào có hình vẽ gì đâu, sao tự nhiên lại có một hòa

thượng cổ quái hiện ra? Ta chỉ vô ý sao lại thành tư thế giống hệt như nhà

sư này? Nhà sư này hẳn là bồ tát đến cứu mạng ta đây. Y bèn quì xuống

đất, cung kính khấu đầu trước vị quái tăng trong quyển sách, chiếc lồng

sắt gõ xuống đất kêu boong boong.

Y nào có biết hình trong quyển sách vẽ bằng một chất thảo dược pha

với nước, khi ướt thì hiện ra, còn khô thì biến mất, thành thử cả A Châu

lẫn Tiêu Phong đều không nhìn thấy. Thực ra tuyến lộ luyện công của

hình vẽ trong quyển sách đều có chú thích rõ ràng ở bên cạnh, những nhà

sư Thiếu Lâm thời trước biết chữ Phạn tuy không biết bí mật của đồ hình

vẫn theo đúng lời chỉ bằng chữ luyện thành Dịch Cân Kinh thần công. Du

Thản Chi khi bị cơn ngứa kỳ quái không chịu nổi kia, nước mắt ràn rụa

rơi xuống trang sách nên làm hình vẽ hiện ra. Đây là một môn diệu pháp

trong việc hóa giải ma đầu từ bên ngoài xâm nhập, là bí thuật trong phép

Du Già6 của Thiên Trúc thời cổ.

Y đột nhiên làm được tư thức đó cũng chẳng phải ngẫu nhiên xảo

hợp mà ăn nhanh thì nghẹn, ăn quá thì ói. Trong khi y bị ngứa quá đỗi,

đầu chúi xuống đất cũng là tự nhiên không có gì lạ, có điều nước mắt y

chảy vào đúng quyển sách thì cái đó mới thật khéo làm sao. Y ngơ ngẩn

một hồi, mệt mỏi quá lăn ra đất ngủ thiếp đi.

Sáng sớm hôm sau khi y còn chưa trở dậy, A Tử hấp tấp đi vào trong

điện thấy y trần truồng nằm đó, kêu lên một tiếng hỏi:

- Sao ngươi còn chưa chết?

Du Thản Chi kinh hãi ấp úng:

- Vì... tiểu nhân... tiểu nhân còn sống.

Y trong lòng chua xót: Thì ra cô nương mong ta chết cho rồi. A Tử

nói:

- Ngươi chưa chết thì càng hay. Mau đi kiếm quần áo mặc vào theo

ta đi bắt độc trùng lần nữa.

Du Thản Chi đáp:

- Vâng!

Đợi cho A Tử đi ra khỏi điện, y mới đi kiếm mấy tên lính Khất Đan

hỏi xin quần áo. Binh sĩ Khất Đan thấy quận chúa có vẻ tử tế với y hơn

một chút liền đi kiếm một bộ quần áo khô sạch cho y mặc.

A Tử dẫn Du Thản Chi đến một nơi hoang dã, lại dùng Thần Mộc

Vương Đỉnh để bắt độc trùng, dùng máu gà để nuôi, sau đó lại cho hút

máu Du Thản Chi rồi dùng để luyện công. Lần thứ hai là một con nhện

màu xanh, lần thứ ba là một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lần nào cũng

theo đúng đồ hình trong quyển sách hóa giải chất độc.

Năm xưa A Tử nhìn trộm sư phụ luyện thần công, lần nào cũng thấy

có người chết, đều là dân chúng trong vùng bị đệ tử bản môn theo lệnh sư

phụ đi bắt về, nên tưởng Du Thản Chi trúng độc thể nào cũng chết, ngờ

đâu thấy y vẫn bình thường, không khỏi lấy làm lạ.

Cứ như thế liên tiếp bắt độc trùng luyện công, ba tháng sau, chung

quanh thành Nam Kinh trong vòng hơn mười dặm độc vật càng lúc càng

hiếm, những con bị hương khí dụ được toàn là con nhỏ bé yếu đuối,

không vừa ý A Tử chút nào. Hai người đi bắt độc trùng càng lúc càng

phải đi xa hơn.

Hôm đó họ đi về hướng tây thành Nam Kinh hơn ba chục dặm, A Tử

đốt hương trong mộc đỉnh rồi, chờ đến hơn một giờ, mới nghe tiếng sột

soạt trong cỏ, xem ra có rắn rết gì đây. A Tử kêu lên:

- Nằm xuống!

Du Thản Chi y lời nằm mọp xuống, thấy tiếng động càng lúc càng

lớn, xem ra không phải bình thường. Tiếng động lạ đó kèm theo một mùi

tanh hôi khiến người ta muốn mửa. Du Thản Chi nín hơi không cử động,

thấy đám cỏ cao rẽ ra, một con đại mãng xà7 mình trắng vằn đen lượn

mình bò tới. Đầu con trăn hình tam giác, trên mọc một cục bướu sần sùi.

Phương bắc rắn rết vốn không nhiều, con mãng xà này hình dáng lạ lùng

như thế xưa nay chưa từng thấy.

Con rắn bò đến bên cạnh chiếc đỉnh, trườn quanh. Mãng xà dài đến

hai trượng, to bằng bắp tay, làm sao chui vào trong đỉnh được? Thế nhưng

nó ngửi thấy mùi hương liệu cùng mùi chiếc đỉnh nên không ngớt đưa cái

đầu to lớn húc vào.

A Tử có ngờ đâu lần này lại dụ được một con vật to đến thế, hết sức

kinh hãi, nhất thời không biết phải làm sao, rón rén bò đến bên cạnh Du

Thản Chi nói nhỏ:

- Làm sao đây? Nếu như con trăn làm vỡ mất chiếc đỉnh thì thật hỡi

ôi!

Du Thản Chi nghe nàng ăn nói dịu dàng như thế quả không ngờ tới,

tự nhiên hăng máu lên nói cứng:

- Cô nương chớ lo, để tôi ra đuổi con rắn đi.

Y bèn đứng lên, hùng dũng đi ra chỗ con trăn. Con mãng xà nghe

thấy có tiếng động, lập tức nằm cuộn lại, vươn cao đầu, le chiếc lưỡi đỏ

chót, phát tiếng sì sì, thủ thế mổ ra. Du Thản Chi thấy nó hung dữ như

thế, chột dạ không dám tiến tới nữa.

Ngay lúc đó, bỗng có một trận gió lạnh thổi qua, từ phía tây bắc có

một đường lửa cháy thẳng tới, chỉ giây lát đã tới ngay trước mặt. Đốm

sáng đó chạy tới nơi, nhìn rõ hơn thì ra không phải là một vệt lửa, mà là

trong đám cỏ có một con gì đó chạy tới, cỏ xanh gặp phải lập tức sém

vàng, đồng thời hàn khí càng lúc càng nhiều.

Y lùi lại mấy bước, thấy đường sém vàng đó chạy tới chiếc đỉnh, hóa

ra là một con tằm. Con tằm đó trắng tinh như ngọc, hơi ẩn sắc xanh, so

với tằm thường phải to gấp đôi, lại dài như một con giun, thân hình sáng

bóng như thủy tinh. Con mãng xà vốn dĩ thật hung tợn, lúc này lại xem

chừng sợ đến mất vía, rút đầu chui vào dưới thân.

Con tằm trong như thủy tinh kia nhanh nhẹn dị thường bò thẳng một

mạch lên người con trăn, chẳng khác gì một đường lửa nóng xẻ dọc theo

xương sống con mãng xà, đến đầu thì con rắn đã bị cắt ra làm hai. Con

sâu liền rúc vào túi nọc độc ở hai bên mang con mãng xà hút độc dịch,

chỉ giây lát thân đã căng phồng lên, từ xa nhìn tới thấy giống như một cái

bình trong suốt chứa đầy một thứ nước màu xanh tím.

A Tử vừa mừng vừa sợ, nói nhỏ:

- Con tằm này lợi hại đến thế, xem ra là chúa của các loài độc vật.

Du Thản Chi bụng lại lo thầm: Một con tằm kịch độc như thế này

nếu như hút máu ta thì lần này tính mạng mình chắc không còn. Còn sâu

đó chạy vòng quanh chiếc mộc đỉnh rồi bò lên, chỗ nào nó đi qua, chiếc

đỉnh liền hiện ra một cái ngấn cháy sém. Thế nhưng dường như nó có linh

tính, bò quanh chiếc đỉnh một vòng, biết là nếu chui vào trong đỉnh thì chỉ

còn nước chết nên lại bò xuống chạy về hướng tây bắc.

A Tử vừa cao hứng vừa nóng ruột, kêu lên:

- Đuổi theo ngay! Đuổi theo!

Cô ta lấy vuông gấm bọc cái đỉnh lại rồi chạy đuổi theo con sâu. Du

Thản Chi theo sát đằng sau, cứ theo đường lửa cháy sém mà đuổi. Con

tằm đó tuy nhỏ bé như thế nhưng bò nhanh như gió, chỉ nháy mắt đã xa

đến mấy trượng, cũng may nó đi đến đâu đều để lại một cái ngấn nên

không mất dấu.

Hai người chỉ một thoáng đã đuổi đến ba bốn dặm, nghe phía trước

có tiếng nước chảy róc rách đến bên một dòng suối. Vết cháy sém đến

suối liền biến mất, nhìn qua bờ bên kia không thấy ngấn bò của con tằm

đâu, hiển nhiên con vật đã chui xuống nước trôi đi rồi. A Tử dậm chân

than thở:

- Ngươi đuổi chậm quá, bây giờ biết đi đâu mà tìm? Ta không biết,

ngươi phải tìm cách bắt nó đem về cho ta.

Du Thản Chi trong lòng lo lắng, nhìn ngang nhìn ngửa nhưng nào có

thấy bóng dáng nó đâu? Hai người tìm kiếm một hồi lâu, trời đã sâm sẩm

tối, A Tử cảm thấy mỏi mệt, lại không kiên tâm, giận dữ nói:

- Bằng giá nào ngươi cũng phải bắt nó đem về cho ta, nếu không

thì đừng gặp ta nữa.

Nói xong nàng quay trở về đường cũ một mình về thành. Du Thản

Chi thấp thỏm đành men theo bờ suối đi xuôi xuống hạ lưu, tìm kiếm đến

bảy tám dặm, trong ánh sáng lờ mờ bỗng thấy bờ trên mặt cỏ bên kia lại

có dấu cháy sém. Du Thản Chi mừng quá, mở miệng gọi to:

- Cô nương! Cô nương! Tôi tìm thấy rồi!

Thế nhưng A Tử đã đi thật xa. Du Thản Chi lội nước đi qua, lần theo

vết cháy khô. Chỉ thấy đường sém đó chạy thẳng đến một thung lũng ở

phía trước. Y ráng sức đuổi tới mãi tận cuối thì ra là một tòa cổ miếu kiến

trúc hùng vĩ, rảo bước đến gần thấy biển ngạch trên đề năm chữ Sắc

Kiến Mẫn Trung Tự thật lớn. Du Thản Chi không có thì giờ đâu mà xem

xét miếu này ra thế nào, chỉ tiếp tục đi theo đường ngấn cháy. Vết cháy

sém đó vòng quanh một bên miếu, chạy ra phía sau. Chỉ nghe thấy tiếng

chuông, tiếng mõ, tiếng tụng kinh ở trong chùa vang lên từng chập, tiếng

này dứt tiếng kia nổi lên, quần tăng chính đang vào giờ công khóa.

Y đầu đội lồng sắt, tự xấu hổ mình hình dạng không ra gì, sợ người

trong chùa nhìn thấy, nên chỉ men theo tường mà lần đi, thấy vết cháy

vượt qua một khu đất lầy lội, chạy vào một vườn rau.

Y trong lòng thật vui mừng, chắc mẩm hẳn không có người, chỉ có

con tằm ăn rau mà thôi thì thể nào cũng bắt được nó. Y đi đến bên hàng

rào nghe văng vẳng bên trong vườn rau ai đó đang lớn tiếng chửi mắng

vội vàng đứng lại. Chỉ nghe người kia nói:

- Ngươi cớ sao không biết giữ qui củ, một mình dám đi ra ngoài

chơi khiến cho ông phải lo lắng cả buổi, chỉ sợ mày đi mất không quay

về. Ông đường sá xa xăm mang mày từ đỉnh núi Côn Lôn tới đây, vậy mà

mày chẳng biết phải quấy, không hiểu được rằng lão tử chăm lo cho mày

biết là dường nào. Cứ cái ngữ này, đời mày còn ra thế nào nữa, mai sau

chắc chẳng làm nên trò trống gì, không ai thương đâu con ạ!

Ngữ khí người kia đầy vẻ phẫn nộ nhưng lại có ẩn chút lòng thương

xót kỳ vọng, tưởng chừng như lời của phụ huynh dạy dỗ con cái. Du Thản

Chi nghĩ thầm: Y nói gì mà từ đỉnh núi Côn Lôn xa xôi diệu vợi đem

đến đây, xem chừng chắc là sư phụ hay trưởng bối chứ không phải phụ

thân. Y rón rén đến sát bờ giậu, thấy người đang nói kia là một nhà sư.

Nhà sư đó thật là mập mạp, thân hình lại lùn xủn, trông chẳng khác gì

một trái cầu thịt thật lớn, tay chỉ xuống đất, mồm thì rủa sả liên hồi. Du

Thản Chi theo tay y nhìn xuống, vừa mừng vừa lo, hòa thượng mập kia

đang mắng chửi chính là một con sâu lớn sáng lấp lánh.

Hình dáng nhà sư lùn mập kia kỳ dị thì đã đành nhưng cái lối chửi sa

sả con tằm kia lại còn lạ lùng hơn. Con sâu chạy loăng quăng dưới đất

cực kỳ nhanh nhẹn, tưởng chừng như toan đào tẩu. Có điều dường như nó

chạm phải một bức tường vô hình nào đó nên lại quay đầu qua hướng

khác. Du Thản Chi cố gắng nhìn kỹ hơn, thấy dưới đất có vẽ một cái

vòng màu vàng, con tằm tả xung hữu đột nhưng vẫn không sao qua khỏi

được cái vòng đó, lập tức hiểu ra: Cái vòng đó dùng một loại thuốc vẽ

thành, dược vật hẳn là khắc tinh của con sâu.

Gã hòa thượng lùn mập chửi một hồi xong, lôi trong bọc ra một vật

gì đó, đưa lên miệng ăn nhồm nhoàm, hóa ra một cái đầu dê đã luộc chín,

xem chừng ngon lành lắm. Y lại lấy từ trên cột xuống một cái hồ lô, mở

nắp ra, ngửa cổ lên, ọc ọc uống một mạch. Du Thản Chi ngửi thấy tửu

hương, biết là quả bầu đó đựng đầy rượu nghĩ thầm: Hóa ra đây là một

nhà sư hổ mang. Xem ra con tằm này là của y nuôi, được y cưng chiều

lắm lắm. Làm cách nào ăn trộm được đây?.

Còn đang nghĩ ngợi bỗng nghe từ phía bên kia vườn rau có tiếng

người gọi:

- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!

Gã sư lùn mập nghe thế giật mình hoảng hốt, vội vàng đem cái đầu

dê và bầu rượu dấu vào trong bụi cỏ. Lại nghe người kia giục giã:

- Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Sao ngươi không tụng kinh chiều, trốn ở đây

làm gì?

Nhà sư lùn mập vội vàng vớ ngay cái cuốc dưới chân, bổ hùng hục

lên luống rau đáp:

- Đệ tử ở đây đang cuốc rau.

Người đi đến là một hòa thượng trung niên, khinh khỉnh nói:

- Kinh sớm kinh chiều, ai ai cũng phải dự. Sao lúc khác không

trồng rau, đến lúc đọc kinh chiều thì lại giở giói ra cuốc đất? Mau lên!

Mau lên! Bao giờ tụng kinh chiều xong, trở lại cuốc cũng vừa. Ở chùa

Mẫn Trung chấp tác thì phải theo qui củ của chùa Mẫn Trung, không lẽ

chùa Thiếu Lâm nhà ngươi không có miếu qui gia pháp gì hay sao?

Nhà sư lùn mập tên Tuệ Tịnh vội đáp:

- Vâng!

Y bỏ cuốc xuống, lật đật đi theo, không dám quay đầu lại nhìn con

tằm, xem chừng sợ nhà sư trung niên phát giác. Du Thản Chi nghĩ thầm:

Gã sư lùn mập này vốn ở chùa Thiếu Lâm. Sư chùa Thiếu Lâm ai ai

cũng biết võ công, mình ăn cắp con tằm của hắn thì phải thật cẩn thận

mới được!.

Y đợi cho hai người đi xa, nghe ngóng chung quanh không có gì, vội

vàng chui qua hàng rào, thấy con tằm vẫn chạy loanh quanh trong cái

vòng màu vàng, tự hỏi: Làm sao bắt được nó đây?. Y suy nghĩ một hồi

tìm ra một cách, lấy trong bụi cỏ cái bầu rượu ra, lắc lắc thử mấy cái, còn

chừng nửa bình bèn uống luôn mấy ngụm, còn bao nhiêu đổ vào luống

rau, đưa cái miệng hồ lô đến gần cái vòng màu vàng. Miệng bầu rượu

vừa lọt vào trong vòng tròn, chỉ nghe tách một tiếng, con tằm đã chui tọt

vào trong hồ lô. Du Thản Chi mừng quá, vội vàng lấy cái nắp gỗ đóng

chặt lại, hai tay bưng bầu rượu, chui qua hàng rào, ba chân bốn cẳng chạy

về đường cũ.

Ra khỏi chùa Mẫn Trung chừng vài chục trượng bỗng thấy chiếc hồ

lô lạnh một cách khác thường, xem ra còn hơn cả một khối băng, Du

Thản Chi đưa cái bầu rượu từ tay trái sang tay phải, rồi lại từ tay phải đưa

qua tay trái nhưng vẫn lạnh thấu xương không sao chịu nổi. Y không còn

cách gì khác hơn bèn để hồ lô đội lên đầu nhưng lại càng khó chịu, khí

lạnh truyền qua chiếc lồng sắt chui vào trong óc khiến y chịu không nổi,

tưởng như huyết dịch toàn thân đã đóng thành băng. Tình cấp trí sinh, y

liền cởi dây lưng buộc vào chỗ thắt trên hồ lô xách trên tay. Dây lưng

không truyền hơi lạnh nên y cầm được, thế nhưng khí lạnh từ trong cái

bầu tỏa ra, chỉ trong giây lát bên ngoài hồ lô đã bao phủ một tầng sương

mỏng.

1 Khổng tử nói: Học rồi được thực hành, chẳng vui sướng lắm sao? (Luận Ngữ)

2 tickling

3 gọi một tiếng trăm người dạ

4 thị tử như qui

5 quần áo của người quyền quí đời xưa (Xem thêm, phần y phục của Nguyễn Duy Chính)

6 tức Yoga

7 python (con trăn)