Tuyết đã biến thành mưa. Trời đã ấm lên và các bông tuyết trở nặng vì hơi nước, không còn lơ lửng mà rơi thẳng xuống. Lớp tuyết trên mặt đất cũng đã thay đổi: từ nhẹ và xốp như chăn bông, bây giờ nhão nhoẹt. Từng dúm tuyết mang nặng hơi nước trượt dài trên mái nhà đối diện với cửa sổ của Donald, rồi rơi xuống đất với một âm thanh nặng nề. Các mái nhà dần dần lộ ra những mầu sắc mờ đục - màu đỏ của gỉ sắt, màu xanh của kim loại. Nước liên tục nhỏ giọt từ các mái hiên. Người ta không thể trốn lánh khỏi các âm thanh; nhẹ nhàng nhưng không dứt, cũng như không thể trốn lánh khỏi lương tâm.
Donald nhìn thấy ông Parker, người bản địa, bên kia khoảnh sân. Ông ta có vẻ như đang thu dọn đồ đạc, sẵn sàng để ra đi. Trong thâm tâm Donald biết rõ mình nên đi với Parker và người phụ nữ. Để đảm bảo là không có cái gì hết trong câu chuyện này. Anh không rõ đấy có phải do lòng quả cảm hay không; ý nghĩ phải đi qua vùng bình nguyên kinh khiếp làm cho anh thấy hãi hùng. Mặt khác, nếu anh dẫn anh con trai kia về như là nghi phạm và rồi kết quả là anh nhầm lẫn, thì anh sẽ bị khiển trách, lên án, và bị xầm xì to nhỏ trong các phòng chè chén. Cái tội bỏ bê nhiệm vụ là không ổn cho sự nghiệp của anh. Khi đến lúc phải chọn lựa giữa vùng hoang dã và nỗi nhục nhã trong nghề nghiệp thì anh biết đằng nào đáng sợ hơn.
Parker nói với anh là đi từ đây đến thương điếm kia mất không đến sáu ngày đường - nếu thời tiết cho phép. Donald nghĩ đây là cơ hội để mình quen biết thêm quản trị viên ở đó - có lẽ là một người giúp cho anh thăng tiến. Anh bảo Jacob phải ở lại để canh giữ anh con trai. Trong lúc này, tù nhân sẽ được an toàn ở đây.
Jacob trông có vẻ rất nghiêm trọng: “Tôi xin lỗi, nhưng để cho tôi đi với họ thì hay hơn. Cuộc hành trình sẽ khó khăn. Tôi biết phải tìm kiếm cái gì.”
Donald không muốn gì khác hơn là ở lại Himmelvanger trong khi Jacob lặn lội qua bùn nhão và tuyết để đi đến nơi chốn khốn khổ kia, nhưng như vậy là không ổn chút nào.
“Jacob à, cám ơn anh, nhưng tôi phải đi và quyết định phải làm gì. Và phải có người ở lại đây.” Anh mỉm cười với Jacob, và anh này nhìn lại với dáng vẻ nghiêm trọng.
“Nếu tôi đi với anh thì tốt hơn. Tôi có thể... chăm sóc cho anh.”
Donald mỉm cười, cảm động và lòng trung kiên của Jacob. Cũng vì cách anh này ra vẻ như xem anh như là một đứa trẻ không tự lo cho mình được.
“Không cần đâu. Dù sao thì Parker vẫn phải trở về đây, để đưa Bà Ross về nhà. Cũng là điều thú vị khi đi xem một thương điếm khác của Công ty.”
Anh cố giữ thái độ vui vẻ hơn là anh nghĩ trong đầu. Anh vẫn lo lắng, có phần kinh sợ, về viễn cảnh của vùng hoang dã lạnh lẽo phía trước.
Jacob có vẻ suy tư, như thể dằn vặt với chính mình: “Nhưng anh biết không... tôi có một giấc mơ. Anh có thể nghĩ đó là ngớ ngẩn, nhưng nghe này: tôi mơ thấy anh tự đi một mình. Có mối hiểm nguy. Tôi nghĩ tôi phải đi với anh.”
Donald cố trấn áp cơn dao động trong lòng, và cất tiếng cao hơn, để xua tan ý nghĩ dị đoan trong Jacob và trong anh. Chuyện lố bịch của người bản địa - anh đã không nghĩ Jacob lại làm mồi cho những huyễn tưởng đó.
“Tôi không lấy làm lạ anh đã mộng mị vì thứ phó mát từ sữa dê chết tiệt ăn ở đây: đủ cho bất kỳ ai cũng thấy ác mộng!”
Jacob không cười theo anh. Anh này biết mình đã bị quở trách.
“Quan trọng là cần để mắt đến anh con trai. Anh ta có thể... nói ra điều gì đó quan trọng. Anh phải cố tỏ ra thân thiết với nó.”
Jacob lộ vẻ nghi ngại, nhưng vẫn gật đầu.
“Nhờ anh đi bảo Ông Parker là tôi sẽ đi theo họ, nhé!”
Sau khi Jacob đã đi, bỗng dưng Donald có sự thôi thúc kêu với theo, để nói lên lòng biết ơn tha thiết đội với mối quan ngại - cho dù sai lạc - và tình bạn. Ở đây, Jacob là người duy nhất quan tâm đến bất cứ chuyện gì xảy đến cho anh. Rồi anh không muốn cất tiếng; anh đã là người đàn ông trưởng thành. Anh không muốn có một gia nhân người bản địa để chăm sóc mình, ngay cả người ấy là Jacob.
Donald hồi tưởng lại những thay đổi diễn ra trong mối quan hệ giữa hai người. Sau chuyến đi đến Sông Dove và hậu quả rùng rợn, đã nảy ra tình thân thiết mà đáng lẽ anh phải lấy làm trân quý hơn là mình nhận ra được, bởi lẽ bây giờ anh cảm thấy tiếc. Donald cho rằng như thế là vì bây giờ anh là sếp, trong khi lúc trước Mackinley chỉ khinh rẻ cả hai người, và cả hai (hoặc ít nhất là Donald) khinh rẻ lại ông ta theo cách tế nhị hơn. Bây giờ anh nhìn Mackinley qua một lăng kính khác, với sự thông hiểu tốt hơn về những điều phức tạp trong việc chỉ huy. Cha anh luôn nói với anh rằng cuộc đời không phải là chuyến đi chơi dã ngoại, tức là chẳng có gì để vui thú hết. Lúc còn nhỏ, anh thường nghĩ đó là ý nghĩ lạ kỳ, quá đáng, nhưng bây giờ lời lẽ của ông là đúng lý. Muốn trưởng thành thì phải đón nhận những thử thách vô định chực chờ, phải tránh né tình bạn để đổi lấy trách nhiệm. Đôi lúc bạn phải từ chối tình thương mến để được tôn trọng. Và có một điều nào khác xảy đến với anh: điều nào đó cùng hòa điệu với ý nghĩ của anh về Susannah. Vì chỉ khi được tôn trọng thì người đàn ông mới có thể nhận được tình yêu, bởi vì đối với một phụ nữ, tình yêu phải có yếu tố kính trọng.
Anh xem qua những lá thư của mình: anh nghĩ đó là những lá thư tình, tuy không chứa đựng bản chất tình cảm gì nhiều. Rõ ràng là thế, tuy là một ngày nào đó, ai biết được... Có bốn lá thư, được xếp lại thẳng thắn, đã ghi địa chỉ người nhận, mà anh sẽ trao cho Per để gửi đi Sông Dove khi thời tiết cho phép. Anh lấy làm vui về các lá thư này, mà anh đã chép lại trong phòng mình, thêm thắt với câu từ lạc điệu của thứ triết lý nhùng nhằng khiến cho anh phải mất cả hai buổi tối, không dám uống rượu. Anh hình dung ra Susannah đọc các lá thư rồi cho vào chiếc túi, hoặc gói trong một chiếc khăn tay ướp nước hoa (chiếc khăn anh đã tặng cho cô?) để trong ngăn kéo.
Với một đợt tình cảm dâng trào, anh cố mường tượng khuôn mặt cô đúng vào lúc cô mỉm cười với anh trong phòng đọc sách, nhưng lại kinh hoàng mà thấy rằng không thể gắn chặt hình ảnh cô trong tâm trí mình. Anh có ấn tượng lãng đãng về nụ cười của cô, mái tóc nâu mềm dịu của cô, làn da trắng, đôi mắt màu hạt dẻ, nhưng các hình ảnh cứ xao động và mờ nhạt, không hòa nhập nhau thành một hình người trọn vẹn. Không hiểu sao mà anh có thể nhớ lại khuôn mặt của cô chị Maria, và của người cha, đều sắc nét tuyệt đối trong không gian ba chiều, nhưng hình bóng của Susannah thì cứ vượt khỏi tầm với của anh.
Anh ngồi viết ít dòng cho cô để kể cho cô về chuyến đi sắp tới của mình. Anh bị giằng co giữa ý tưởng một bên là làm cho chuyến đi nghe như nguy hiểm và can trường, và bên kia là không muốn cô lo lắng quá đáng nếu cô đọc lá thư trước khi anh quay về. Cuối cùng, anh viết với ngôn từ nhẹ nhàng, nói có lẽ mình sẽ trở về Caulfield trong khoảng ba tuần, và đó sẽ là cơ hội tốt để làm đại diện cho Công ty và gặp gỡ một quản trị viên khác, trong khi tâm tư anh sẽ thanh thản về việc Francis có tội hay không. Anh gửi cô những lời chúc tốt đẹp nhất, và rồi thêm đoạn cuối khiến cho anh hơi ngạc nhiên với chính mình, anh gửi lời hỏi thăm nồng nàn đến chị cô. Trong một lúc, anh đăm đăm nhìn vào tờ giấy, tự hỏi như thế là kỳ quặc hay không, nhưng anh không có thời giờ chép lại cả lá thư, nên anh cho vào phong bì, dán lại rồi đặt chung với các lá thư kia.
༺༒༻
Bây giờ là mười giờ tối thứ Năm, ba tuần từ khi phát hiện thi thể của Laurent Jammet. Maria đăm đăm nhìn qua khung cửa sổ của phòng đọc sách, tuy rằng không có gì để nhìn. Cô có thể nhận ra những luồng mưa đâm xuống bãi bùn nơi đáng lẽ là khu vườn hoa cảnh, nhưng bây giờ trông như chuồng bò. Phía xa hơn, chỉ có bóng tối xáo động, nơi các làn nước thỉnh thoảng bị thổi dạt hướng này hướng nọ, bắt lấy ánh sáng không ai biết chiếu đến từ đâu.
Bên trong ngôi nhà, quang cảnh không khá hơn bao nhiêu. Sau mấy sự kiện diễn ra vào buổi chiều, Bà Knox nằm thiêm thiếp trên giường do ảnh hưởng của loại thuốc gì đó mà Bác sĩ Gray cho bà dùng một tiếng đồng hồ trước. Bà không tỏ vẻ đau khổ nhiều như Maria đã nghĩ, nhưng vị bác sĩ đã có sức thuyết phục khi nói đến mối hiểm nguy của cơn sốc đến chậm, nên Maria khuyên bà phải nuốt loại thuốc nước đó. Susannah lộ vẻ đau đớn hơn, nhưng tính cách Susannah là thế - một cơn giông bão ập đến bất chợt rồi sau đó là trời quang mây tạnh. Tuy thế, tình hình vẫn còn nổi gió, cho dù ở dưới này Maria không nghe được gì cả. Ngôi nhà yên ắng như là tang tóc.
Sau khi tranh cãi diễn ra - rất nhiều tranh cãi, khi các bậc trưởng thượng trong thị trấn không đạt đồng thuận chưa hề có tiền lệ, cha cô bị bắt giam vì tội làm sai lạc quy trình của công lý. Bởi vì, dù sao chăng nữa ông là quan tòa được giả định của cộng đồng này chứ không phải người mang hai dòng máu lại lôi thôi lếch thếch, nên ông không bị giam trong kho chứa hàng, mà người ta quyết định đưa ông vào nhà của John Scott. Có nghĩa là ông bị giam trong một căn phòng kế bên phòng của Ông Sturrock, và các bữa ăn được mang đến cho ông. Phòng ông rất giống phòng của Ông Sturrock và tiền phòng cũng ngang bằng, nhưng cha của Maria không phải trả tiền cho đặc ân được cư ngụ ở đây.
Cùng với Ông Mackinley và Archie Spence, lúc năm giờ rưỡi chiều nay John Scott đến gõ cửa nhà ông Knox. Maria ra mở cửa, đưa họ vào phòng khách rồi đi tìm cha cô. Trong hai mươi phút, họ đóng cửa lại trao đổi với nhau, rồi cha cô đi ra để giải thích rằng, trên thực tế, ông sẽ bị bắt giữ. Ông nở nụ cười nhẹ, như thể đang đùa cợt với một chuyện vui cười. Trong khi vợ ông giận dữ phản kháng và Susannah khóc rấm rứt, Maria chỉ đứng mà không thể nghĩ ra phải nói gì. Mẹ cô xông vào phòng khách mà la lối với những người ở đây. Họ ngồi há hốc miệng và sợ hãi mà nghe bà miệt thị. Rõ ràng John Scott đã dao động tinh thần trong kế hoạch bắt cha cô ngay tại nhà, nhưng Mackinley vẫn kiên quyết, mắt và môi ông ta lộ nét vui mừng. Cha cô chấm dứt cuộc tranh cãi bằng cách nói rằng ông sẽ ở lại dọc con đường, chỉ đến khi vị quan tòa từ St Pierre được mời đến để phân xử. Ông hỏi - mà không có vẻ châm biếm - rằng họ có quy định khoản tiền bảo lãnh cho ông được tại ngoại hay không. Hiển nhiên là mấy người kia đã quên khuấy việc này. John Scott mở miệng nhưng không thốt ra được lời nào. Mackinley đằng hắng rồi nói họ sẽ xem xét, qua hôm sau sẽ đưa ra con số. Vấn đề là họ thực sự cần phải hỏi cha cô cách tiến hành thủ tục như thế nào.
Cuối cùng, Knox chấm dứt vụ việc khi yêu cầu họ ra về; ông nói đã đến giờ dùng bữa tối, và họ đang làm cho đầu bếp phải chờ đợi. Dĩ nhiên là ông đang nói đến Mary trong bếp, nhưng nghe ra như thể ông trách móc những người đến bắt mình khiến cho ông ăn muộn. Mackinley đã nhíu mày, cho dù có vẻ như cha cô không nhận ra. Maria nghĩ ông tỏ thái độ xuề xòa: đấy giống như là ông thấy vui vì bị bắt, như là họ đã sa vào chiếc bẫy do ông giăng ra. Ba người phụ nữ nhìn theo người chồng và người cha của họ đưa những người kia ra khỏi nhà, sau khi đã hỏi họ muốn mượn dù hoặc giày ủng cao su hay không. Mackinley và những người kia từ chối, dù lúc này tuyết đang rơi dày, dù trong nhà vẫn có dư các thứ cho họ mượn.
༺༒༻
Sturrock lắng nghe những tiếng bước chân trên thang lầu. Ông đang nằm nghỉ trên giường, suy nghĩ về Bà Ross và về việc bà có đuổi kịp đứa con trai hay không, mà ông đinh ninh nó đã mang theo tấm thẻ bằng xương. Những sự kiện hỗn loạn trong mấy ngày vừa qua khiến cho ông nghĩ mình không nên lưu lại đây lâu hơn nữa. Bây giờ tuyết đã tan, có lẽ đã đến lúc ông nên trốn thoát. Nhưng dù có đi đâu thì ông lại rời xa hơn khỏi tấm thẻ mà ông khát khao, và chắc chắn họ sẽ dẫn anh con trai trở về đây khi tìm ra nó. Ông thở dài; chai whisky làm bạn với ông mấy ngày qua đã gần cạn. Đó là câu chuyện đời ông: tiến gần bất kỳ cái gì có giá trị trường cửu nhưng vẫn còn xa mục tiêu đạt được, hoặc không còn rượu để uống.
Đến đây, ông ngồi dậy và hiểu ra tiếng động ấy là gì: có lẽ là một người láng giềng, ông mở cửa phòng và thấy ông Mackinley và John Scott, cùng với một người mà ông không quen biết.
Scott bước đến ông, sau khi đã đóng lại cánh cửa của căn phòng đối diện: “À, Ông Sturrock. Tôi định đến để báo cho ông...”
“Một láng giềng mới phải không?” Sturrock hỏi với một nụ cười, điều khả dĩ cho một cuộc trao đổi hay ho là lý do của sự lạc quan.
“Không hẳn.” Sturrock nhận ra ánh mắt khinh miệt mà Mackinley ném đến phía sau đầu Scott. “Không, chúng tôi lâm vào tình thế bối rối của, à... phải giam giữ quan tòa, Ông Knox... và vì chúng tôi không thể giam ông ấy ở kho chứa hàng, hà hà, có vẻ như ngôi nhà này cũng tốt như bất cứ nơi nào khác, trong lúc này.”
Scott ngưng lại, một ít mồ hôi lấm tấm trên trán, ông này trông như đang khá căng thẳng, mặt đỏ hơn bao giờ hết.
Mackinley nói: “Ông Sturrock à, tôi mong chuyện này sẽ không làm phiền ông.”
Sturrock hỏi, hầu như vui vẻ: “Ý ông nói là ông giam Knox trong phòng kia phải không? Ông ấy đã làm cái quái gì vậy?”
Hai người nhìn nhau, như thể băn khoăn Sturrock có quyền biết thông tin này không.
“Hóa ra việc tù nhân trốn thoát không phải là tai nạn. Knox phóng thích ông ta, vì thế ngăn chặn guồng máy của công lý.”
Sturrock nhận ra cặp lông mày của mình vẫn đang cố vươn cao trên vầng trán: “Trời đất, ông ấy điên hay sao?”
Thình lình ông nghĩ ra rằng Knox đang lắng nghe từng lời - vì ông này không có chuyện gì khác để làm. “Ý tôi nói, đấy là một chuyện khác thường.”
“Khác thường, đúng vậy.”
Mackinley quay mặt đi, và Sturrock cảm thấy có ác cảm.
“À... à.”
“Đúng vậy.”
Scott nói với giọng trò chuyện bình thường: “Ông Sturrock à, bữa ăn tối sắp sẵn sàng.”
“À, cảm ơn. Cảm ơn.”
Mackinley ra dấu cho những người kia đi xuống thang lầu, để lại Sturrock nhìn trân trối cánh cửa đã bị khóa. Khi tiếng bước chân nhỏ dần, ông thì thầm kêu: “Ông Knox? Ông Knox?”
“Ông Sturrock, tôi nghe ông.”
“Đúng vậy không?”
“Đúng vậy.”
“À... ông ổn chứ?”
“Khá thoải mái, cảm ơn ông. Bây giờ tôi đi nghỉ đây.”
“À, chúc ngủ ngon. Cứ kêu tôi nếu ông... à, nếu ông muốn nói chuyện với ai đó.”
Không có tiếng đáp trả nào thêm. Sturrock tự hỏi liệu nguồn thu nhập của mình đã cạn hay chưa.
Maria Knox bước vào khi Sturrock đang ngồi bên bếp lò ở tầng dưới vốn được dùng làm quầy rượu vào ban đêm. Mưa rơi nặng hạt đã vài tiếng đồng hồ; không còn tuyết trên đường, và cư dân của Caulfield đi trên bùn ngập đến mắt cá chân. Đêm đã khuya - ông không biết chính xác bây giờ là mấy giờ, nhưng đoán cô đến để gặp cha cô. Tuy nhiên, cô bước thẳng đến ông. Ông biết cô là ai tuy hai người chưa từng nói chuyện với nhau.
“Ông Sturrock phải không? Tôi là Maria Knox.”
Ông cúi đầu chào một cách trịnh trọng vì tôn trọng hoàn cảnh của cô. Vẻ trịnh trọng càng được nâng cao nhờ khoảng năm ly whisky ông đã uống, và nhờ những hồi ức ông đắm chìm vào trong một tiếng đồng hồ vừa qua.
“Tôi biết đã khuya, nhưng tôi mong được nói chuyện với ông.”
“Nói chuyện với tôi?” Ông lại cúi đầu - thật sự là thế, ông hẳn đã khá say - tuy ông vẫn ra vẻ nịnh đầm: “Đây là vinh hạnh mà tôi không đáng có.”
Mặc dù không có ai chung quanh nghe lỏm, cô nói với giọng nhỏ nhẹ: “Không cần phải tâng bốc. Tôi muốn nói chuyện với một người nào đó... à, ông không phải là người trong chúng tôi, và dường như cả thị trấn đã nổi điên rồi.”
“Ý cô muốn nói... tình trạng khó khăn của cha cô.”
Cô nhìn ông, xem dường vừa bực tức vừa tính toán: “Tôi không biết mình đang làm gì ở đây. Tôi nghĩ đó là vì Ông Moody, nhân viên Công ty, đã nói về ông, và xem dường đã có ấn tượng tốt, mặc cho... mọi chuyện khác. Có trời mà biết tôi mong gì...”
Rượu làm cho ông chậm suy nghĩ. Rồi ông nhận ra rằng cô suýt bật khóc, và nỗi bực tức là với chính cô.
“Tôi không biết nói chuyện được với ai khác. Tôi đang lo lắng, thật sự lo lắng. Ông Sturrock à, ông là người có kinh nghiệm, ông sẽ làm gì trong hoàn cảnh của tôi?”
“Về việc cha cô phải không? Cô có thể làm việc gì khác được ngoài sự chờ đợi? Tôi biết họ sẽ mời vị quan tòa ở St. Pierre vào sáng mai, hoặc khi đường đi được.”
“Ông nghĩ đường lúc này không đi được sao?”
“Trong thời tiết như thế này à? Tôi không tin là đi được.”
“Tôi đang nghĩ tôi sẽ đi tối nay, để tới đó trước. Không biết được họ sẽ nói những gì về cha tôi.”
“Cô gái thân yêu… chắc cô không có ý đó. Cố đi tối nay, trong cơn mưa này... là điên khùng. Cha cô sẽ kinh hãi. Đó sẽ là điều tồi tệ nhất mà cô gây ra cho ông ấy.”
“Ông nghĩ vậy sao? Có lẽ ông đúng. Dù sao đi nữa, sự thực là tôi quá nhát gan nên không dám đi một mình. Ôi, Trời!” Cô giấu mặt trong lòng bàn tay dù chỉ trong một giây. Cô không rơi lệ. Sturrock cảm thấy ngưỡng mộ cô, rồi kêu một ly rượu cho ông, và một ly cho cô.
“Ông biết Monsieur Jammet, phải không? Ông nghĩ chuyện gì xảy ra với anh ấy?”
“Tôi không quen thân với anh ấy. Nhưng anh ấy là người có nhiều bí mật, và người có nhiều bí mật thì hẳn có nhiều kẻ thù hơn là người không có.”
“Ông đang nói cái quái gì vậy?”
“A-hem, chỉ là… à, tôi đến Caulfield - và tôi vẫn còn ở đây - bởi vì tôi muốn mua một vật mà Jammet sở hữu. Anh ấy biết việc này. Chỉ có điều vật này đã biến mất.”
“Bị mất cắp hả?”
“Có thể là vậy. Có lẽ bị Francis Ross lấy cắp. Vì thế tôi chờ cho anh ấy trở về.”
“Thế thì ông có nghĩ Francis giết anh ấy không?”
“Tôi không quen biết gì với anh ấy hết. Nên tôi không nói được.”
“Tôi đã... ý tôi nói là, tôi nghĩ.”
“Cô nghĩ gì?”
Maria lưỡng lự, nhìn vào ly rượu của cô - và ngạc nhiên thấy ly đã cạn: “Làm thế nào ông biết người ta làm được những gì? Trong quá khứ tôi đã từng nghĩ mình giỏi phán xét người khác, nhưng bây giờ mới thấy là sai.”
༺༒༻
Vào buổi sáng, khi ba người kia chuẩn bị ra đi, Jacob bước vào đứng bên cạnh giường. Anh nói với Francis nhưng nhìn lên trần nhà: “Tôi nghĩ anh sẽ không đi đâu, nhưng nếu anh đi thì tôi sẽ dò tìm theo anh và đánh gãy cái chân kia. Anh hiểu không?”
Francis gật đầu, nghĩ đến vết thương do dao đâm mà Donald chỉ cho anh xem.
“Vì thế tôi không cần phải ngồi đây suốt ngày.”
Francis lắc đầu.
Vì thế, anh ngạc nhiên khi Jacob trở lại. Jacob đã tìm được một thanh gỗ trong nhà kho; thanh gỗ thẳng và chắc - thân của một cây duyên mộc nhỏ, có chiều dài vừa đủ. Anh bóc lớp vỏ thân cây, gọt đẽo mọi chỗ lồi, rồi mài nhẵn phần chĩa nhánh phía trên để làm thành hình chữ Y. Francis ngắm nhìn đôi tay anh với lòng ngưỡng mộ bất đắc dĩ; quả là kỳ lạ khi thấy thân cây có chất lượng của một cây nạng.
Jacob dùng mảnh chăn cũ để quấn lấy chung quanh phần phía trên: “Đáng lẽ tôi phải dùng da, nếu không phần này sẽ ngấm nước.”
“Ý anh nói là trong khi tôi chạy trốn.”
Ban đầu, khi Francis nói những điều thiếu suy nghĩ hoặc ngu xuẩn mà không màng anh kia nghĩ gì về mình, thì Jacob không rõ anh nói đùa hay không, mà chỉ liếc nhìn với vẻ nghi ngờ. Nhưng bây giờ, Jacob mỉm cười. Francis nghĩ anh này không lớn tuổi hơn mình bao nhiêu.
Francis nghĩ cả hai người sẽ được nhẹ nhõm vì cái anh Moody hay căng thẳng và lo âu sẽ ra đi. Và chính anh càng được nhẹ nhõm thêm, tuy anh thấy mình có lỗi khi nhìn nhận, vì bà mẹ cũng đi. Mỗi khi bà ngồi trong phòng là có sức nặng của ngôn từ không nói ra giữa hai người khiến cho anh thấy khó thở. Nói ra hết mọi điều thì sẽ mất nhiều năm.
Trước khi ra đi, mẹ anh bước vào phòng anh và nhìn qua Jacob; anh này đứng dậy đi ra ngoài mà không nói một lời.
Bà ngồi bên giường anh, khoanh hai tay lại: “Đoàn của mẹ sẽ ra đi. Đoàn của mẹ sẽ đi theo dấu vết mà con đã đi theo - Ông Parker biết nó dẫn đến đâu. Tiếc là con không đi được, phòng khi tìm ra người ấy, nhưng... ít nhất đoàn có thể tìm ra.”
Francis gật đầu. Nét mặt của bà trông nghiêm nghị và quyết đoán nhưng lộ vẻ mệt mỏi; những đường hằn chung quanh mắt bà càng sâu hơn bao giờ. Lòng anh dâng lên niềm biết ơn đối với bà, vì đang làm thay anh việc anh định làm trong khi bà rất sợ vùng hoang dã.
“Cảm ơn mẹ. Mẹ phải can đảm lắm mới làm được việc này.”
Bà xoắn lấy đôi vai anh, như thể vì bực mình. Nhưng bà không bực; bà vui. Bà vuốt má anh, các ngón tay chạy vòng quanh cằm anh. Một người nào khác đôi lúc đã có cử chỉ rất giống như thế. Francis cố không nghĩ về điều này.
“Đừng có ngốc. Mẹ sẽ đi với Parker và Moody; không có gì phải can đảm.”
Hai mẹ con cùng nở nụ cười ngượng ngập, hiu hắt. Francis cố kiềm chế nỗi khát khao kể cho bà nghe sự thật. Nói ra với ai đó sẽ được nhẹ nhàng, để trút đi gánh nặng. Nhưng ngay cả trong thời khắc anh cho phép mình tưởng tượng, anh biết mình không thể nói được gì.
Rồi bà nói, khiến cho anh ngạc nhiên: “Con biết mẹ thương con, phải không?”
Francis cảm thấy lúng túng. Anh gật đầu, lẩn tránh ánh mắt bà, vì lý do nào không rõ.
“Cha con cũng thương con.”
Francis nghĩ: “Không, ông ấy không thương con; mẹ không biết ông ấy ghét con như thế nào.” Nhưng anh không nói gì.
“Có chuyện gì khác con có thể nói với mẹ không?”
Francis thở dài. Quả là có nhiều chuyện bà không biết.
“Ông Moody nghĩ tấm thẻ bằng xương có thể là quan trọng. Nếu nó có giá, nó có thể là... nguyên do. Con muốn mẹ giữ nó không?”
Francis không muốn rời xa nó, nhưng không thể nghĩ đến lý do chính đáng nào để từ chối, nên anh trao cho bà chiếc túi da với tấm thẻ đựng bên trong. Bà lấy tấm thẻ ra, ngắm nghía. Bà đã đọc nhiều và biết nhiều, nhưng bà nhìn chăm chăm các dấu hiệu nhỏ có góc cạnh, nhíu mày tỏ vẻ không hiểu.
Anh ấp úng: “Mẹ cẩn thận với nó.”
Bà nhìn anh: bà là người luôn cẩn thận với mọi vật.
༺༒༻
Mùa hè năm rồi, trước khi trường học nghỉ hè, khá sớm để các cậu con trai phụ giúp cha đang thiếu người giúp việc, một chuyện không có tiền lệ đã xảy đến với anh. Không hề suy nghĩ nhiều về những chuyện như thế này, cũng như mọi cậu bé trong vòng bán kính mười dặm, Francis đã phải lòng Susannah Knox.
Cô học trên anh một lớp và chắc chắn là hoa khôi trong năm học ấy; người thanh mảnh, vui vẻ, với vẻ mặt duyên dáng. Hàng đêm anh mơ tưởng đến Susannah, và ban ngày hình dung mình và cô bên nhau - trong tình huống thay đổi mù mờ nhưng luôn lãng mạn, như chèo một con thuyền trên vịnh, hoặc anh chỉ cho cô xem những chỗ ẩn núp bí mật trong khu rừng. Khi nhìn cô đi qua lớp học hoặc cười đùa với đám bạn trên sân trường là đủ khiến cho toàn thân anh xúc động, da như bị kim châm, hơi thở ngừng lại, mặt nóng bừng bừng. Anh quay mặt đi, giả vờ không quan tâm, và vì anh không có bạn thân nên bí mật của anh được giữ kín. Anh biết rõ rằng mình không phải là người duy nhất lâm vào nỗi mê đắm này, và rằng cô có thể chọn một ứng viên lớn tuổi hơn và được yêu mến hơn so với anh, nhưng dường như cô không nghiêng về một ai cả. Có lẽ cũng không thành vấn đề nếu cô làm thế; không phải anh mong cô sẽ không làm thế. Anh chỉ muốn lồng ghép cô vào những giấc mơ của mình, thế là đủ.
Có một dịp - buổi đi chơi dã ngoại mùa hè hàng năm, diễn ra vào cuối học kỳ, khi cả trường kéo nhau đi xuống một bãi cát nhỏ bên bờ vịnh. Dưới đôi mắt biếng nhác của hai thầy giáo buồn chán, bọn học trò ăn bánh mỳ kẹp thịt, uống nước ướp gừng rồi bơi lội, la thét và té nước cho đến khi trời tối. Francis vẫn chán ghét những cuộc vui chơi bị thúc ép và đã định ở nhà, nhưng cuối cùng cũng đi bởi vì Susannah tham dự, và vì cô sắp rời trường học, anh không biết làm thế nào còn trông thấy lại hình bóng của cô vốn đã khơi dậy tình cảm nồng nàn trong anh.
Anh tìm một chỗ ngồi không xa nơi Susannah và một số cô gái lớp cuối trung học đang ngồi, nhưng rồi một phút sau Ida Pretty đi đến bên anh. Ida nhỏ hơn anh hai tuổi, láng giềng kế cận nhà anh. Trong gia đình đông người của cô, anh chỉ thích mỗi cô. Ida ăn nói sắc sảo và vui tính, nhưng có thể khiến cho anh khó chịu. Cô thích Francis và luôn muốn quấy rầy anh; đã theo dõi anh một cách cần mẫn (nhưng không kín đáo) như anh đã theo dõi Susannah.
Giờ đây cô ngồi với chiếc giỏ của mình và đôi mắt nhìn qua làn nước.
“Tôi đoán trời sẽ mưa. Hãy nhìn đám mây kia. Đáng lẽ họ phải chọn một ngày đẹp trời hơn, anh nghĩ sao?”
Giọng nói của cô nghe chừng chứa đầy hy vọng. Là người hay bất mãn và cô đơn như anh, cô chia sẻ với anh nỗi chán ngán đối với những sự kiện được cho là có tính cộng đồng và vui thú. Anh băn khoăn với câu hỏi liệu ngồi một mình u uất hoặc ngồi với một cô bé gây phiền hà thì đằng nào hay hơn. Nhưng trông cách Susannah thì thầm trò chuyện say sưa với đám bạn gái thì có lẽ dù anh làm gì Susannah vẫn chẳng để ý tới. Và còn có mấy đứa con trai ở lớp trên đang lượn lờ, ra vẻ đang lo chuyện của mình nhưng ở trong tầm nghe của các cô gái; hoặc đùa nghịch, reo hò, thi nhau ném đá xuống nước xem ai ném xa nhất.
Khi trời về chiều, các hoạt động lơi dần; đám học trò đã tiêu thụ xong bánh mỳ, đập ruồi nhặng, trút bỏ lớp quần áo ngoài. Nhóm của Susannah đã tách ra thành từng nhóm nhỏ hai hoặc ba người; cô đi dạo cùng với Marion Mackay. Francis ngả người, đầu tựa lên một phiến đá, chiếc nón che lấy đôi mắt. Ánh mặt trời xuyên qua lớp vải dệt, làm cho anh hoa mắt một cách dễ chịu. Ida đã chìm vào sự im lặng bực tức, đang đọc quyển Puddenhead Wilson[37].
Khi anh đang xoay đầu qua lại nhè nhẹ làm cho ánh mặt trời tuần tự chiếu vào mắt rồi biến mất, Ida hỏi: “Anh nghĩ gì về Susannah Knox?”
“Hả?”
Dĩ nhiên là anh đang nghĩ về Susannah. Bây giờ anh có mặc cảm phạm tội nên cố gạt cô ra khỏi đầu óc mình.
“Susannah Knox. Anh nghĩ gì về cô ấy?”
“Tôi nghĩ cô ấy trông được.”
“Mọi người trong trường đều nghĩ cô ấy hầu như là người đẹp nhất mà họ từng thấy.”
“Thật vậy sao?”
“Ừ, đúng vậy.”
Anh không biết Ida đang nhìn mình hay không. Tim anh đang đập thình thịch, nhưng giọng nói anh nghe chán chường: “Cô ấy khá đẹp.”
“Anh nghĩ vậy hả?”
“Tôi nghĩ vậy.”
Bắt đầu có chuyện gây khó chịu rồi đây. Anh kéo chiếc nón ra khỏi mặt mình, nheo mắt với Ida. Cô đang ngồi với hai đầu gối gập lên, hai bờ vai quanh hai tai. Khuôn mặt nhỏ nhắn của cô đang nhăn nhó dưới ánh nắng, trông đau khổ và tức giận.
Anh hỏi: “Tại sao?”
“Có quan trọng gì không?”
“Có quan trọng gì không hả? Là chuyện cô ấy đẹp hả?”
“Ừ.”
“Tôi không biết. Còn tùy.”
“Tùy ra sao?”
“Tùy vào người cô đang nói tới. Tôi đoán nó quan trọng đối với cô ấy. Ôi trời, Ida!”
Anh lại kéo chiếc nón lên mắt, và một lúc sau nghe tiếng cô đứng dậy rồi cáu kỉnh bước đi. Anh hẳn đã thiếp đi, bởi vì anh thức dậy khi cô lại ngồi xuống, có phần ngạc nhiên và tự hỏi anh đã đi đâu, và tại sao anh nóng thế. Chiếc nón đã tuột khỏi mặt anh, và anh thấy lóa mắt, những tia màu đỏ bắn lên trước mắt anh. Da mặt anh căng và mềm ra. Anh đang bị bỏng nắng.
“Tôi ngồi đây một lúc thì có làm phiền anh không?”
Giọng nói không phải của Ida. Francis ngồi dậy, và thấy Susannah Knox đang mỉm cười với mình. Cơn sốc lan xuống sống lưng anh như nước đá.
“Không. Không, không phiền gì hết.”
Anh nhìn quanh. Bãi cát vắng vẻ hơn lúc trước; đám con gái đã ngồi với cô giờ không thấy đâu.
“Tôi nghĩ mình đã ngủ thiếp đi.”
“Tôi xin lỗi đã làm anh thức giấc.”
“Không sao. Tốt thôi. Chắc là tôi sẽ bị bỏng nắng.”
Anh xoa nhẹ trán mình. Susannah nghiêng người về phía anh, săm soi nhìn anh từ khoảng cách có vẻ như rất gần. Anh có thể nhìn thấy từng sợi lông mi cong; lông măng li ti vàng hoe trên đôi má cô.
Cô nở một nụ cười làm mê đắm lòng người. Mặt trời lấp ló phía sau lưng cô, chiếu một vầng hào quang quanh đầu cô, mái tóc nâu biến thành những sợi vàng và bạch kim. Francis cảm thấy khó thở. Ít nhất, nếu bây giờ anh đỏ mặt thì cô vẫn không nhận ra.
Sau khi đã không nghĩ ra chuyện gì khôn ngoan hơn, cuối cùng anh gắng gượng nói: “Thế là, cô có thấy vui không?”
“Cái gì, ở đây hả? Tôi nghĩ tàm tạm. Một vài anh quấy rầy quá. Emlyn Pretty xô Matthew đang mặc đủ quần áo xuống nước rồi cười cợt cả giờ. Như thế là kém cỏi.”
“Vậy hả?”
Trong thâm tâm, Francis cảm thấy vui sướng. Trước đây anh đã gặp chuyện không may với Emlyn. May là không phải anh bị xô xuống nước.
Thế rồi, dù cố nghĩ ra, anh vẫn không biết nên nói chuyện gì khác. Anh nhìn ra làn nước một hồi lâu, cầu mong cho nguồn cảm hứng.
Xem chừng Susannah không bận tâm; cô đưa tay giật giật đuôi tóc, suy nghĩ mông lung, rồi nói: “Ida có phải là bạn gái anh không?”
Câu hỏi từ trên trời rơi xuống khiến cho Francis nghẹn họng vì kinh ngạc. Rồi anh cười to. Quả là một ý tưởng kỳ quặc. Một câu hỏi kỳ quặc.
“Không! Ý tôi nói, cô ấy chỉ là bạn thôi. Nhà cô ấy kế nhà tôi, cô biết mà. Phía thượng nguồn sông. Cô ấy nhỏ hơn tôi hai tuổi.”
“À... Anh ở kế gia đình Pretty hả?”
Cô hẳn phải biết, cũng như ai ai đều biết ai ở đâu. Hai tay cô càng bận rộn thêm trên mái tóc. Cô đang làm gì, anh không thể biết được; chắc hẳn là việc vớ vẩn đòi hỏi sự tập trung cao độ.
Cuối cùng, cô vắt lọn tóc qua một bên với cử động cả quyết, rồi lắc cái đầu cho tóc không vướng vào mặt: “Anh biết không, thứ Bảy tới chúng tôi sẽ đi picnic, chỉ vài người thôi, ở hồ ngâm mình[38]. Anh có thể đi cùng nếu thích. Chỉ có Maria, anh biết mà, chị tôi, Marion và Emma, có lẽ Joe…”
Cuối cùng cô nhìn anh, nhưng anh không đọc được ý nghĩa từ đôi mắt cô. Francis thấy cô như là một bóng đen che khuất mặt trời, những nét người cô nhạt nhòa và sáng lóe trông như một thiên thần Trường Chủ Nhật[39].
“Thứ Bảy hả? Hừm...” Anh không hiểu rõ việc gì đang diễn ra. Nhưng có vẻ như Susannah - người con gái Susannah Knox duy nhất - đã mời anh đi picnic; một buổi picnic có chọn lọc mà chỉ những người bạn thân cận nhất của cô mới được mời (và còn có Joe Bell, nhưng ai cũng biết anh ta hay quấn quít Emma Spence). Rồi thình lình anh nghĩ có lẽ đây là chuyện đùa cợt kinh khủng. Nếu cô mời anh dự một buổi picnic trong tưởng tượng thì sao? Nếu thứ Bảy anh đi mà không có ai ở đó, hoặc tệ hơn nữa, có một đám con trai năm cuối đang dòm ngó và cười nghiêng cười ngửa vì anh đã hồ đồ.
Nhưng có vẻ như cô không phải đùa cợt. Cô vẫn còn nhìn anh, và rồi cô thoát ra một tiếng cười ngắn, bồn chồn: “Trời đất ơi! Làm cho con gái phải chờ đợi hả?”
“Xin lỗi. Hừm... chỉ thế này, tôi phải bàn với cha tôi... trước, để xem ông cần tôi làm việc nhà hay không. Dù sao vẫn cảm ơn. Nghe tử tế.”
Tim anh đang đập mạnh vì kinh sợ. Anh đã thật sự nói thế hay không?
“À, được. Cho tôi biết nhé?” Với vẻ không dứt khoát, cô đứng dậy.
“Ừ, tôi sẽ báo. Cảm ơn.”
Lúc ấy, trông cô càng đẹp hơn bao giờ, vẻ mặt nghiêm túc và yêu kiều, mái tóc mềm mại xõa xuống. Cô mỉm nụ cười nhẹ rồi quay đi. Anh nghĩ cô có vẻ buồn. Anh ngả người ra và đặt chiếc nón lên đôi mắt, để anh có thể bí mật ngắm cô quay đi lại phần kia của bãi cát, nơi cô sẽ nhập bọn với vài học sinh năm cuối. Bỗng dưng anh có cảm giác kỳ diệu lan tỏa khắp người. Cô đã mời anh tham dự picnic. Cô, người mà trước đây chưa từng nói với anh hơn mười tiếng: cô đã mời anh dự picnic!
Francis nhìn mấy anh học trò nhỏ tuổi hơn mình, đứng sát nhau một cách nguy hiểm bên bờ nước, ném từng mẩu gỗ xuống cho nó lướt lên đập xuống mặt nước, bắn bọt trắng xóa. Tiếng gào thét nghe xa xôi đến kỳ lạ. Anh nghĩ đến ngày thứ Bảy tới. Từ lâu, cha anh đã bỏ ý định bắt anh phải giúp đỡ công việc trong ngày nghỉ cuối tuần. Anh nghĩ đến buổi picnic ở hồ ngâm mình bên con sông, nơi các cây sồi và liễu nhuộm lấm tấm mặt nước màu trà; và các cô gái trong trang phục mùa hè ngồi trò chuyện.
Và anh biết mình sẽ không tham dự.
[36] Lọ bẹt: loại lọ nhỏ, thường làm bằng thiếc, dẹp và hơi cong, có thể cho vào túi áo.
[37] Puddenhead Wilson: tựa một quyển truyện của nhà văn Mark Twain (1835-1910).
[38] Hồ ngâm mình: hồ nước nhỏ do một con suối mở rộng ra, thường không có đủ chiều dài hoặc chiều sâu để bơi lội, chỉ thích hợp để ngâm mình.
[39] Trường Chủ Nhật: loại hình trường học của giáo dân Cơ đốc và Do Thái giáo để truyền bá giáo lý cho trẻ em, thường mở vào ngày Chủ Nhật, chủ yếu qua những sinh hoạt tập thể, văn nghệ… “Thiên thần Trường Chủ Nhật” ở đây có ý nói thiên thần do trẻ em Trường Chủ Nhật thủ vai trong các vở kịch truyền bá giáo lý.