“Bây giờ cô không còn sợ tôi nữa chứ?”
Line đang nhìn qua khung cửa sổ. Anh nhận ra cô đang quanh quẩn bên mình.
Cô mỉm cười: “Không, dĩ nhiên là không. Tôi không hề tin có chuyện đó. Đúng ra, tôi nghĩ họ đều ngu ngốc.”
Cô nói ra với giọng điệu sôi nổi khiến cho anh cảm thấy sốc.
“Tôi đã nói vậy với cái anh người Scotland, nhưng anh ấy cho là mình đang làm nhiệm vụ. Anh ấy nghĩ tiền bạc là tất cả chứng cứ mà anh ấy cần. Tôi đoán họ sẽ mang tôi về và sẽ có phiên tòa. Vì thế, mọi việc không phải tùy vào anh ấy.”
Line đã thay xong tấm trải giường; anh lại nằm xuống. Cô nhận thấy các khuỷu chân và khuỷu tay của anh thật mảnh mai. Đang mảnh mai thêm. Trông anh thật non trẻ và thật chơ vơ đến nỗi máu cô sục sôi lên: “Nếu có thể được thì tôi sẽ rời khỏi nơi này. Tin tôi đi, sống ở đây cứ như là đã chết.”
“Tôi nghĩ cô đang có cuộc sống tốt đẹp ở đây, lánh xa tất cả cám dỗ và tội lỗi.”
“Không đúng như vậy.”
“Cô sẽ trở về Toronto không?”
“Không thể được. Tôi không có tiền. Chính vì lý do này mà tôi đã đến sống ở đây. Cuộc sống khó khăn đối với một phụ nữ đơn độc có con cái.”
“Nếu cô có tiền thì sao? Liệu cô trở về được không?”
Line nhún vai: “Không ích gì mà nghĩ đến chuyện này. Trừ khi chồng tôi thình lình trở về, với một gia sản bằng vàng. Nhưng anh ấy sẽ không về.” Cô mỉm cười với vẻ chua xót.
“Line...” Francis cầm lấy tay cô, khiến cho cô ngưng lại nụ cười. Anh có dáng vẻ nghiêm túc, làm cho tim cô đập mạnh. Khi đàn ông thể hiện dáng vẻ ấy trên khuôn mặt thì chỉ có một ý nghĩa.
“Line, tôi muốn cô nhận lấy số tiền này. Tôi không có việc gì phải cần tiêu tiền. Dù sao đi nữa thì Per sẽ không cho phép họ tịch thu, nên nếu cô nhận lấy thì cô có thể cất giấu, rồi ra đi vào lúc nào đó - có lẽ là vào mùa xuân.”
Line nhìn anh mà cảm thấy kinh ngạc lạ lùng: “Không, chắc anh không có ý... Đó là... không, tôi không thể…”
“Tôi nghiêm túc mà. Bây giờ cô nhận lấy đi. Nếu không thì chỉ uổng phí thôi. Đó là tiền của Laurent - tôi biết hẳn anh ấy cũng muốn cô nhận hơn là để cho những người kia lấy đi. Rồi nó sẽ đi về đâu? Có phần chắc là sẽ đi vào túi của họ.”
Tim cô đập nhanh lan đến cổ họng. Quả là một cơ may!
“Anh không biết anh đang nói gì.”
“Tôi biết chính xác mình đang nói gì. Cô không được hạnh phúc ở đây. Hãy dùng số tiền đó mà bắt đầu cuộc sống mới. Cô còn trẻ, còn đẹp, cô không nên giam mình ở đây với mấy ông đã có vợ... Cô phải được hạnh phúc.” Francis nói nhỏ dần.
Line nắm lấy bàn tay kia của anh: “Anh nghĩ tôi đẹp hay sao?”
Francis mỉm cười, có phần ngượng nghịu: “Dĩ nhiên. Ai cũng nghĩ vậy.”
“Đúng vậy sao?”
“Cô có thể nhận ra theo cách họ nhìn cô.”
Cô cảm nhận niềm vui sướng dâng trào, và vào lúc ấy cô cúi xuống đặt môi mình lên môi anh. Môi anh nồng ấm nhưng bất động, và dù đang nhắm mắt, lập tức cô biết mình đã sai lầm khủng khiếp. Có vẻ như đôi môi anh co lại vì kinh tởm, như thể bị một con ốc sên hoặc một con giun đất chạm phải. Cô mở mắt ra và thu người lại một chút, cảm thấy hoang mang. Anh đang nhìn đi hướng khác, khuôn mặt lộ vẻ kinh sợ.
Cô cố giãi bày: “Tôi...” Cô không thể hiểu được mình đã làm gì sai trái. “Tôi nghĩ anh đã nói tôi đẹp.”
“Cô đẹp. Nhưng tôi không có ý... Đó không phải là lý do tôi trao tiền cho cô. Tôi không có ý đó.”
Có vẻ như anh muốn tránh càng xa cô càng tốt đến mức tấm chăn cho phép.
“Ôi... Chúa tôi.” Line cảm thấy nóng bừng bừng và buồn nôn vì hổ thẹn. Làm thế nào chính cô có thể gây ra chuyện tồi tệ hơn thế nữa? Như thể sáng nay cô đã thức dậy và nghĩ về tất cả những việc thực sự điên rồ mình sẽ làm hôm nay, rồi bác bỏ việc bày tỏ cảm nghĩ của mình đối với Espen trong các buổi cầu nguyện sáng sớm, và chọc mũi kim vào cái mông tròn lẳn của Britta (hai việc chỉ mới có trong ý nghĩ), mà thay vào đó lại hôn một anh trai trẻ đã bị bắt giữ về tội giết người. Cô bắt đầu cười, và rồi cũng thình lình như thế, cô khóc.
“Tôi rất tiếc. Tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với mình. Bây giờ tôi không còn là chính mình nữa. Tôi cứ làm chuyện điên rồ.” Cô quay mặt đi.
“Line, cô đừng khóc. Tôi rất tiếc. Tôi mến cô, tôi thực sự mến. Và tôi thực sự nghĩ cô đẹp. Nhưng tôi không phải là... đó là lỗi của tôi. Đừng khóc.”
Line dùng tay áo lau đôi mắt và sống mũi, giống như bé Anna hay làm như thế. Một hoặc hay ý nghĩ vừa chớm trong đầu. Cô không muốn quay lại vì nếu anh vẫn còn lộ vẻ kinh tởm thì cô không chịu nổi.
“Anh đúng là tử tế. Tôi sẽ nhận món tiền, nếu anh thực sự có ý đó, bởi tôi nghĩ mình không thể sống ở đây. Tôi biết chắc như vậy.”
“Tốt. Cô nhận đi.”
Bây giờ cô mới quay lại. Francis đang ngồi dậy trên giường, đang cầm chiếc túi da. Cô nhận lấy cuộn giấy bạc và cố ngăn ước muốn đếm nó, bởi vì như thế là tỏ ra vô ơn. Tuy nhiên, dường như ít nhất là bốn mươi đô la (bốn mươi đô la! Mà lại là đô la Mỹ), rồi cô nhét cuộn tiền vào bên trong áo blouse.
Dù sao đi nữa, anh có thấy việc này hay không thì cũng chẳng hề gì.
Sau đó, cô ngồi trong gian bếp, đang lén lút ăn phó mát đầy miệng, thì Jens chạy vào, mặt đỏ bừng vì kích xúc.
“Đoán ra chuyện gì không? Có thêm khách tới đây!”
Jens và Sigi chạy ra, Line giận dỗi chạy theo, rồi thấy hình dạng của hai người và một chiếc xe trượt tuyết. Những người Na Uy tụ tập chung quanh và đỡ người ngồi trên xe xuống. Người này lảo đảo và phải được nâng đỡ. Line thoáng thấy một gương mặt trông dữ dằn và đen đúa, rồi cô nhìn qua người kia và nhận ra đó là một phụ nữ da trắng. Quả là bất thường khi trông thấy một phụ nữ như thế - dù qua lớp trang phục dày, bà vẫn có phong thái tao nhã - lại đi cùng người bản địa trông hung ác như thế, đến nỗi thoạt đầu không ai biết phải nói hay làm gì. Rõ ràng là người phụ nữ đã kiệt sức nên Per phải trao đổi với người bản địa. Line không nghe rõ các câu đầu, nhưng rồi nghe tiếp câu sau, bằng tiếng Anh: “Chúng tôi đang đi tìm Francis Ross. Bà này là mẹ anh ấy.”
Ý nghĩ đầu tiên của Line, thật xấu hổ, là Francis sẽ muốn đòi lại khoản tiền. Cô cũng cảm nhận một nỗi ghen tị. Ngay cả sau sự kiện bối rối ban chiều, cô vẫn nghĩ mình có mối quan hệ độc nhất với anh trai trẻ; anh là người bạn và cũng là đồng minh của cô - người duy nhất ở Himmelvanger không có thái độ bề trên với cô. Cô không muốn mình bị thay thế, cho dù trong tình cảm của một nghi phạm về tội giết người.
Line ép bàn tay vào người, bên ngoài cuộn giấy bạc và giữ ở đó.
Cô thầm thề nguyện với mình là bây giờ không ai được lấy đi món tiền này.
༺༒༻
Những người đàn ông và phụ nữ với vẻ mặt háo hức và phấn khích nâng tôi dậy, đỡ cho tôi đứng lên khi tôi loạng choạng. Tôi không hiểu được tại sao họ tỏ ra vui mừng đến thế khi gặp chúng tôi, và rồi tôi cảm thấy kiệt sức, hai tai lùng bùng với những rung động và tiếng ca hát kỳ lạ. Khi những người bao quanh gật đầu và mỉm cười và líu lo đáp lại lời Parker nói gì đấy, tôi không hiểu được gì ngoài tiếng nói lao xao và sự kiện là đôi mắt tôi, dù đang nóng bỏng, vẫn ráo hoảnh. Có lẽ tôi đã bị mất nước; có lẽ tôi đã ngã bệnh. Không can gì; Francis còn sống và chúng tôi đã tìm được nó, đấy là điều quan trọng nhất. Thậm chí tôi còn cảm tạ Thượng đế, nếu những kênh thông tin với Người han rỉ từ lâu vẫn còn để mở.
Tôi nghĩ mình thành công trong việc kiềm chế cảm xúc khi trông thấy con tôi. Đã hai tuần trôi qua kể từ khi nó rời khỏi nhà; nó trông xanh xao, tóc xem dường đen hơn bao giờ hết; và nó mảnh mai, một thân hình trẻ con dưới tấm chăn. Tuồng như tim tôi đập mạnh đến mức gần vỡ toang, khiến tôi gần bị tắc nghẹn. Tôi không nói năng gì được, chỉ nghiêng người xuống để ôm lấy nó và cảm nhận xương xẩu nó sắc nhọn dưới lớp da. Hai cánh tay nó choàng qua hai bờ vai tôi, tôi có thể ngửi mùi của nó, khiến cho tôi hầu như không chịu nổi. Rồi tôi phải thu người lại vì tôi không còn nhìn được nó nữa, mà tôi cần nhìn nó. Tôi vuốt tóc nó, mặt nó. Tôi ôm chặt hai bàn tay nó trong hai bàn tay tôi. Tôi không thể dừng vuốt ve nó.
Nó nhìn tôi, đã chuẩn bị cho sự hiện diện của tôi - tôi nghĩ thế - nhưng có vẻ như nó vẫn ngạc nhiên, và bóng ma của một nụ cười lập lờ trên khuôn mặt của nó.
“Ma-man. Mẹ đã đến. Làm thế nào mẹ đến được?”
“Francis, cha mẹ rất lo lắng...”
Tôi vuốt ve hai bờ vai và hai cánh tay nó, cố kiềm chế dòng lệ. Tôi không muốn làm cho nó bối rối. Hơn nữa, tôi không cần phải khóc nữa; không bao giờ nữa.
“Mẹ ghét đi xa mà.”
Hai mẹ con tôi cùng cười to, run rẩy. Trong một khoảnh khắc, tôi cho phép mình nghĩ đến việc khi về nhà chúng tôi sẽ bắt đầu lại; sẽ làm thế nào để không còn có những cánh cửa đóng sập, không còn có nỗi nín lặng âm ỉ. Sau đó, chúng tôi sẽ được hạnh phúc.
“Pa-pa cũng đến đây không?”
“À... cha con không thể đi xa khỏi trang trại. Cha mẹ nghĩ chỉ một người đi thì tốt hơn.”
Francis nhìn xuống tấm vải giường. Đấy nghe như là lời giải thích khập khiễng. Tôi ước gì mình đã đưa ra một lời dối trá có tính thuyết phục hơn, nhưng việc anh ấy vắng mặt thì nói lên nhiều điều hơn là bất kỳ giải thích nào. Francis không rút hai bàn tay về khỏi hai bàn tay tôi, nhưng có vẻ như tay nó đang tuột ra. Nó vẫn thất vọng, dù có những chuyện khác diễn ra.
“Cha sẽ rất vui được gặp lại con.”
“Ông ấy sẽ nổi giận.”
“Không phải, đừng ngớ ngẩn.”
“Mẹ đến đây bằng cách nào?”
“Với một người chuyên nghề dò tìm tên là Ông Parker. Ông đã tử tế muốn dẫn mẹ đi, và...”
Dĩ nhiên là từ khi con tôi rời khỏi Sông Dove, nó không biết những chuyện đã diễn ra. Nó không biết Parker đúng là ai, hoặc có thể là ai.
“Họ nghĩ con đã giết Laurent Jammet. Mẹ biết điều này, phải không?” Giọng nói của nó nghe thản nhiên.
“Con yêu ạ, đó là nhầm lẫn. Mẹ thấy anh ấy… Mẹ biết con không làm chuyện ấy. Ông Parker quen biết Monsieur Jammet. Ông ấy có một ý tưởng...”
“Mẹ thấy anh ấy à?” Nó nhìn tôi, mắt mở tròn, mà tôi không biết với dáng vẻ bị sốc hay là thông cảm. Dĩ nhiên là nó ngạc nhiên. Cả nghìn lần mỗi ngày từ lúc ấy, tôi vẫn nghĩ lại lúc tôi đứng ở khung cửa ngôi nhà gỗ của Jammet, cho đến khi hồi ức của quang cảnh kinh khiếp này đã bị bào nhẵn. Nó không còn làm cho tôi bị sốc nữa.
“Mẹ đã tìm thấy anh ấy.”
Francis khép mắt lại, như thể có một cảm nghĩ khác thình lình xâm chiếm lấy nó. Trong một khoảnh khắc tôi nghĩ nó tức giận, cho dù không có lý do nào khiến cho nó phải tức giận.
“Con đã tìm thấy anh ấy.”
Nó nhấn mạnh ngôn từ một cách nhẹ nhàng nhưng không nhầm lẫn được. Như tuồng nó thấy cần phải vạch rõ.
“Con đã tìm thấy anh ấy, và theo dõi theo người đã gây án, nhưng rồi con mất dấu. Ông Moody không tin con.”
“Francis à, anh ấy sẽ tin. Mẹ đã thấy các dấu chân mà con theo dõi. Con phải kể cho anh ấy tất cả những gì con thấy, rồi anh ấy sẽ hiểu.”
Francis thở hắt ra - dấu hiệu khinh thường mà nó hay biểu lộ ở nhà mỗi khi tôi tỏ ra ngu ngốc: “Con đã kể cho ông ấy tất cả.”
“Nếu con... đã tìm thấy anh ấy, tại sao không nói cho cha mẹ biết? Tại sao lại một mình theo dõi hắn? Nếu hắn tấn công con thì sao?”
Francis nhún vai: “Bởi vì nếu chần chừ, con sẽ mất dấu hắn.”
Tôi không nói ra - bởi vì nó hẳn có cùng ý nghĩ - rằng thế nào đi nữa thì nó cũng mất dấu.
“Pa-pa có nghĩ con làm chuyện đó không?”
“Francis... dĩ nhiên là không. Làm thế nào con nói như thế được?”
Nó lại mỉm cười - một nụ cười méo mó, đau khổ. Tuổi nó còn quá nhỏ nên đáng lẽ nó không nên có cách cười như thế, và tôi biết đấy là do lỗi của tôi. Tôi đã không thể giúp cho tuổi thơ của nó được hạnh phúc, và bây giờ khi nó đã lớn lên thì tôi không thể bảo vệ nó chống lại những khổ ải và khó khăn trên trần thế.
Tôi đưa một bàn tay vuốt má nó: “Mẹ xin lỗi.”
Nó chẳng hỏi tôi xin lỗi về việc gì.
Tôi tiếp tục trò chuyện với nó, về việc tôi sẽ nói với anh Moody như thế nào để anh hiểu anh đã sai lầm. Tôi nói về tương lai, và nói làm thế nào để không phải lo lắng gì nữa. Nhưng đôi mắt nó vẫn nhìn lên trần nhà, nó không lắng nghe tôi, và cho dù hai bàn tay tôi nắm lấy hai bàn tay nó, tôi biết mình đã đánh mất nó. Tôi mỉm cười, cố tạo thái độ vui tươi trên gương mặt và trong cử chỉ, nói thao thao về chuyện nọ chuyện kia, bởi vì hai mẹ con tôi còn có thể làm được gì khác?
༺༒༻
Hôm nay, vùng Vịnh yên ắng. Cả ngày hôm qua, trong cơn bão tuyết, tiếng nước gào thét đập vào bờ đá tạo ra tiếng rầm rì lan tỏa cả thị trấn. Lúc trước Knox đã nghĩ rằng bờ đá hẳn phải có hình dạng lạ lùng để trong điều kiện thời tiết nào đó phát ra âm thanh gầm gừ trầm lắng nhưng không dứt như thế. Theo tầm mắt người ta có thể thấy qua màn tuyết cuồn cuộn - vốn không xa lắm - con Vịnh có màu xám và trắng, mặt nước bị gió thổi xé toạc và nổi sóng mạnh mẽ. Vào những thời khắc như thế này, người ta mới hiểu được tại sao cư dân đã chọn đúng địa điểm để xây nhà ở Sông Dove, tránh xa con Vịnh rộng lớn và không lường trước được.
Khi màn đêm xuống, ít người đi ra khỏi nhà. Lớp tuyết đã dầy lên gần nửa mét, nhưng ẩm ướt, và đang rắn chắc lại. Những vết chân người và bánh xe chạy ngang dọc con đường, những làn đường đông đúc nhất tạo nên những rãnh sâu dơ bẩn trên nền tuyết trắng. Những làn đường ít người đi thì chỉ có dấu vết lờ mờ. Dấu vết chạy dài từ nhà đến cửa hàng, từ nhà nọ đến nhà kia. Bạn có thể nhận biết những ai ở Caulfield được yêu thích và những ai ít đi ra ngoài.
Bây giờ Knox đang đi theo một vết lờ mờ, chân ông ướt và lạnh thêm sau mỗi bước đi. Điều gì trên cõi đời này đã ám ảnh ông khiến cho ông đi ra ngoài mà không mang giày ủng cao su? Ông cố nhớ lại khoảnh khắc trước khi mình bước ra khỏi nhà, để tìm ra mình đã nghĩ gì, nhưng không nhớ được. Một lỗ đen trong tâm trí ông. Trong thời gian gần đây ông thường có lỗ đen như thế. Ông thấy đó là điều đáng bận tâm.
Khi đến ngôi nhà, tất cả đều yên ắng. Ông bước vào phòng khách nơi đứa con gái Susannah liến thoắng hay hiện diện, nhưng ngạc nhiên thấy Scott và Mackinley đang ngồi trên ghế bành. Không thấy bóng dáng người nào trong gia đình ông. Ông có cảm tưởng hai người đang ngồi đợi mình.
“Chào hai vị... À, John, tôi xin lỗi, chúng tôi nghĩ không có khách tối nay.”
Scott hạ tầm mắt xuống, lộ vẻ ngượng nghịu, cắn môi lại.
Mackinley lên tiếng. Giọng nói ông ta bây giờ nghe rắn rỏi và tỉnh táo: “Chúng tôi không cùng nhau đến đây tối hôm nay.”
Knox hiểu ý, đóng cánh cửa lại sau lưng ông. Trong một khoảnh khắc ngắn, ông chợt nghĩ mình phải phủ nhận tất cả; phải chỉ rõ rằng vì say rượu mà Mackinley nghe mấy chuyện không có thực, nhưng rồi gạt bỏ ngay ý nghĩ này.
Mackinley bắt đầu: “Ít ngày trước, ông nói rằng ông đã không quay lại kho chứa hàng, rằng Adam và tôi là hai người cuối cùng gặp tù nhân. Adam đã bị trừng phạt vì đã không khóa cửa kho chứa hàng. Nhưng hôm nay, ông lại nói với tôi rằng chính mắt ông đã nhìn thấy tù nhân sau khi tôi đã gặp hắn rồi trở về.”
Mackinley ngả người dựa vào lưng ghế bành, lộ vẻ tự mãn của một thợ săn đã giăng một chiếc bẫy chuẩn xác.
Knox liếc qua Scott; ông này nhìn ông một thoáng rồi quay nhìn qua hướng khác. Knox cảm nhận một nỗi khao khát muốn gian dối để cười to đang dâng lên trong ông. Có lẽ đúng thực là cuối cùng thì ông đã đãng trí. Ông băn khoăn nếu bây giờ bắt đầu nói ra sự thật thì mình có thể dừng lại được không.
“Điều tôi thực sự nói là chính mắt tôi đã thấy ý tưởng của ông về công lý được thực hiện ra sao.”
“Thế thì ông không phủ nhận việc này phải không?”
“Tôi đã thấy, và việc đó làm cho tôi kinh tởm. Vì thế tôi đã có động thái nhằm tránh trò hề của công lý. Đấy là việc ông hẳn sẽ làm.”
Scott nhìn Knox, như thể lúc trước không tin nhưng bây giờ thu can đảm để đối đầu: “Ý ông muốn nói là ông... phóng thích tù nhân?” Giọng ông này nghe căm phẫn.
Knox hít một hơi thở sâu: “Đúng. Tôi quyết định rằng đấy là việc tốt nhất phải làm.”
“Ông điên rồi hay sao? Ông không có thẩm quyền để làm việc như vậy.” Câu này là do Scott nói ra, đang lộ vẻ khó chịu như vừa ăn phải khoai tây xanh.
“Tôi vẫn còn là quan tòa ở đây, tôi tin như thế.”
Mackinley đằng hắng nhẹ: “Đây là vụ việc của Công ty. Tôi đang nắm quyền chỉ đạo. Ông đã cố tình làm sai lạc quy trình của công lý.”
“Đây không phải là vụ việc của Công ty. Ông chỉ tìm cách làm ra vẻ như vậy. Nhưng nếu Công ty có liên quan gì đến vụ việc, thì công lý càng phải tỏ ra không thiên vị. Điều này không xảy ra được trong khi ông bắt giam người kia.”
Sắc mặt Mackinley đỏ bừng, hơi thở sâu và gấp gáp: “Tôi sẽ báo cáo về chuyện của ông.”
Knox săm soi móng ngón tay cái của mình khi trả lời: “À, ông cứ làm theo cách ông nghĩ cần phải làm. Tôi sẽ không đi đâu hết. Mặt khác, ông... tôi nghĩ đã đến lúc ông đi tìm chỗ ở khác trong thị trấn này. Tôi tin ông Scott có thể giúp ông trong việc này, cũng như trong những việc khác. Chào hai ông.”
Knox đứng dậy và giữ cho cánh cửa mở ra. Hai người đàn ông đứng dậy và đi ngang qua ông, đôi mắt Mackinley chiếu ra một điểm cố định ngoài hành lang, Scott đi theo sau và nhìn xuống đất. Knox nhận biết hai người dừng lại bên ngoài và xì xào to nhỏ với nhau, rồi bước đi. Ông không thấy tiếc việc mình đã làm, mà cũng không sợ hãi. Đứng trong hành lang không có ánh đèn, Andrew Knox cùng lúc nhận ra ba điều: một trạng thái chùng xuống, run rẩy, như thể một sợi dây buộc suốt đời thình lình được thả lỏng; một ước muốn được gặp Thomas Sturrock, vào lúc này là người duy nhất có thể hiểu ông; và sự kiện là lần đầu tiên trong nhiều tuần lễ, ông không còn bị đau nhức ở các khớp xương nữa.
༺༒༻
Tuyết rơi không ngớt trong hai ngày kế tiếp, và ngày sau lạnh hơn ngày trước. Một buổi sáng, Jacob và Parker ra đi rồi trở về với ba con chim và một con thỏ. Có trời mà biết được làm thế nào hai người nhìn ra các con vật trong thời tiết như thế này. Không phải là nhiều, nhưng hai người có động thái tốt, bởi vì người Na Uy có thêm các miệng ăn phải chăm lo.
Tôi bỏ thời giờ để ngồi cùng Francis, cho dù nó ngủ nhiều hoặc giả vờ ngủ. Tôi lo lắng cho nó; và lo cho vết thương ở đầu gối nó đang sưng lên và hẳn là gây đau. Per cho biết mình có ít kiến thức về y khoa, và nói xương không bị gãy, chỉ bị sai khớp, và chỉ cần thời gian để lành lại. Sau khi đã kiên nhẫn hỏi han - Francis không tự nói ra gì cả - tôi biết được đôi điều về chuyến đi của nó, và tôi lấy làm ngạc nhiên lạ lùng lẫn cảm động được biết nó đã đi được xa như thế. Tôi tự hỏi khi biết được thì Angus sẽ hãnh diện vì nó hay không. Trước khi tôi đến, có một phụ nữ tên Line chăm sóc cho nó, nhưng bây giờ tôi đảm nhận tất cả nghĩa vụ. Xem dường cô ấy không vui khi thấy tôi đến và muốn lánh mặt tôi, cho dù tôi thấy cô trò chuyện với Parker một cách mê mải trong nhà kho phía đối diện. Tôi không thể mường tượng ra hai người có chuyện gì mà trao đổi với nhau. Tôi phải thú nhận rằng có một ý nghĩ len lỏi vào đầu óc mình: dù sao chăng nữa, cô ấy chỉ là một phụ nữ không chồng, cho dù đấy không phải do lỗi của cô. Và phải công nhận là cô trông khá đẹp theo hình thức da ngăm ngăm của người nước ngoài. Khi được giới thiệu với nhau, cô chào tôi với ánh mắt kém thân thiện. Tôi cảm ơn cô đã chăm sóc tốt cho Francis, và cô thoái thác, bằng tiếng Anh sõi, nhưng với vẻ sưng sỉa mà tôi không hiểu được. Rồi tôi nhận ra rằng khi đến đây, tôi đã chiếm lấy vị trí của cô và đẩy cô trở lại công việc thường ngày mà cô bị các phụ nữ có chồng sai khiến, có lẽ vì cô ở góa. Francis nói cô rất tử tế, và nói nó mến cô.
Moody - hoặc Jacob thì thường xuyên hơn - ngồi canh bên ngoài cánh cửa, như thể họ chờ cho tôi kêu thét là Francis đang tấn công tôi, rồi họ sẽ xông vào mà cứu sống tôi. Tôi đã có cái nhìn khác đối với anh Moody. Ở Sông Dove, anh xem dường tử tế và rụt rè, một người thực thi pháp luật bất đắc dĩ. Ở đây, anh lộ vẻ thiếu kiên nhẫn và nóng nảy. Anh đã nhận lấy bộ áo quyền lực và khoác lên người mà không có vẻ biết điều. Tôi đã yêu cầu nói chuyện với anh trong riêng tư. Anh luôn từ chối, viện cớ đang bận bịu với nhiều nhiệm vụ cấp bách. Nhưng sau hai ngày tuyết rơi không dứt, ai cũng biết anh chỉ chờ đợi chứ không có việc gì làm, và tôi có thể nhận ra điều này trong mắt anh khi anh cố đưa ra lời giải thích khác.
“Được rồi, Bà Ross. Chúng ta nên đi đến... à, phòng tôi.”
Tôi đi theo anh dọc hành lang, và người phụ nữ tên Line đang đi ngang qua chúng tôi, ném ánh mắt xấu xa về phía Moody.
Phòng của Moody cũng có không khí chủng viện như phòng của tôi, chỉ có điều vật dụng của anh nằm la liệt trên bàn ghế và sàn nhà, trông như vừa có kẻ trộm lẻn vào. Anh vơ lấy quần áo của mình trên các chiếc ghế rồi vứt lên mặt giường. Khi ngồi xuống, tôi nhìn thấy trên mặt bàn bên cạnh mình một phong thư đề người nhận là Cô S. Knox. Tôi thấy thú vị về điều này. Tôi chắc chắn anh không cố ý cho tôi xem; và một lúc sau điều này được xác nhận khi anh quơ các món trên mặt bàn lại thành một đống lộn xộn. Anh tất bật với các món bừa bộn một lúc, và tôi nhận ra rằng trong những tình huống khác thì mình có thể cảm thông với anh. Anh chỉ lớn hơn Francis vài tuổi, cô đơn, và chỉ mới đến đất nước này không lâu.
Anh hắng giọng vài lần, trước khi mở lời: “Bà Ross, tôi hoàn toàn hiểu được bà quan ngại về Francis. Đó là lẽ tự nhiên, vì bà là mẹ nên mới cảm thấy như vậy.”
“Và cũng là lẽ tự nhiên mà anh phải tìm ra thủ phạm của tội ác kinh khiếp này.” Tôi nói một cách nhẹ nhàng, nhưng vẻ mặt của anh biến thành tức tối phiền hà. “Francis cũng muốn tìm ra kẻ chịu trách nhiệm, như nó đã kể cho anh nghe.”
Moody kiềm chế thái độ để ra vẻ kiên nhẫn và chịu đựng trong hoàn cảnh thử thách: “Bà Ross, tôi không thể nói cho bà biết tất cả lý do của tôi để cho rằng con trai bà là nghi phạm, nhưng những lý do này là rất bức xúc. Bà phải tin tôi.”
“Tôi vẫn nghĩ rằng, đối với tất cả những người khác thì tôi không nói đến, nhưng với tôi anh nên cho biết những lý do ấy là gì.”
“Bà Ross, đây là việc của công lý. Có những lý do chính đáng cho hành động của tôi. Giết người là tội ác rất nghiêm trọng.”
Tôi nói: “Các dấu chân. Dấu vết kia. Chuyện này thì sao?”
Anh thở dài: “Một sự trùng hợp. Dấu vết mà kẻ... con trai bà đi theo để tìm một nơi an toàn.”
“Hoặc là dấu vết của kẻ giết người.”
“Tôi hoàn toàn hiểu bà muốn tôi tin con trai bà vô tội. Đó là lẽ tự nhiên và đúng lý. Nhưng anh ấy bỏ trốn khỏi Sông Dove với số tiền của nạn nhân để dõi theo kẻ giết người, và rồi khai gian về việc này. Các sự kiện đều quy về một kết luận. Tôi sẽ bị kết tội bỏ bê nhiệm vụ của mình nếu không có động thái đối với việc này.”
Tôi nín thở trong một khoảnh khắc, cố gắng không lộ vẻ ngạc nhiên. Francis đã không kể cho tôi nghe về khoản tiền nào bị mất cắp.
“Nếu không theo đuổi những điều khả dĩ khác thì chắc chắn cũng là bỏ bê nhiệm vụ. Dấu vết đó có thể là của kẻ giết người; hoặc có thể không phải. Làm thế nào anh biết được nếu anh không lần theo nó?”
Moody thở dài qua đường mũi, rồi đưa tay xoa hai sống mũi nơi gọng kính đè xuống thành hai lõm màu đỏ. Anh không muốn làm bất kỳ việc gì liên quan đến dấu vết kia.
“Trong những điều kiện hiện nay, nhiệm vụ của tôi là đưa nghi phạm đến nơi chắc chắn. Việc điều tra thêm sẽ phải chờ cho đến khi thời tiết được thuận lợi.”
Xem dường anh tỏ ra hài lòng về câu phát biểu của mình, sau khi đã đặt gánh nặng lên nhiệm vụ của mình thay vì lên chính cá nhân mình. Thậm chí anh còn nở một nụ cười nhẹ, như thể lấy làm tiếc đã để sự việc vuột khỏi tầm tay của mình. Tôi cũng mỉm cười vì sự việc tiến triển theo cách như thế, nhưng tôi không còn cảm thông với anh cho dù anh cô đơn hay không.
“Anh Moody, đấy không phải là lý do chính đáng. Chúng ta phải theo dõi dấu vết ấy, bởi vì khi thời tiết được thuận lợi - như cách anh nói - thì không còn gì để theo dõi nữa, trong khi nhiệm vụ của anh là phải tìm ra sự thật chứ không phải là việc gì khác. Anh có thể để Francis cho những người ở đây trông nom, hoặc nếu anh không tin tưởng họ thì để người đồng nghiệp của anh trông chừng nó. Parker sẽ dõi theo dấu vết, rồi anh và tôi sẽ biết nó dẫn đến đâu.”
Moody lộ vẻ kinh ngạc và tức giận: “Bà Ross à, bà không có quyền bảo tôi phải làm nhiệm vụ của tôi như thế nào.”
“Mọi người đều có quyền chỉ ra tình trạng bỏ bê nhiệm vụ trong một vụ việc quan trọng như thế này.”
Anh trừng trừng nhìn tôi, ngạc nhiên vì phải nghe ngôn từ như thế. Tôi đoán hẳn mình đã chạm phải vấn đề cân não; có lẽ anh đã nghĩ đến dấu vết kia và nó làm cho anh lo lắng. Tôi nghĩ anh có một đầu óc quy củ, và những dấu chân dẫn ra vùng hoang dã ấy là chuyện tồn đọng gây rối rắm cho anh.
“Dù sao chăng nữa, nếu anh đúng...” Tôi thấy khó mà đồng lòng khi nói lời này. “Nếu anh đúng, anh sẽ biết rằng anh đã loại bỏ tất cả điều khả dĩ, rồi lương tâm anh sẽ thanh thản. Mặt khác, nếu vụ việc được đưa ra trước phiên tòa, sự hiện hữu của dấu vết và khả năng nó dẫn đến... à, ít nhất nó sẽ khiến cho kết luận của anh bị chất vấn, có phải thế không?”
Moody nhìn tôi chăm bẳm, rồi hướng đôi mắt ra ngoài khung cửa sổ. Ngay cả ở đấy, có vẻ như anh vẫn không tìm ra câu trả lời.
Khi tôi hỏi Francis về khoản tiền, nó từ chối trả lời. Nó thở hắt, ngụ ý rằng câu trả lời là hiển nhiên và tôi đã ngu xuẩn mà không thấy ra. Tôi nhận thấy nó tỏ ra bực bội như từ trước đến giờ.
“Mẹ cố giúp con. Nhưng mẹ không giúp được nếu con không nói cho mẹ biết đã xảy ra chuyện gì. Moody cứ cho rằng con ăn cắp khoản tiền đó.”
Francis nhìn lên trần nhà, nhìn đến các bức tường, bất kỳ thứ gì ngoại trừ đôi mắt tôi: “Con ăn cắp.”
“Gì cơ? Tại sao thế?”
“Bởi vì con cần tiền nếu đi xa. Con có thể cần sự giúp đỡ để tìm ra kẻ giết người. Con có thể phải chi trả cho việc này.”
“Con có sự giúp đỡ ở nhà. Tiền có ở nhà. Tại sao con không dùng?”
“Con đã nói là con không thể quay về nhà.”
“Nhưng... dấu vết không biến mất nhanh như thế.”
“Thế là mẹ cũng nghĩ đấy chính là con, phải không?”
Nó đang mỉm cười, vẫn nụ cười chua xót như trước đây.
“Không... dĩ nhiên là mẹ không nghĩ thế. Nhưng - mẹ ước gì con nói cho mẹ biết tại sao con có mặt ở đấy vào lúc nửa đêm.”
Francis mím môi lại. Một hồi nó không nói gì, đủ lâu cho tôi nghĩ mình sẽ bỏ cuộc và đi ra ngoài.
“Laurent Jammet...” nó ngập ngừng, “… là người duy nhất mà con có thể trò chuyện. Bây giờ không còn ai nữa. Con không màng nếu con không bao giờ trở về.”
Sau một chốc, tôi nhận ra mình đã ngừng thở. Tôi tự nhủ nó chỉ nói thế mà không suy nghĩ, hoặc nó cố tình làm cho tôi đau khổ. Francis vẫn luôn làm cho tôi đau khổ hơn là bất cứ ai khác.
“Mẹ tiếc con đã mất một người bạn. Lại còn trong tình huống như thế. Mẹ ước chừng sẽ cho bất kỳ thứ gì để con không trông thấy cảnh ấy.”
Cơn giận dữ của nó ập đến tôi, cơn giận dữ của trẻ nít đến mức suýt rơi lệ: “Mẹ chỉ có thể nói thế thôi sao? Mẹ ước con không thấy hở? Có hề gì không? Tại sao không ai nghĩ đến Laurent? Anh ấy là người bị giết. Tại sao mẹ chẳng ước anh ấy không bị giết?”
Nó buông người trở lại trên chiếc gối, đôi mắt ráo hoảnh, và cơn giận dữ nguội đi, cũng thình lình như khi bùng phát.
“Mẹ xin lỗi, con yêu ạ. Mẹ xin lỗi. Dĩ nhiên là mẹ ước thế. Không ai phải chết như thế. Anh ấy là người tử tế. Có vẻ như anh ấy... yêu mến cuộc sống.”
Tôi tự nhắc nhở mình rằng tôi biết anh ấy rất ít, nhưng lời nói ấy xem ra là điều chắc chắn. Tuy thế, nếu tôi nghĩ mình đang an ủi Francis hoặc nói điều mà nó muốn nghe, thì tôi lại lầm, như bao lần tôi đã lầm.
Giọng của nó thì thầm: “Anh ấy không phải là người tử tế. Anh ấy chai lì. Anh ấy thích tìm ra điểm yếu của người và lấy đó để đùa cợt. Bất kỳ chuyện gì cho người khác cười theo, không cần biết đó là chuyện gì. Anh ấy không màng.”
Tôi không theo kịp câu chuyện quay ngoắt này. Bỗng dưng tôi lo sợ kinh khiếp rằng Francis sắp thú nhận với tôi chuyện gì đấy. Tôi vuốt trán nó và nói “suỵt”, như thể nó vẫn còn là một đứa bé, nhưng tôi không biết mình nghĩ gì. Vì thế tôi nói vẩn vơ, nói bất kỳ điều gì, chỉ mong Francis đừng mở miệng mà nói ra điều gì khiến cho tôi sẽ hối tiếc.
Parker đang ở trong nhà kho cùng với Jacob và một người Na Uy. Có lẽ họ đã tách khỏi bi kịch đang diễn ra bên kia khoảnh sân, và đang bàn về một chứng bệnh vẩy nến[35] nào đó, theo cách tôi nghe lõm bõm. Tôi cảm thấy bối rối mà yêu cầu trao đổi một mình với Parker, khi bây giờ chúng tôi đã trở về với xã hội văn minh. Tôi thoáng nhìn thấy người Na Uy nhìn tôi với vẻ dò xét, mà tôi biết chắc là họ dò xét về tình trạng hôn nhân của tôi và việc tôi chọn người đồng hành kỳ lạ này. Trong bóng tối của nhà kho, tôi nhớ lại kho chứa hàng lạnh lẽo tối tăm. Xem dường đấy là đã lâu lắm rồi.
Tôi nói với Parker: “Anh Moody không quan tâm đến việc theo dõi dấu vết kia. Hai chúng ta có thể sẽ phải đi theo dõi.”
“Đây là việc rất khó. Tốt hơn là bà nên lưu lại đây với con trai bà.”
“Nhưng, phải cần đến... nhân chứng.”
Tôi nghĩ mình đã nói ra một cách cẩn trọng - mà không nói thẳng là tôi không tin tưởng ông, nhưng dù sao ông không tỏ vẻ bị xúc phạm.
“Bà không biết tôi sẽ trở về hay không.”
“Phải cho Moody thấy... bất cứ cái gì ta tìm ra. Nếu ta chỉ có thể dẫn Francis…”
Parker nhún vai: “Nếu con trai bà là kẻ giết người, anh ấy sẽ muốn đổ tội cho ai đó. Moody sẽ không chấp nhận việc này.”
Tôi biết Parker nói đúng. Lần đầu tiên, tôi nhận ra nỗi vô vọng, nhận ra sự mệt mỏi cùng cực. Tôi đã cố gắng leo lên một quãng dốc trơn trượt, và đã leo được. Bây giờ mặt đất đang bắt đầu chuồi đi dưới chân tôi, và tôi không biết phải làm gì. Tôi không biết rằng mình có thể trông mong Parker giúp tôi. Tôi không biết tại sao ông phải giúp tôi. Nhìn vào mắt ông, tôi không thấy vẻ trắc ẩn nào - không có vẻ gì mà tôi nhận ra được. Tuy nhiên, nếu có thể van xin thì tôi vẫn sẵn lòng van xin. Hoặc thêm nhiều việc khác nữa.
“Ông phải dẫn tôi đi. Tôi phải tìm ra bằng chứng là nó vô tội. Không ai khác quan tâm họ bắt được ai miễn là bắt được ai đấy. Tôi van ông.”
“Nhưng nếu không tìm ra được gì thì sao? Bà đã nghĩ đến việc này chưa?”
Tôi đã nghĩ đến việc này, nhưng không có câu trả lời. Tôi chăm chăm nhìn khuôn mặt dửng dưng của ông, nhìn đôi mắt mà không thấy rõ tròng đen và đồng tử mà chỉ thấy toàn vẻ đen tối, và cảm thấy ớn lạnh khắp cả người.
[35] Vẩy nến: hoặc ecpet mảng tròn (Anh ngữ: ringworm): theo y khoa phương Tây, bệnh gây ra do nấm, tạo những mảng tròn phồng rộp trên da. Vùng da nhiễm bệnh thường có màu đỏ, tròn, phẳng, và tróc vẩy.