hết ba ngàn binh mã. Thủy Hoàng nổi giận truyền chỉ bắt bốn tướng chém đầu răn
chúng. Lúc ấy Cam La bước ra tâu rằng: "Xin bệ hạ dưới đao dung người, tôi cũng
có nghe rằng: Ba quân dễ đặng, một tướng khó tìm, nay mà bốn tướng sa cơ thất
trận, lẽ phải tránh theo phép nước, song bât giờ đang lúc bệ hạ gồm thâu sáu nước,
một thành Dịch Châu này mà chưa phá đặng, nếu trước chém bốn đại tướng, tôi e
làm như vậy thì e làm như vậy thì ngăn trở lòng quân, cầu xin bệ hạ ra ơn, tạm dung
tội chết cho người chờ ngày sau lập công chuộc tội". Thủy Hoàng nhận theo lời tấu
Quan đương giá, liền tha bốn tướng, bốn tướng vào trướng lạy tạ. Thủy Hoàng nói:
"Trẫm vì tình Thừa tướng, dung thứ một phen, ngày sau phải hết lòng báo nước". Rồi
hỏi rằng: "Bạch Viên ở đâu chăng thấy?" Vương Tiễn tâu rằng: "Bạch tướng quân
đánh ở phía tây, thua chạy giữa đàng lại gặp Tôn Tẫn, chẳng rõ vì cớ nào mà chết
nơi giữa loạn quân". Thủy Hoàng nghe nói sa nước mắt mà rằng: "Tiếc thay! Một
viên đại tướng chết không minh bạch". Lại hỏi: "Quân sư vì sao mà không thấy?"
Chương Hàng tâu rằng: "Tử Lăng lên pháp đài làm phép chẳng biết đi đâu, có khi va
bị hao binh tổn tướng, cho nên hổ thẹn chẳng mặt mũi nào về thấy bọn tôi, ắt là tới
các danh sơn động phủ thỉnh người cao nhơn xuống núi trả thù cũng chưa biết chừng,
xin bệ hạ hãy chậm rãi vài ngày xẽ tường cội rễ". Thủy Hoàng thở dài mà rằng:
"Trẫm nay đã cỡi lên lưng cọp rồi, thế khó xuống đặng". Bèn dạy Mông Điềm lãnh
chỉ, kíp về Trường An điều thủ cứu binh đến cho mau mà tiếp ứng. Mông Điềm lãnh
chỉ ra khởi dinh, suốt đêm trở về Trường An cầu cứu.
Nói về Tôn Tẫn cả thắng về dinh miệng niệm chơn ngôn thâu phép độn giáp, rõ
bày một tòa dinh bàn, rất nên tề chỉnh. Bèn lên trướng báo công, tôn Tẫn truyền
lệnh kéo cờ phát pháo, theo ra thành giao chiến, truyền lệnh xong rồi, thót lên thanh
ngưu, chúng tướng rần rộ theo sau, tuốt lên dinh Tần, dạy quân kỳ bài tới trước khiêu
chiến. Quân vào phi báo, Thủy Hoàng thất kinh, nói: "Quả thiệt Tôn Tẫn chưa chết,
trẫm nay binh hèn tướng ít, khó bề chống cự, chi bằng rút quân về nước, sau sẽ toan
mưu khác". Vương Tiễn nghe nói, trong lòng chẳng đẹp, bước ra tâu rằng: "Nước
Tần ta là nước lớn đường đường, há đi sợ một nước nhỏ sao? Tôi tuy bất tài, xin ra
trận này mà bắt thằng Tôn Tẫn trả thù". Thủy Hoàng mỉm cười nói: "Tiên hành
quan, tuy có sức mạnh, song không phải là tay đối thủ với Tôn Tẫn đâu, ngày trước
bị nó đánh manh giáp chẳng còn, nay không nên làm mất oai phong nước ta nữa".
Vương Tiễn nghe Thủy Hoàng chê mình, thì trong lòng bồi hồi, tâu rằng: "Tôi chẳng
dám khoe khoang lỗ miệng, thiệt lòng cùng Tôn Tẫn thề chẳng chung đứng trong
trời, nay tôi ra trận tình nguyện liều chết đánh nó, như thắng thằng cụt, thì công ấy
sẽ chuộc tội kia, nếu có thua nữa, thì tôi cam hại tôi". Thủy Hoàng nghe Vương Tiễn
nài nỉ hoài, túng phải nghe theo. Vương Tiễn lạy tạ luôn ra, trở về trướng nai nịt hẳn
hòi, nói với chúng tướng rằng: "Ngày nay ra trận, không phải tầm thường như mấy
trận trước đâu, quyết liều chết với Tôn Tẫn mà thôi, vậy chúng ngươi phải hết lòng
bắt cho đặng thằng cụt chân, ta sẽ trọng thưởng". Chúng tướng đáp rằng: "Chúng
xong rồi, để mâu lên ngựa dẫn chúng tướng ra dinh, ngó thấy Tôn Tẫn thì giận lắm,
hươi mâu đâm nhàu, Tôn Tẫn hươi gậy rước đỡ, và cười lớn rằng: "Vương Tiễn hãy
dừng tay đã, ta muốn phân giải đôi lời, chẳng biết ngươi có khứng nghe chăng?
Ngươi là người hảo hán, thiên hạ thường khuyên rằng: "Nước Tần có Bạch Viên,
Vương Tiễn, nước Triệu có Liêm Pha, Lý Mục, dụng binh như thần, nay Liêm Pha,
Lý Mục, Bạch Viên hồn đã về trời, còn một mình ngươi đó mà thôi, ngươi phải hiểu
thông thời vụ, tri bỉ tri kỷ, trăm trận trăm thắng, ta lợi hại thế nào, ngươi điều rõ biết,
chi bằng quày ngựa trở về, tâu với Thủy Hoàng rút binh về nước, cùng các nước
giảng hòa, muôn việc điều thôi, nếu còn chậm trễ, ắt ngươi không chịu nổi một gậy
của ta". Vương Tiễn nghe nói nổi giận nạt rằng: "Thằng cụt sao dám buông lời nói
phách". Nói rồi hai tay hươi mâu đâm tới, Tôn Tẫn rước đánh. Đánh đến vài mươi
hiệp, Tôn Yên ở nước dinh lược trận, xem thấy khen thầm rằng: "Tam thúc mình (là
chủ thứ ba), quả nhiên võ nghệ cao cường". Nhìn hai người đánh luôn đến ba mươi
hiệp nữa, không phân thắng bại, mâu qua gậy lại, gậy đánh mâu đỡ nhộn nhàng,
Tôn Yên cả giận, giục ngựa hươi kích xông ra tiếp đánh Tôn Tẫn, Tôn Yên đánh
vùi, làm cho Vương Tiễn mệt đà thở dốc, lúc ấy chúng tướng Toàn sơn áp ra một
lượt phủ vây Vương Tiễn. Vương Tiễn đánh với Tôn Tẫn một người còn khó nỗi
chống ngăn, có đâu mà cự cho lại một phe học trò của Tôn Tẫn. Hai bên quân binh
cả giết một trận, binh Tần kêu khóc vang rân, bốn phía vỡ chạy. Vương Tiễn đâm đỡ
một mâu, đánh khai một đường huyết lộ chạy dài, Tôn Tẫn ở sau rượt tới kêu lớn
rằng: "Vương Tiễn mi chạy đi đâu". Rồi hươi gậy nhắm ngay đầu đánh xuống.
Vương Tiễn quay lại nhìn thấy, cả kinh trở không kịp, bị một gậy sau lưng té sấp trên
yên, thổ huyết chạy dài. Tổn Tẫn thấy Vương Tiễn chạy xa, truyền lệnh gióng
chiêng thâu binh.
Nói về Vương Tiễn thất cơ thua chạy, bị một gậy về dinh xuống ngựa. Vương
Bôn cùng chúng tướng phò đỡ vào trướng, ra mặt Thủy Hoàng xin tội. Thủy Hoàng
thấy Vương Tiễn mặt như giấy vàng, cúi đầu mặt sắc, thì biết va bị thua về đây, bèn
nói: "Trẫm đã đôi ba phen ngăn trở, mà ngươi gắng gượng đòi đi, nay đã bị thương,
trẫm dung thứ tội, thôi hãy về đình điều dưỡng, thuốc thang mạnh rồim, sẽ ra mắt
trẫm". Vương Tiễn lại ta lui ra, về trướng mình điều trị vết thương.
Nói về Kim Tử Lăng lúc ở trên pháp đài làm phép, thì ngỡ là phá đặng thành
Dịch Châu, không dè bị Tôn Tẫn đánh một trận hỏa công, làm cho binh tướng cả
thua, và bị Triển Lực, Lý Tông đán lên pháp đài, cự không nổi độn thổ chạy mất, hổ
thẹn trăm bề, không mặt mũi nào về thấy Thủy Hoàng, tính qua Đông Hải, động
Vân quang, đặng cố thỉnh thầy mình xuống núi. Đang đi trên mây bỗng thấy một tòa
nhà núi cao, mười phần hiểm trở. Tử Lăng có ý khen thầm, bèn bay xuống núi, xem
khắp bốn phía, thấy tùng xanh liễu tía, cụm trước xum xuê, tiếng nước chảy, sóng
bủa ba đào, luồng gió phất phơ, muôn hoa xao động, quả thật phong cảnh khen thầm,
bèn tướng rằng: "Người sanh trong cõi, quan âm thấm thoát, dường như ngựa qua lỗ
hở, tranh danh đoạt lợi, luống nhọc nhặn, tham luyến cõi trần, nào có ích chi, ta là
Kim Tử Lăng đây non cao học tập, thành nhàn không việc, nhân vì bảo hộ Thủy
Hoàng gồm thâu sáu nước, xuống nơi sát giới (là chỗ đau thương chém giết), trọn
ngày chẳng được an ninh, lại bỏ thú vui chơi sơn thủy thanh nhàn, biết bao giờ ta
được thành công, mà trở về động tiêu diêu thong thả". Than thở một hồi nghĩ thầm
rằng: "Ta xem đã nữa ngày, mà không rõ nơi này tên núi là chi". Quay đầu nhìn thấy
một tấm bia đá có khắc ba chữ: "Dược lâm sơn. Coi rồi vừa muốn dời gót ra đi, bỗng
nghe tiếng người kêu, là ai biết ta mà kêu, chẳng dè Châu Huệ Trân đạo huynh đó
mà". Liền vội vàng bước ra tới xá nói rằng: "Xin chào đạo huynh". Tên đạo nhân lật
đật đáp lễ, hai người ngồi trên hòn đá ngọa ngưu. Tử Lăng hỏi rằng: "Đạo huynh,
sao không ở trong động, tu chơn luyện tánh, lại đến chỗ này làm dạo chơi?". Tên đạo
nhân cười rằng: "Tôi ở trong động không có việc chi, thường đến chỗ này cùng với
một vị Chơn nhơn giải muộn, không dè ngày nay tình cờ lại gặp anh ở đây, thật rất
vui mừng. Tôi nghe đạo huynh làm chức Quân sư, hưởng lộc giàu sang trong đời,
vĩnh hiển biết là có việc chi chăng?". Tử Lăng thở dài một tiếng, mặt có sắc thẹn,
đáp: "Đạo huynh đâu rõ việc bổn phận của tôi, tuy là tôi xuống núi, ở nơi trướng
Thủy Hoàng, mặc áo mãng bào, lưng mang ngọc đái, làm chức Hộ quốc quân sư, ở
dưới một người ngồi trên trăm họ, thiệt cũng vinh dự đó chút, nhưng mà anh đâu rõ
được sự cực nhọc của tôi". Huệ Trân hỏi: "Anh ở bên nước Tần, chẳng hay có việc
chi lo được chăng." Tử Lăng bèn đem việc binh thua Dịch châu, bị Tôn Tẫn che sao
độn giáp, lén mai phục nhơn mã, dùng trận Hỏa công, đốt cháysáng trời, làm cho
quân binh chẳng còn manh giáp, rất nên hổ thẹn, và đem hết các việc trước thuật lại
một hồi. Châu Huệ Trân nói: "Nguyên hai tướng huynh chịu lấy cái giận ấy, nay
toán đến chỗ nào?". Tử Lăng nói: "Làm người chẳng trả oán cứu ấy, uống chí đấng
trượng phu, tôi nay tính trở về thỉnh thầy tôi xuống núi, bắt Tôn Tẫn trả thù rửa hận".
Châu Huệ Trân nói: "Cắt cổ gà đâu dùng dao trâu, tôi tưởng lại Tôn Tẫn có tài nghệ
chi cho lắm, mà làm khinh động đến Hải Triều thánh nhơn, bây giờ đây có một ông
thầy cùng với thằng Cụt oán thù, vậy tôi cùng anh đến đó, thỉnh va xuống núi, mà
bắt Tôn Tẫn, để như thò tay trong túi lấy đồ".
Tử Lăng rất mừng hỏi rằng: "Chẳng hay anh nói người ấy là ai, mà ở chốn nào?".
Châu Huệ Trân nói: "Xa ước xa ngàn chăng?". Tử Lăng nói: "Thuở nay tôi chưa từng
gặp mặt". Huệ Trân nói: "Hèn chi mà anh không hiểu, ngày trước ông thầy ở động
này tên là Hùynh Bá Đương, bị Tôn Tẫn làm hại đến nay cứu ấy chưa trả được, em
của người là Huỳnh Thúc Đương ở đây, tu chơn luyện tánh, nếu anh đến đó mà thỉnh
người, thì chắc là người chịu đi". Tử Lăng cả đẹp, rồi hai người đứng dậy, dắt nhau
qua khỏi vài đỉnh núi, xem thấy một cái cửa động, có tên đồng tử đang chơi trước
cửa. Châu Huệ Trân tới bước hỏi rằng: "Thầy ngươi có ở nhà chăng?". Đồng Nhi đáp
rằng: "Thầy tôi ở trong động, đang cùng Tẫn chơn nhơn đánh cờ". Huệ Trân nói:
"Ngươi mau vào thông báo". Đồng Nhi nghe nói, liền vào trước mặt Huỳnh Thúc
Đương thưa rằng: "Nay có Châu nhơn, ở Vân quan cùng với một Tẫn chơn nhơn
xuống thềm nghinh tiếp. Thúc Dương hỏi rằng: "Vị này là ai?" Huệ Trân nói: "Người
này vốn là học trò của ông Hải Triều thánh nhơn, ở động Vân quanh vâng sắc mạng
xuống phó tá Tây Tần, gồm thâu sáu nước, làm quan Hộ quốc quân sư, họ Kim hiệu
là Tử Lăng". Thúc Đương nói: "Nguyên lai Kim Tử Lăng đạo huynh đósao?. Tôi có
lòng trông tưởng đã lâu". Bốn người đều phân chủ khách mà ngồi uống trà, Huỳnh
Thúc Đương nói: "Tử lăng đạo huynh, anh đã ở nơi Trường An lộc giàu sang trong
đời, vì sao mà đến núi hoang này, có việc chi chăng?". Tử Lăng đứng đậy đáp rằng:
"Đệ tử (là tiếng nói khiêm tốn chớ không phải thiệt học trò Thúc Đương đâu) tuy
rằng ở đất Trường An, phò tá Thủy Hoàng, hưởng việc giàu sang, chẳng dè mới đây
chịu lấy cái khổ vô cùng". Thúc Dương hỏi: "Khổ ấy vì đâu mà ra vậy? '.
Tử Lăng sa nước mắt, bèn đem việc binh đánh Dịch Châu, đầu đuôi thuật lại cho
Thúc Dương nghe, và bị Tôn Tẫn dùng trận hỏa công, đốt chết quân binh vô số và
nói: "Nay tôi muốn đến Đông Hải đặng thỉnh thầy tôi xuống mà giúp sức, đi ngang
qua báu sơn này (là núi báu, iếng kính trọng) xảy gặp Châu đạo huynh, nói đây có
động của thầy, nên tôi vào ra mắt". Thúc Dương nghe rồi nạt lớn lên, trợn mắt dựng
mày, giận lắm nói rằng: "Nếu vậy thì đạo huynh mắc thằng cụt phải không?". Tử
Lăng hỏi: "Đệ tử bị nó làm hại, vì cớ nào mà thầy có sắc giận dữ như vậy?". Thúc
Đương nói: "Ta cùng thằng cụt ấy, vốn có cái cừu một trời dông dài, thằng Cụt ấy nó
chẳng qua là con thứ ba của Tôn Tháo, ở phủ Yên Sơn tên là Tôn Tẫn, vào núi Vân
Tịch, động Thủy Liêm học nghệ, vốn học trò của Vương Thuyền quỷ cốc, lúc trước ở
nước Ngụy, đất Hà Nam, cùng với Bàng Quyên thù oán, rồi bị Bàng Quyên dùng kế
chắt đứt mười ngón chân, hóa ra một thằng vô dụng, lúc nọ vua Tể Mẫn Vương sai
đại phu là Bốc Thương, lén đem về nước, phong làm Nam quận vương chức Á phụ
đề binh qua Hà Nam trả thù, nó thiệt là thằng xảo kế rất nhiều, dùng kế giảm táo (là
bớt xếp lửa) gạt Bàng Quyên đến đường Mã lục, bị loạn tên mà chết, vậy nên thằng
cụt nồi danh thiên hạ, bảy nước chư hầu đều nhượng nước Tề là nước trên, đến sau
Tề Xuân vương giá băng (chết) Mẫn vương vô đạo, mê đám nàng Trân Phi, chẳng
xem việc triều chánh, ba lần xua Tôn Tẫn, lửa đốt cung Tuyền Dương, sau nước hiệp
binh đánh vua vô đạo, lúc ấy Yên Chiêu Vương, nơi điện Kim Thai tôn soái, trọng
dùng Nhạc Nghị, dấy binh đánh Tề, phá đất Quận Hải và đất Lâm Tri, nơi rừng
Hạnh Điệp, giữa đường gặp giết Trân Phi, phơi nắng Mẫn Vương, các quan văn võ
nước Tề, bảo phò ấu chúa, đồn binh núi Thiên La, bang Hồng Từ, Nhạc Nghị lãnh
binh vây khốn Hồng Từ, Viên Thuật xông ra đối địch, bị thần sa của Nhạc Nghị mà
thác, lúc ấy Tôn Tẫn xuống núi. Nhạc Nghị có đâu mà cự lại Tôn Tẫn, cho nên nó bị
bắt đem về núi đánh hai chục côn. Nhạc Nghị chịu sao nổi, túng phải năn nỉ ở làm
tôi tớ, vậy chớ đạo huynh có biết thầy của Nhạc Nghị là ai không?". Tử Lăng nói:
"Đệ tử đâu rõ đặng". Thúc Đương nói: "Vốn là anh của tôi, ở động này tu luyện,
hiệu là Bá Đương, cùng với Vương Thuyền, Vương Ngao bạn học đồng thầy, anh tôi
hay đặng cớ sự như vậy, nổi giận xuống núi, cùng với Tôn Tẫn giao chiến, chẳng dè
ra trận rủi bị Tôn Tẫn làm thua, túng phải khai sát giới (là sanh lòng chém giết), bày
ra cái trận kêu là Âm hồn trận, mà vây Tôn Tẫn, rồi bị Mao Toại trộm thuốc linh
dơn cứu nhưng mà cũng không ra khỏi đặng, đến sau anh em Vương Thuyền thỉnh
Chưởng giáo Nam Cực xuống núi, dùng câu tiên bài (là cái bài để bắt các tiên) mà
anh bắt tội, đánh tám mươi trượng, lột mất đinh thượng tam huê (là ba cái bông trên
mão) thành ra xác phàm mà chết nơi Hồng Từ Cốc, hóa ra làm con hạc trắng một
chân, cũng vì Tôn Tẫn làm ra cớ sự như vậy, tôi cùng nó cừu sâu như biển, nếu
không nói ra có khi đạo huynh chẳng biết".
Tử Lăng nói: "Nguyên lai thầy với Tôn Tẫn có cừu sâu, nay đệ tử muốn thỉnh
thầy xuống núi ra mắt Thủy Hoàng, toan mưu ra kế mà bắt Tôn Tẫn, một là cùng
huynh trưởng trả thù, hai nữa là rõ tài thần thông của thầy, dẹp an sáu nước, để tiếng
lại ngàn thu'. Lúc ấy Châu Tần hai vị chơn nhơn ngồi một bên nói tiếp rằng: "Nếu tổ
sư bằng lòng giúp sức cùng tôi, thì tôi tình nguyện xuống núi, thì anh em tôi rán sức
giúp giùm". Thúc Đương nói: "Hai vị nếu quả thiệt bằng lòng giúp sức cùng tôi, thì
tôi tình nguyện chẳng chung trời, vậy thì chúng vị ở đây vài ngày, rồi đi một lượt với
nhau". Tử Lăng nói: "Cứu binh như cứu lửa, xin hai thầy kịp xuống cho mau". Châu,
Tần hai vị chơn nhơn nói: "Hãy chờ một chút, đặng chúng tôi về động lấy pháp bửu,
qua Dịch Châu giao chiến". Thúc Đương nói: "Có đi thì đi cho mau, lại cho chóng,
kẻo chờ đợi lâu ngày". Hai vị chơn nhơn cáo từ về động, giây phút đều đến núi Dược
Lâm, cùng với Thúc Đương hộ thân bửu bối, ra động cỡi mây bay thẳng qua Dịch
Châu, giây phút đến nơi, Tử Lăng nói: "Xin chúng vị hãy ở đây chờ một chút, để tôi
vào trước thỉnh vua Tần bày giá nghinh tiếp, mới rõ lòng trọng kẻ hiền tài". Tử Lăng
nói rồi thẳng vào viên môn, qua Lam kỳ giữ gìn ngó thấy Kim Tử Lăng thì mặt vui
phơi phới, hỏi rằng: "Quốc sư đi đâu mà về vậy?". Tử Lăng nói: "Tôi đi thỉnh chơn
nhơn đã đến, ngươi mau mau vào báo". Lam kỳ quan vội vàng vào trướng tâu cùng
Thủy Hoàng. Hoàng nghe nói rất mừng mà rằng: "Trẫm ngở kà Quốc sư đã bị lửa
cháy rồi, hay đâu còn sống".
Liền truyền chỉ mời vào. Lam Kỷ trở ra truyền lệnh, Tử Lăng theo vào đến
trướng chầu lạy xong rồi, tâu rằng: "Tôi có thất cơ bị thua, ngửa trông lượn thánh bao
dung". Thủy Hoàng nói: "Thắng bại binh gia lẽ thường, trẫm tha khanh vô tội". Tử
Lăng tạ ơn tâu rằng: "Lúc tôi bị thua, rồi tuốt đến thánh sơn, thỉnh đặng ba vị chơn
nhơn xuống núi giúp bệ hạ đặng bắt Tôn Tẫn trả thù, còn ở ngoài dinh chờ lệnh".
Thủy Hoàng nghe nói rất mừng mà rằng: "Nếu có chơn nhơn đến đây, vậy thì mở
hoắc cửa dinh, đặng trẫm dẫn bá quan ra nghinh tiếp". Tử Lăng lạy tạ, văn võ ra đến
dinh tiếp rước, ba vị chơn nhơn xem thấy Thủy Hoàng bèn dẫn bọn Cam La, Chương
Hàng, cùng một phe văn võ ra đến dinh tiếp rước, ba vị chơn nhơn xem thấy Thủy
Hoàng ra đnh, vội vàng bước ra lạy ra mắt, và nói rằng: "Chúng tôi có tài đức chi,
dám đâu làm nhọc đến thánh chúa phải ra dinh tiếp rước". Thủy Hoàng nói: "Nước
trẫm thiệt rất may, nên có tiên trưởng xuống phàm giúp sức". Nói rồi mời ba vị chơn
nhơn vào Kim dinh huỳnh la bửu trướng, phân chủ khách ngồi uống trà, và bày chỗ
động núi, cùng là tên họ đạo hiệu, lại hỏi Thủy Hoàng rằng: "Mấy ngày rày có cùng
Tôn Tẫn giao chiến chăng?". Thủy Hoàng thở dài đáp rằng: "Trẫm đâu dám phát
binh, thằng Tôn Tẫn ấy thần thông quảng đại, nguy kế rất nhiều, hôm trước bị một
trận hỏa công của nó, trẫm đã kinh lòng vỡ mật, ba quân bài, trông chờ Trường An
binh cứu, đặng chúng nó định quyết hơn thua, nếu thua một lần nữa, thì phải lui về
Hàm Dương, chẳng dám mong tưởng đến việc gồm thâu sáu nước". Thúc Dương nói:
"Xin bệ hạ hãy an lòng, nay tôi xuống đây, quyết bắt cho đặng Tôn Tẫn, mà trả thù
cứu xưa". Thủy Hoàng nói: "Việc ấy đều nhờ nơi phép diệu của chơn nhơn". Bèn
truyền bày tiệc thiết đãi. Thủy Hoàng ở nơi đại tướng, cùng ba vị chơn nhơn và quan
lớn nhỏ uống vùi rất vui, đến tối tiệc tan ba vị chơn nhơn vào trướng an nghỉ một
đêm, qua ngày thứ hừng sáng, Thủy Hoàng lên trướng văn võ chầu lạy xong rồi, ba
vị chơn nhơn cũng vào trướng mà ngồi. Thúc Đương tâu rằng: "Ngày xưa xin Thánh
thượng cho tôi ra cùng Tôn Tẫn giao chiến".
Châu chơn nhơn nói: "Có đâu phải nhọc đến tổ sư ra trận, để cho tôi ra đánh trận
đầu". Thủy Hoàng cười nói: "Nhờ chơn nhơn ra sức, trẫm trông nghe tin tức". Châu
Huệ Trân hăm hở xuống trướng, sửa mão đạo quan, cột dây tư điều, miệng niệm
chơn ngôn, lấy tay chỉ qua phía nam kêu rằng: "Khước lực (là con thú dùng cỡi cho
đỡ chân) của ta ở đâu?". Xảy thấy một trận gió thổi tới ù ù, giữa thinh không hay
xuống ba con thú rất kỳ lạ, một con bát hoa mai huệ lộc (con nai mình có bông), một
con kim tiền báo (con beo có đốm tròn như đồng tiền), một con bạch ngạch hổ (là
con cọp trắng trán, đều ngoắt đuôi nhìn chủ, con mai huệ lộc thì tới trước Huỳnh
Thúc Dương, con kim tiền báo thì nhìn Tần đạo nhơn, con bạch ngạch hổ quỳ trước.
Chân chơn nhơn, làm cho ba quân người người kinh sợ chẳng xiết. Châu Huệ Trân
thót lên lưng cọp ra dinh, dạy quân dịep miễn chiến bài, rồi phát ba tiếng pháo, tuốt
đến dinh Yên, nói với quân giữ cửa rằng: "Quân! Bây mau vào báo với Nam quân
vương Tôn Tẫn hay rằng: "Nay có ta là Châu chơn nhơn đến đây kêu đánh, bảo Tôn
Tẫn phải ra cho ta nói chuyện". Quân vào báo, Tôn Tẫn nghe báo, liền sai Tôn Yên
ra dinh đối địch, và dặn rằng: "Khi nãy quân báo nói có tên đạo nhân, phải giữ gìn
yêu thuật tà phép, cho hết lòng cẩn thận". Tôn Yên vâng mạng đề kích lên ngựa
phất cờ nổ pháo, hai bên có hai cây cờ trắng, giục ngựa bạch long câu, tới trước trận.
Huệ Trân ngó thấy nạt lớn rằng: "Tiểu tướng khoan tới, hãy thông tên họ đã. Tôn
Yên hươi kích chỉ và hỏi rằng: "Thằng đạo nhân kia, mi là người nào mà nhìn không
biết ta là Tôn Yên bên Dịch Châu đây?". Đạo nhân cười rằng: "Ta ơ động Hỏa vân
tu luyện nhiều năm, đạo hiệu Huệ Trân, cũng là người đạo đức, có đâu biết được mi
là đứa tiểu bối vô danh, kíp mau kêu thằng cụt mi ra đây, hãy còn đánh được ít hồi,
chớ mi là thằng tiểu bối, khổ gì ra mà chịu chết". Tôn Yên nghe nói nạt rằng: "Giả
Trương đạo chạy đâu, hãy coi ta lấy đầu mi". Vừa nói vừa hươi kích ngay chơn nhơn
đâm tới, chơn nhơn hươi gươm rước đánh, đánh đến hai mươi hiệp, chưa định ăn thua,
Tôn Yên thấy khó hơn yêu đạo, bèn ráng sức tinh thần, hươi kích vùn vụt, tợ núi
thương nhấp nháng, đâm dưới đánh trên, nhộn nhàng túi bụi, làm cho Huệ Trân sức
mỏi gân yếu, khó nổi trở đương, đâm bạy một thương bỏ chạy. Tôn Yển chẳng bỏ,
giục ngựa đuổi theo. Huệ Trân quay đầu ngó thấy rất mừng, vội vàng thò tay vào túi,
lấy ra một cái Tỉ hồ lô, cầm nơi tay, giở ra, miệng niệm chơn ngôn, nạt lớn rằng:
"Thằng tiểu bối, chớ ham rượt, hãy coi bửu bối của ta". Tôn Yên đang giục ngựa rựơt
theo, nghe nói bửu bối, liền dừng ngựa xem coi, thấy Huệ Trân cầm hồ lô vụt ra ít
cái, thì xông ra một lằn khói đen, kế đó lửa cháy rần rần, Tôn Yên bị một trận hẩn
hỏa cả thua chạy dài. Huệ Trân đắc thắng về dinh, Thủy Hoàng chúc mừng thưởng
công.
Lúc ấy Tôn Yên thua chạy về dinh, vào trướng quỳ xin tội, Tôn Tẫn nói: "Thắng
bại là việc thường, ngươi có tội chi đâu, về trướng an nghỉ?" tôn Yên lui ra, kế quân
vào báo nói: "Nay có một đao nhân ở bên dinh Tần đến, hình dung quái lại, tướng
mạo dữ dằn, cỡi một con thú rất kỳ, cầm cây Lang nha bổng, mười phần lợi hại đang
ở trước dinh kêu đánh, xin Vương gia toan liệu". Tôn Tẫn nghe báo, kinh nghi chẳng
xiết, nói rằng: "Sao mà lại đến một người đạo nhân, chẳng biết trong dinh nó còn
đạo nhơn nhiều ít". Bèn hỏi: "Có ai dám ra chăng?". Xảy nghe một tướng, tiếng như
Chuông đồng, xông ra xa nói: "Tôi xin đi". Tôn Tẫn xem thấy Lý Tòng thì nói:
"Ngươi có ra trận phải tiểu tâm cẩn thận". Lý Tòng lãnh binh trở về nai nịt tề chỉnh,
đi bộ chẳng cỡi ngựa, tay cầm đại đao, xông ra trước dinh xem thấy một người đạo
nhơn, mười phần dự tợn, đầu đội kim niếp, mặc áo bát quái bào, tóc bỏ râu dựng,
mắt như lục lạc, răng lựa lưỡi cưa, cỡi con kim tiền báo, tay cầm lang nha bổng, liền
nạt rằng: "Thằng cỡi beo kia! Mi có tàichi hòng dám đến dinh ta mà khiêu chiến,
hãy thông tên đã, chớ cái đao ta chẳng chém con quỷ vô danh". Tần đạo nhơn nghe
hỏi ngước mặt xem thấy, một người cao lớn dềnh dàng, tay cầm đồng đao mình cao
trượng hai, tướng đi dữ tợn, cẳng bước như bay, giống tạc Thiên thần xuống thế, thì
đáp rằng: "Ta chẳng phải người nào đâu, vốn là Linh Cầu chơn nhơn ở núi Linh Cầu,
động Linh Cầu, đại hớn (là người cao lớn mạnh dạn) còn mi tên gì?". Lý Tòng cười
lớn rằng: "Nguyệt chướng, đến ta mà mi nhìn cũng chẳng được, ta là học trò của ông
Liễu nhứt chơn nhơn, ở động Thiên Thai, hổ tướng Lý Tòng là ta đây. Yõêu đạo! Lẽ
thì mi ở chốn thâm sơn, dưỡng tánh tu lòng, vui chơi ngay tháng, vì làm sao xuống
núi phò tá Thủy Hoàng, đem mình đến nạp, thiệt rất nên đáng tiếc".
Nói về Tần Mãnh nghe Lý Tòng nói mấy lời, thì cả giận đáp rằng: "Thất phu, mi
ỷ mi là cao lớn dềnh dàng, buông lờ nói phách, chớ ta coi mi chẳng qua là một đứa
mọi của người, đến đây mà làm con quỷ mở đường, bộ mi tài cán bao nhiêu, dám ra
cùng ta đối trận". Lý Tòng nghe nói giận lắm, lướt tới hươi đao nhắm ngay đầu Tần
Mãnh đâm tới. Tần Mãnh vội vàng rước đánh, đánh đến ba mươi hiệp. Lý Tòng giả
thua bỏ chạy, Tân Mãnh xem thấy cười ngất, nói rằng: "Thằng lớn này không quen
đánh giặc, mi biết chạy, ta lại không thể lượt sao". Nói rồi giục beo đuổi nà theo, Lý
Tòng quay lại ngó thấy trong bụng rất mừng, liền vén chiến bào, lấy ra một cái kêu
là bá luyện chùy, cầm sẵn nơi tay, Tần Mãnh rượt tới rất gần, Lý Tòng liệng ra một
chùy, lúc ấy Tần Mãnh đang rượt, bỗng thấy một lằn sáng bay lại gần đầu, liền cúi
sấp lên lưng beo, nghe một tiếng chùy rồi co giò phóng theo như gió thổi. Tần Mãnh
chờn vợn gần rớt xuống beo, nằm yên trên thổ huyết chạy dài. Lý Tòng rượt tới,
trong lòng nghĩ thầm rằng: "Ta tuy bị thương, song phép báu hãy còn, cùng chưa
dùng đến, chi bằng ta cho nó một cái, một là rõ phép đạo tiên, hai là lấp che tai mắt
ba quân, ba nữa thua mà trở nên thắng, như vậy chẳng là hay hơn". Nghĩ rồi thò tay
vào túi, lấy ra một cục đá, kêu là ngũ quang thần thạch, quay lại thấy Lý Tòng rượt
tới chẳng xa, bèn liệng ra một cái, đánh nhằm mặt Lý Tòng, choáng váng mặt mày,
nhức nhối khó chịu, lật đật co giò phóng riết về dinh, Tần Mãnh thâu thần thạch, rồi
cũng về dinh.