cao hai tấc, lật đật dùng linh đơn điều trị, nghĩ tới chừng nào càng thêm giận lắm,
bèn nói với Vương Bôn rằng: "Con phải sắm hương án cho sẵn, qua giờ ngọ đặng ta
liệng tản thiên tiễn, mà giết thằng thất phu Triển Hùng cho rảnh để trả cái cứu một
roi". Vương Bôn nói: "Khi nãy sao cha không liệng cái tên ấy mà giết phứt nó cho
rồi". Vương Tiễn nói: "Vốn chưa rõ, lúc giao chiến đó không nhằm giớ tý, giờ ngọ
làm sao mà liệng được, thôi bây giờ cũng đã gần đến ngọ, vậy sao sắm hương đăng
cho mau, để ta chúc cáo tổ sư, liệng cây bửu tiễn, làm cho nó phải chết liền trước
mắt". Vương Bôn vâng mệnh lập tức dọn hương đăng huê chúc xong rồi. (Nguyên
Vương Tiễn bị Triển Hùng đánh một roi lòng sanh cứu oán, mà sợ Triển Hùng là vị
anh hùng, nên chẳng dám giao chiến, cho nên cách dinh liệng tên tới đâm Triển
Hùng, bắt chước theo cách giết Tôn Tẫn lúc nọ).
Nói về Triển Hùng đánh Vương Tiễn một gậy đắc thắng về dinh ăn mừng, đang
ăn uống vui cười, Triển Hùng nói với Tôn Tẫn rằng: "Vì làm sao lúc thân ta mỏi mệt
đứng ngồi không yên, hay là có việc chi bất tường chăng? Ngươi hãy đoán thử coi,
kiết hung thế nào?". Tôn Tẫn co tay suy đoán, hãi kinh thất sắc, hối người dẹp tiệc.
Triển Hùng hỏi: "Hiền điệt chiêm coi thế nào?". Tôn Tẫn sa nước mắt kêu: "Sư thúc
ôi! Không xong rồi, mang ơn sư thúc xuống núi giúp tôi, roi đánh Vương Tiễn nên
cứu oán, nay Tần tặc cách dinh liệngtên, giây phút đây sư thúc chẳng còn". Triển
Hùng thất kinh hỏi: "Vậy chớ Vương Tiễn liệng tản thiên tiễn mà giết ta sao?". Tôn
Tẫn nói: "Đến giờ ngọ ba khắc, thì nó cách liệng tên mà giết sư thúc đó".
Lúc ấy Liễu Hùng tam hồn phách tan hết, tay nắm TônTẫn nói rằng: "Tưởng lại
lúc ta còn trẻ, tung hoành thiên hạ, bấy nhiêu anh hùng hảolớn, chưa từng thua ai, từ
lúc ta hồi tâm học đạo, tụng sách Huỳnh đi mong lòng tu chơn dưỡng tánh, chẳng dè
ngày ấy chết tại chốn này, mới biết sanh có ngày, chết có thuở ấy là số mạng ta phải
như vậy". Nói rồi thảm thiết khóc vùi. Cổ Đạt đứng kế bên, mặt buồn dàu dàu,
chẳng biết kế chi tính được. Mao Toại cười ngất nói: "Cái bộ tưởng cao lớn dềnh
dàng như vậy mà còn tham sanh, úy tử:. Triển Hùng nói: "Thằng lùn, cùng bởi tại mi
khích ta xuống núi, hôm nay giặc nó liệng cái tản thiên tiễn đánh ta, mạng trong
giây phút, mà chẳng biết thương nhau, trở lại vui cười, ngươi là người gì vậy?". Mao
Toại nói: "Chớ rộn ràng, ta có phép cứu người được như chơi". Triển Hùng nói:
"Ngươi có phép chi, xin ra ơn cứu giúp giùm". Mao Toại nói: "Nếu ngươi muốn cứu,
trước phải rót một chung trà, rồi lạy mà kêu ta bằng thầy, thì ta đi ăn trộm cái tản
thiên tiễn về đây ắt không hề chi sợ". (vốn lời nói ấy chẳng qua là Mao Toại nói láo
chơi đó mà thôi). Chúng nhơn nghe nói thì la hay lắm, hay lắm. Tôn Tẫn nói: "Chẳng
cần sư thúc chậm trể, để tội thế nhọc cho sư thúc, rót trà mà lạy". Mao Toại nói:
"Lời ấy chẳng qua là tôi nói chơi đó, sao chúng ngươi tưởng thiệt, cúi đầu lạy tôi".
Triển Hùng nói: "Mạng ta sớm tối phải chết ở đây, sao ngươi lại phân chơi giỡn". Cổ
Đạt nói: "Chúng ta trà đã châm, đầu đã lạy, đi chẳng đi mặc tình ngươi đó". Tôn Tẫn
nói: "Chẳng nên chậm trễ, hay đi cho mau". Mao Toại nói: "Đợi ngươi uống trà
chẳng là trễ còn gì". Mao Toại nói: "Trời còn sớm lắm". Tôn Tẫn nói: "Trời còn sớm
lắm". Tôn Tẫn nói: "Chẳng sớm đâu, qua giờ ngọ ba khắc, thì nói liệng tên, bây giờ
đã đến giờ tỵ rồi". Mao Toại nói: "Tam ca nói lời chi vậy". Tôn Tẫn nói: "Giờ ngọ
thì nó liệng tên, bây giờ đã tới tỵ rồi, hãy đi cho chóng". Mao Toại nói: "Thôi, chúng
ngươi xách đao lại mà giết phứt ta cho rảnh". Cổ Đạt nói: "Khi không mà giết ngươi
làm sao?". Mao Toại nói: "Chúng ngươi thật là hồ đồ, quên hết cái phép ăn trộm đi
rồi, xưa nay hễ ăn trộm thì có hai câu khẩu hiệu: Du phong mạt du tiết, du vũ mạt du
nguyệt (là nói trời gió thì đi ăn trộm, trời tuyết chẳng nên đi, đi trời mưa chớ đi lúc
có trăng). Rất đỗi mặt trăng chói sáng, còn bóng mà biểu ta đi ăn trộm nỗi gì, có khi
nó chưa liệng tên giết người đâu, thôi ngươi đem ta ra mà khai đao trước cho rồi,
thiệt đi không đặng". Chúng nhơn nói: "Thiệt ngươi không đi sao?". Mao Toại nói:
"Bây giờ thiệt không dám đi". Triển Hùng nói: "Thằng ăn trộm, ta ở trong động tu
chơn sung sướng vô cùng, lại ngươi khích ta xuống núi, ta chết chẳng khứng dụng
ngươi, làm sai ta cũng kêu ông Nam Cực sai ngũ lôi đến mà đánh ngươi thì ngươi
cũng không sống được". Mao Toại nói: "Chúng ngươi đều là người nóngnảy, chớ nên
kinhhồn, để ta tới đó coi thử, như ăn trộm ban gày đặng, thì ta lấy về, ấy là các số
mạng ngươi chưa đến, như lấy không được thì chớ oán giận ta".
Nói rồi đứng dậy, vội vàng ra khỏi dinh, cỡi kim quang bay tới dinh Tần, xem
thấy đao thương như bông lúa kiếm kích tợ rừng gai, rất nên tề chỉnh. Mao Toại
niệm chú ẩn thân vuốt vào dinh Tần, bụng nghĩ rằng: "Ta biết chỗ nào là dinh
Vương Tiễn mà vào, vả chăng va làm chức tiên hành quan chắc ở gần cung tử vi".
Còn đang suy nghĩ, xảy thấy một người tướng quân còn trẻ, bưng bàn hương án. Mao
Toại biết là vương Bôn con nuôi của Vương Tiễn, nói thầm rằng: "Có khi đây là dinh
của Vương Tiễn chăng?". Ngó thấy Vương Bôn đốt nhang đèn, đứng một bên hầu
chực, rồi thấy Vương Tiễn cầm cây tản thiên tiễn ở trong bước ra nên cung kính, để
trên bàn hương án. Mao Toại nghĩ thầm rằng: "Làm sao mà lấy được nếu ta lại giựt,
thì mắc có Vương Bôn đứng một bên chẳng lìa, chi bằng chờ nó quay chỗ khác,
mình sẽ xuống tay". Rồi tàng hình tới đứng bên bàn, ngó thấy Vương Tiễn mệng đọc
thần chú, Mao Toại vừa muốn xuống tay lấy tản thiên tiễn, tức thì cây lên chẳng
thấy, ngước mặt lên xem, ngó thấy tản thiên tiễn bay xẹt trên mây. Mao Toại chắt
lưỡi dậm chân nói: "Không xong, ăn trộm không được, e khi tánh mạng mình khó
giữ. Liền độn thổ chun vào đất
Nói về Tôn Tẫn thấy ngoài trướng hào quang muôn đường sáng chói xoay vần, trong
lòng rộn tan nói: "Sư thúc ôi, không xong, tản thiên tiễn tới kia". Triển Hùng nghe
nó, cả kinh thất sắc, mắng rằng: "Hay cho thằng lùn, không phải nó đi ăn trộm tên,
rõ ràng là nó đi xúi người liệng tên mà giết tôi đó". Bèn hối quân dẫn mai huê lộc
đao nhảy lên. Tôn Tẫn thảm thiết, nước mắt chứa chan, hỏi rằng: "Sư thúc đi đâu
vậy?". Triển Hùng nói: "Người ta liệng tên tới đâm tôi, tôi há đi ngồi trong trướng
mà chịu chết sao, dấng đại trượng phu sống nào vui, chết nào sợ, dẫu có chết cũng
giết ít đứa mà thường mạng rồi. Quyết đến xông phá dinhTần, giết cho nó ngựa ngã
người nghiêng, dẫu tên có đến mà đâm tôi, cũng chẳng uống gì?". Nói rồi quất nai ra
dinh, Cổ Đạt chạy theo lược trận, Tôn Tẫn truyền lệnh chúng tướng bảo hộ liễu chơn
nhơn, ra đó tùy cơ ứng biến. Triển Hùng tuốt đến dinh Tần kêu đánh, quân vào báo
cho Vương Tiễn, Vương Tiễn cười nói: "Hay cho thằng Triển Hùng không biết chết,
bửu bối bay ở trên không, hễ rớt xuống thời mạng ngươi hết rồi, sao còn dám ở trước
dinh kêu đán. Truyền cho quân binh giữ gìn nghiêm nhặt, có chửi mắng thì trối kệ
nhà nó". Chúng tướng vâng lệnh phòng giữ.
Nói về Triển Hùng đang lâm chiến, xảy nghe trên mây tiếng nổ vang rân, dừng
nai ngước mặt lên coi, thấy một cục sáng đỏ cây thần tiễn chói ngời rớt xuống ngay
đầu. Triển Hùng xem thấy rõ ràng, hồn bất phụ thể, bỗng nhớ trực nói: "Nó có bửu
bối, ta không bửu bối sao? Chi bằng ta liệng cái bửu bối của ta lên, đặng đánh với
tản thiên tiễn, coi thử thế nào?". Tính rồi lấy ra một cái như kim tiên, cầm nơi tay,
miệng thì đọch chú, nạt một tiếng kim tiên bay bổng trên không, thần tiễn bay
xuống, bửu bối đánh với bửu bối, vốn kim tiên là hổ vĩ, có thần tiễn là cù long, rồng
cọp đánh nhau ở giữa trời, tiếng nghe rang rảng. Triển Hùng thấy kim tiên đánh tản
thiên tiên bay xuống không được trong lòng rất mừng, nói: "Cái bửu bối của mình tài
năng như vậy, ắt chẳng hề chi, sao chẳng phá dinh nó cho rõ tài thủ đoạn ta". Nói rồi
giục mai huê lộc vào dinh Tần, hươi đao đánh giết, binh Tần kêu khóc vang trời, lật
đật chạy vào báo cho Vương Tiễn, Vương Tiễn cả knh thất sắc nói: "Vì làm sao đã
đến giờ ngọ ba khắc, mà không đâm nó chết, để cho nó đánh phá vào dinh, vì cớ chi
vậy?". Quay đầu xem thấy kim tiên thần tiễn đang ở giữa thinh không đua đánh, thì
biết là Triển Hùng, liệng bửu bối đánh với thần tiên ta, chi bằng ta lén thỉnh thần,
phá cái bửu bối ấy mới xong". Liền niệm chơn ngôn, xảy thấy một vị thần tướng,
đến trước cúi mình hỏi rằng: "Đòi tiểu thần có việc chi chăng?". Vương Tiễn nói:
"Không việc chi đâu, dám nhọc đến tôn thần, nay có Triển Hùng dùng kim tiên
đánh đở bửu bối tôi, cho nên chẳng hơn nó đặng, xin phiền Tôn Thần giúp sức, phá
kim tiên cho làm tản thiên tiễn thành công, chẳng được trái lệnh". Đinh giáp thần
làm chỉ, ra phép thần thông phá mất km tiên.
Lúc ấy tản thiên tiễn bay xuống, Triển Hùng quay đầu chẳng thấy kim tiên, thấy
tản thiên tiễn bay tới ngay đầu, la không xong quay nai tháo ra, toan chạy trốn, song
chạy đâu thoát khỏi, bị thiên tiễn đâm nhào xuống lộc, chúng tướng xông ra giựt
thây khiêng về. Cổ Đạt thấy Triển Hùng chết, trong lòng giận lắm, song biết giơ øngọ
rồi, thì thiên tiễn chẳng làm chi được, bèn chạy tới dinh Tần, kêu lớn rằng: "Vương
Tiễn hãy ra mà chịu chết". Quân vào phi báo, Vương Tiễn nghe nói thiên tiễn đâm
Triển Hùng chết rồi, thì niệm chú thâu thần tiễn về rồi đề mâu lên ngựa ra khỏi cửa
dinh, xem thấy một tên đạo nhân mặt mày dữ tợn, đang điệu võ giương oai, Vương
Tiễn nạt rằng: "Yêu đạo kia, mi ở xứ nào, sao dám đến đây chịu chết?". Cổ Đạt
mắng rằng: "Thằng lọ nồi, mi giết anh ta cứu ấy chẳng dung". Nói dứt lời, hươi gươm
chém sả. Vương Tiễn cùng cử mâu rước đánh, đánh tới vài mươi hiệp, xảy nghe
luồng gió bay tới, giữa thinh không có tiếng người kêu, nói: "Hiền đệ, ráng giết nó
mà trả thù cho anh". Lúc ấy Tiêu Cổ Đạt đang đánh với Vương Tiễn, xảy nghe có
tiếng người kêu, liền ngước mặt lên xem bị Vương Tiễn đâm một mâu trúng yết hầu
té nhào xuống đất, chúng tướng áp giựt thây đem về dinh, quân vào báo cho Tôn
Tẫn hay rằng: "Tiêu Cổ Đạt, Liễu Triển Hùng đều bị tử trận hết". Tôn Tẫn nghe
báo, thương xót không cùng, khóc nói: "Hai tổ sư vì tôi, nên đến đây bỏ mạng!". Bèn
hối quân sắm quan quách Tẫn liệm. Mao Toại nói: "Tam ca chớ thương khóc làm
chi, lúc ở trên núi, tôi năn nỉ hết lời, còn thiếu một điều lạy nữa mà va cũng chẳng
đi, tôi ngỡ là va có tài phép chi giỏi, không dè dở thật, đánh không hại Vương Tiễn,
mà để cho nó giết đặng mình, thì cũng chẳng nên tiếc mà làm gì". Tôn Tẫn nói:
"Mao hiền đệ chớ phân lời ấy không nên, vả hai sư thúc bị thác cũng bởi em nói
khích làm cho giận nên mới đến àm mắc tai nạn, và người cũng có lòng tốt mà đến
giúp anh". Bèn truyền bảy lễ vật điện tế vong linh, Tôn Tẫn bước tới quan tài quỳ
lạy, khóc lóc một hồi, rồi mao Toại cùng chúng tướng ra lạy, tế xong, dặn Vân
Thông cùng mấy tên học trò đem quan tài mai táng, rồi Tôn Tẫn viết một lá thiệp
giao cho Tôn Yên và dạy rằng: "Ngươi coi trong thiệp này mà làm, không đặng trái
lịnh". Tôn Yên lãnh thiệp, xem thấy dạy lấy ba ngàn cây gỗ, lảm ba trăm cái xe,
trục rộng năm thước, dài một trượng năm tấc, trước xe làm một cây ngang, mỗi bánh
xe đều cột trường thương, đoản kiếm vòng theo hai phía, trong xe để một cây bá tử
pháo, hẹn trong mười ngày xong hết các việc, Tôn Yên coi rồi lật đật kiếm một chỗ
đất trống dưới núi, cất trại khởi công đốc làm linh xa.
Nói về núi Bạch Huê, bà Lão mẫu, đang ngồi trong động, kêu Thẻ Vân đồng
nhi dạy rằng: "Mi kêu Sư muội (là chị em bạn học) của mi ra đây cho ta". Đồng nhi
vâng mạng ra sau động kêu Liêm tiểu thơ vào dưới bồ toàn, lạy ra mắt rồi quỳ
xuống, Lão mâu nói: "Thầy kêu con đến đây chăng có việc chi, nguyên vì vua Tần
dấy động can qua, Vương Tiễn gồm thâu sáu nước, trước đánh Giới Bài, anh em con
bị chết, kéo binh tới Dịch Châu, họ Tôn bốn người đều bỏ mạng nơi gươm báu, nay
Tôn Tẫn xuống núi ở ngoài thành Dịch Châu giao chiến đã lâu, nay thầy cho con
xuống đó, một là phối hiệp lương duyên, con có phận Chiêu Vương (là vợ vua) bên
nước Triệu, vốn ý trời đã định, thầy đâu dám trái, hãy sắm sửa mà đi cho mau".
Liêm tiểu thơ nói: "Thằng Vương Tiễn ấy là thằng bậc nào mà họ giết họ Liêm tôi
và chacon họ Tôn, đều chết sạch, hung hăng dữ tợn như vậy?". Lão mâu nói: "Con
chưa rõ nó vốn là con nuôi của cha con ngày trước, tập luyện thương pháp rồi nó trốn
đi tới Đông hải, nước Ảo Ly, động Vân Quang, học phép với ông Hải Triều thánh
nhơn, vâng sắc Ngọc đế gồm thâu lục quốc, nó có cây tru tiên kiếm, tản thiên tiễn,
hai vật bửu bối ấy, rất nên lợi hại đánh được kẻ tiên phàm". Tiểu thơ nói: "Nó vâng
ngọc chi phò tá giang san nhà Tần thì làm sao mà hơn nó được?". Lão mẫu nói: "Con
hãy đi đi không hề gì, Trượng phu của con là Tôn Yên vốn là sao kim tinh giáng
phàm, có phước đế vương ba năm sáu tháng, nơi trước Triệu, đất Hàn Đang, con có
phận Chiêu Vương hoàng hậu, nay con xuống đó vừa kỳ vợ chống hội hiệp, trả thù
rạng danh". Tiểu thơ nghe nói hai chữ phu thê, thì đỏ mặt tía tai thẹn thùa khôn xiết,
ngầm nghĩ hồi lâu bẩm rằng: "Nay con học tập chưa thông, e khi xuống đó không ích
gì?". Lão mẫu cười nói: "Con chớ quá lo, nay đao thiên tiễn, chưa có vật chi chế trừ,
hãy theo ta cho bửu bối này". Nói rồi đứng dậy bước ra sau động. Tiểu thơ theo đến
nơi, lão mẫu lấy ra một cái pháp bửu giao cho tiểu thơ mà nói rằng: "Vật này kêu là
cái thiên thế, hễ tản thiên tiễn thấy nó tức thì tự nhiên phản bổn hoàn nguyên". Tiểu
thơ tiếp vâng pháp bửu, rồi hỏi rằng: "Nay có qua luôn Dịch Châu hay là trở về nước
Triệu?". Lão mẫu nói: "Trước về nước Triệu, sau tới Dịch Châu, ghi nhớ vào lòng
quyết chẳng nên sát hại Vương Tiễn". Tiểu thơ nói: "Con xuống núi chưa có binh
khí, biết lấy gì mà đối địch?". Lão mâu nói: "Ta có một cây kim bối tù nhung đao,
xứng tay con dùng, vậy để thầy đưa trước xuống nơi huê viên nhà con rồi con Bạch
Huệ, cỡi mây bay về đến thành Hàn Đang, xuống mây đi bộ vào thành, Tiểu thơ
nghĩ thầm rằng: "Ta là con gái, chưa từng ta khỏi cửa buồng, vì ba năm trước du
ngoạn nơi chốn huê viên, thánh mẫu hóa trận thần phong đem ta lên núi tu chơn học
đạo, hôm nay về đây thì biết nhà ta ở chỗ nào?". Ngẫm nghĩ một hồi sực nhớ rằng:
"Lúc nhỏ ta ở nhà có nghe nói nơi tây phủ là chỗ nhà ta, chi bằng tới trước đó, hỏi
thăm người sẽ rõ".
Đi một đỗi xảy gặp ông già đàng kia đi lại. Tiểu thơ kêu lão ông: "Tôi xin hỏi
một điều, chẳng hay ông có biết Tây dinh phủ đi đường nào chăng?". Oâng già ấy đáp
rằng: "Cô muốn hỏi Tây phủ Liêm lão gia phải không? Cách đây chẳng xa, đi thẳng
qua phía đông rồi quẹo lại, có một tòa của lớn là chỗ đó, hôm nay không sánh được
như khi trước, vì cửa nhà vắng vẻ quạnh hiu, chẳng có tướng quan chầu chực, còn có
ít tên gia đình đứng ngoài cửa mà thôi. Tiểu thơ nghe nói từ biệt ông già ấy, qua phía
đông đi quẹo lại, quả thấy có tòa lầu, có một tấm biển phết vàng, đề hai chữ Tây
Phủ. Tiểu thơ gật đầu than thở, xem thấy một người lão thương đầu (là người đầu
bếp) bước ra, thấy tiểu thơ thì hỏi rằng: "Cô này đứng trước cửa tôi mà ngó chi đó
vậy?". Tiểu thơ coi kỹ, nhìn biết, hỏi rằng: "Ông có phải là lão thương?". Tiểu thơ
nói: "Ông nhìn tôi coi là ai đó? '. Thương đầu bước lại gần nói: "Tôi là Liêm Tú Anh
đây". Thương đầu ói: "Tiểu thơ tôi lúc ba trước bị gió thổi bay mất, nay ở đâu mà về
đây?". Tiểu thơ nói: "Nay tôi mới về, hãy vào thông báo cho mau". Thương đầu
nghenói vui mừng chẳng xiết, chạy tuốt vào trong. Hễ là người có tuổi tác lớn hơn
rồi, thì đầu nặng chân nhẹ, phần thì chạy mau quá, vập nghạch cửa té nhào lăn
xuống đất, miệng la vui lắm, vui lắm. Liễu Hoàn cười ré lên, hỏi rằng: "Lão già, có
chuyện chi mà mừng quýnh vậy?". Thương đầu nói: "Ngươi mau vào báo cho thái
thái hay, nói tiểu thơ của ta đã về". Liễu hoàn hỏi: "Tiểu thơ ở chỗ nào?". Thương
đầu nói: "Đi báo cho mau tiểu thơ còn đứng ngoài cửa". Liểu Hoàn mừng lắm, chạy
tuốt vào hương phongkêu rằng: "Thái thái vạn thiên chi hỉ, nay tiểu thơ mới về". Phủ
nhân hỏi: "Ở đâu?". Liễu Hoàn nói: "Đứng ngoài cửa". Phu nhân nghe nói dường
như hột minh châu trên trời rớt xuống bàn tay, lật đật dẫn tỳ nữ nữ ra trước đại môn,
ngước mắt ngó thấy quả thiệt Tú Anh, phu nhân bước tới ôm con, hai hàng nước mắt
chảy tuôn kêu: "Con ôi! Từ lúc ở huê viên bị gió thổi mất, đã ba năm bặt vô âm tín,
mẹ tưởng là không thấy con được nữa, nào hay hôm nay gặp mặt". Mẹ con dắt tay
vào hậu đường, phu nhân ngồi, tiểu thơ cúi lạy, phu nhân đỡ dạy nói: "Con chớ làm
lễ, hãy ngồi cho mẹ hỏi thăm, từ bấy lâu nay con ở đâu?"
Tú Anh nói: "Lúc tháng ba năm trước, con đi dạo huê viên xem chơi bông trái,
chẳng biết ở đâu bay đến một bà già đầu bạc như sương, mà mặt mày còn trẻ, xưng
rằng: "Lão mẫu ở núi Bạch Huê, đi phò hội nơi cung Ngưu đẩu trở về, đang bay trên
mây thấy con bèn hóa phép thần phong, bắt đem con về núi, dạy truyền mười tám
ban võ nghệ, nay có con học đao mã tinh nhuần, thần thông uẩn diệu, lại có phép hộ
thân, người nói con có phận làm Chiêu Vương, nên sai con xuống núi kiến công lập
nghiệp,cùng Vương Tiễn đối địch". Phu nhân nghe nói, nước mắt ướt mặt, nói: "Con
đi đã ba năm, đâu võ việc nhà, anh lớn của con là Liêm Minh, bất hạnh bị chết nơi
tay Bàng Quyên, cha con qua đời, để lại một mình, anh thứ hai của con trấn giữ Giới
Bài chẳng dè con là Vương Bôn đầu thuận giặc Tần, anh con giận ra trận cùng
Vương Tiễn giao chiến, chẳng may lại chết nơi tay Tần tặc, nay cửa nhà quạnh vắng,
may có con về đây cùng mẹ già có bạn, hẩm húc húc già. Nói rồi mũi dạ khóc ròng.
Tú Anh nghe nói, trợn mắt dựng mày mắng rằng: "Tần Tặc, sao mi dám sát hại anh
ta, nay ta xuống núi, quyết cùng mi so tài cao thấp mà trả đại cừu". Phu nhơn nói:
"Con ôi! Con chưa rõ đặng thằng Vương Tiễn lợi hại không vừa, lãnh binh vây
thành Dịch Châu, một nhà họ Tôn bốn mạng đều chết hết, nhờ có con rể ta là Tôn
Yên lên núi Thiên Thai thỉnh tam thúc con xuống Dịch Châu bày binh bố trận, nhưng
mới nghe cái tiên thiễn của Vương Tiễn bắn chết. Vương Tiễn nó lợi hại như vậy,
làm sao mà trả thù được". Tiểu thơ nói: "Xin mẹ chớ lo, con trẻ ở trên núi học tập
học võ nghệ, tinh thông, vâng mạng thầy xuống núi, nguyện báo cứu lập công, có lẽ
nào ngồi ngó sao". Lúc đang chuyện văn thì trời đã tối, phu nhơn nói: "Thôi việc báo
cứu hãy chậm rãi lo lường, con ly biệt đã lâu, hãy vào tư phòng chuyện vãn, nghỉ
một đêm rồi sẽ tính". Kế liễu hoàn bưng đèn, phu nhơn cùng tiểu thơ vào phòng
dùng cơm rồi đi ngũ.