Khi cụ Phan khởi nghĩa, hào kiệt bốn phương về theo, phần nhiều là người có võ nghệ và có tài năng, nhưng mà cầu lấy một người có trí, có dũng, có ân, có oai, có cơ mưu, có thao lược, nói tóm lại đủ tài làm tướng thì không ai bằng Cao Thắng.
Cao Thắng là chân tay của cụ; Cao Thắng là hình ảnh của cụ.
Ban đầu thất bại, cụ chạy ra Bắc để khuyến khích anh em đàng ngoài nổi lên làm thanh ứng, khi ấy các tướng chán nản, ba quân lìa tan, việc cách mạng thành ra một đám lửa nguội tro tàn, cơ hồ đến tắt. Thế mà có người thổi được đống lửa nguội tro tàn ấy lại cháy bùng lên, ấy là Cao Thắng. Lúc cụ trở về, mà thanh thế lại mạnh, tướng sĩ lại đông, lương thực lại nhiều, súng đạn lại sẵn, nhờ đó mà chống cự được với quân Pháp trong mấy năm trời nữa, là vì có Cao Thắng. Bởi thế cho nên người ta có thể nói được rằng: thí dụ như xây một bức tường, cụ Phan đắp nền móng, mà Cao Thắng chồng chất mãi gạch đá cho cao chót vót lên; thí dụ như ta làm một ngôi nhà, cụ Phan dựng cột, nhưng mà Cao Thắng lợp ngói quét vôi, và treo tranh, bài cảnh ở trong cho được lịch sự. Thế nghĩa là trong việc cần vương cách mạng lúc bấy giờ cụ Phan vẽ kiểu, mà Cao Thắng là thợ làm vậy.
Quả thế.
Sau khi cụ đã thất bại ra Bắc rồi, các tướng võ và quân sĩ tản lạc, việc cần vương đến đó hầu như lá rụng hoa rơi, không mong gì có cơ quật khởi. Chính cụ Phan ra Bắc cũng nằm hơn một năm trời như là người đã té nhào xuống, muốn dậy mà chưa biết đến bao giờ dậy nổi. Ấy thế mà Cao Thắng nâng cụ dậy được, lại huyết chiến được bẩy tám năm nữa, đến chết mới thôi, như vậy Cao Thắng thật là người có trí, có tài. Việc quật cường đó, ông làm ra thế nào, ta cần nên biết.
Cao Thắng là người ở xóm Nhà Nàng, làng Lệ Động, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.
Ông là con một nhà bình dân tầm thường, dáng người thấp nhỏ, ngón chân ngón tay đều ngắn, cho nên người ta bảo ông có tướng ngũ đoản (năm cái ngắn), sau tất làm người huyết chiến sa trường, bất đắc kỳ tử.
Người rất thông minh lanh lẹ, thuở nhỏ có đi học chữ, nhưng tính không ưa khua bút múa văn, để làm một nhà danh sĩ; chỉ muốn học võ nghệ và binh thư, để sau làm một tay chiến tướng, cho nên cả ngày chỉ tập võ và thích đi săn bắn, lấy thế làm vui; có người em tên là Cao Nữu cũng vậy.
Hồi năm 1874 là năm Tự Đức thứ 27 tỉnh Hà Tĩnh có giặc Cờ Vàng, tức là giặc Đội Lựu nổi lên, định tranh cướp thiên hạ với nhà Nguyễn. Cao Thắng lúc bấy giờ còn nhỏ tuổi quá, nhưng đã tình nguyện đi theo. Chưa đầy một năm, Đội Lựu chết, giặc Cờ Vàng tan, triều đình sai quân đi nã bắt những dư đảng rất ngặt. Cao Thắng sợ, phải trốn tránh lẩn lút khốn khổ.
Lúc đó, anh thứ hai cụ Phan là ông Phan Đình Thuật, mới đậu cử nhân, ngó thấy Cao Thắng mới 13 hay 14 tuổi, đã đi theo giặc, chắc vì có cảnh ngộ sao đó, không phải chủ tâm phản bạn triều đình gì. Nay giặc bị đánh tan, dư đảng tới một thằng nhỏ như thế cũng sợ bị quan làng tróc nã, đến nỗi đào tẩu trốn tránh cực khổ, làm cho ông Thuật động lòng thương hại, ông bèn tìm cách che chở cho Cao Thắng khỏi bị bắt, và đem về nhà nuôi. Được 8 năm, ông Phan Đình Thuật mất thì Cao Thắng lại về làng ở.
Về làng, nhưng cũng không lo đường sinh nghiệp gì cả, sẵn trong mình có nghề võ, nên cùng với em và một người bạn tâm huyết là Nguyễn Kiểu, tối ngày chỉ ham tập quyến múa kiếm làm vui. Nguyễn Kiểu tụ họp mấy chục tên thủ hạ đi ăn cướp, nay làng này mai làng khác những nhà giàu có nội vùng, khổ sở với bọn ông, muốn bắt ông, nhưng sợ ông giỏi quá không sao bắt được. Tuy chính Cao Thắng không ăn cướp của ai, nhưng cũng mang tiếng là đầu đảng ăn cướp.
Kỳ thực, Cao Thắng vốn là người có chí khí to, chẳng qua thác tích vào đám lục lâm, để chờ có thời cơ sẽ ra vì nước hiệu lực, không phải có ý muốn chung thân mai một ở giữa khoảng cỏ xanh nước biếc đâu.
Cuối năm Ất Dậu (1885) cụ Phan khởi nghĩa, anh em ông cùng với Nguyễn Kiểu đem 60 tên thủ hạ ra xin theo. Cụ phong cho làm chức Quản cơ và bảo sau sẽ trọng dụng, vì biết ông là người có tài to. Quả nhiên, ông giúp cụ trong việc quân, mới đầu đã tỏ ra người có tài giỏi. Cụ Phan rất yêu mến. Năm ấy ông mới có 20 tuổi.
Sau khi cụ Phan đã chạy ra Bắc rồi, các tướng sĩ đều giải tán hết, duy còn ông cùng với mấy người anh em đồng chí là Cao Nữu, Cao Đạt và Nguyễn Niên, thu nhặt lấy ít nhiều tàn quân về ẩn phục ở trong những rừng núi thuộc làng Lệ Động, là làng của ông để mưu cách khôi phục. Lúc này bạn thân của ông là Nguyễn Kiểu đã chết rồi. Ông nghĩ rằng dùng binh mà không có tiền nhiều thì làm trò gì được, cho nên trước hết ông nghĩ cách lấy tiền cho nhiều.
Thủ đoạn ông lấy tiền khi ấy có khó gì đâu? Chỉ đem một vài chục tên lâu la xuống núi, xem làng xóm nào có nhà giàu xông vào đốt phá, cướp, là lấy được tiền ngay, rồi lại đem quân vào rừng ẩn phục, ai làm gì nổi. Nhưng ông không làm. Một là biết rằng: đóng ở rừng núi như vậy là trốn tránh qua thời mà thôi, chứ không phải là nơi dụng võ. Hai, nếu dùng lối cướp bóc thì làm náo động dân gian, lỡ ra đến phải đốt nhà giết người thì mang tiếng cho đạo quân nhân nghĩa. Ba, thời bấy giờ là thời loạn lạc, nhà nào có tiền cũng bỏ làng trôi giạt đi xa để trốn tránh hoặc là chôn cất đi, mà chính ở vùng đó cũng không có mấy nhà giàu, thì lấy tiền vào đâu. Bởi thế ông dùng thủ đoạn “làm tiền" bằng một cách khác, là cách bắt cóc.
Trong nghề lục lâm có cái lối bắt sống những người nhà giàu về giam, rồi bắt đem tiền lại chuộc cho về gọi là cách bắt cóc, từ xưa ở xứ mình đã có rồi.
Ông cho thủ hạ đi dò la mãi, biết rằng hôm ấy có một chiếc thuyền chớ mấy chục người hàng vải đi chợ Tràng (tức là chợ tỉnh Nghệ bây giờ) bèn đem 20 tên kiện nhi ra đón ở địa phận làng Triều Khẩu (thuộc phủ Hưng Nguyện, là phủ sở tại tỉnh Nghệ) để bắt.
Khi thuyền đi ngang, ông chèo xuồng con ra đánh chìm và bắt sống cả bọn lái buôn đem về giam ở làng Nam Kim (thuộc huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ), chính là làng của vợ ông.
Dẫn họ về, ông hiểu dụ rằng:
- Ta bắt các ngươi cũng là một việc cực chẳng đã, vì hiện nay nghĩa binh thiếu tiền hoạt động, cần có các ngươi giúp đỡ nhiều ít. Vậy các ngươi viết thư về cho gia nhân, hạn trong một tháng đem tiền lại chuộc thì ta tha về.
Trong một tháng, người nhà bọn kia đem tiền đến chuộc, ông tha về cả. Ông thu được 6000 đồng bạc.
Ông bắt cóc bọn hàng vải lấy được 6000 đồng bạc, có một chỗ dụng tâm sâu lắm, khổ lắm, là cốt lấy tiền để đúc súng. Vì thế, sau khi đã lấy được món tiền rồi thì ông đi tìm thợ. Tìm được bọn thợ, nhưng bảo họ lên núi làm việc cho mình, là kẻ cướp, thì cũng là việc khó khăn, cho nên ông lại phải giở lối cũ ra, là cách bắt cóc. Ông tự đem mấy chục tên kiện nhi, về hai làng Trung Lương và Vân Trung (thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh), là hai làng làm nghề thợ rèn, bắt hết bao nhiêu thợ rèn trong làng ấy dẫn về Lệ Động, ở trong một khu rừng sâu để đúc súng. Đúc trong một tháng trời, được 200 khẩu súng hạt nổ của ta, thứ súng phải nhồi thuốc ở ống súng, rồi chỗ cò máy để hạt nổ, hễ nhận con cò máy có lửa bật ra thì đạn mới chạy. Cái mục đích của ông đến đó đã đạt được một ít.
Lúc bấy giờ, quân giới thì ông đã có 200 khẩu súng mới đúc, tướng tá thì có như các ông Cao Nữu, Cao Đạt, Nguyễn Niên, quân lính thì mới mộ thêm được 400 người. Trong 400 lính ấy, ông chia làm hai đoàn: một đoàn là lính súng; súng bao giờ cũng nạp đạn sẵn; nhưng hễ lúc lâm trận, thì 100 khẩu súng bắn một hiệp trước, xong rồi nạp đạn thì lại đến 100 khẩu khác bắn một hiệp sau, cứ luân phiên như thế, thành ra khi đánh trận, lúc nào cũng có tiếng súng nổ liên thanh, khiến cho địch quân không biết nghĩa binh nhiều súng hay ít. Ấy, Cao Thắng dùng binh có cơ mưu đại khái như thế.
Súng có, quân có, tướng có, là lúc thanh thế của ông đã hơi to, đi đến đâu cũng có ít người địch lại. Giá ông phải là người tầm thường, chỉ lo khiết thân ẩn độn không chịu thần phục người Pháp, như bọn Điền Hoành ngày xưa cùng 3000 tử sĩ ở chốn hải tần không chịu thần phục nhà Hán, thì khí giới ấy, binh lực ấy, nay đóng núi này, mai qua rừng khác, nay cướp làng nọ, mai cướp làng kia, để lấy lương ăn, cứ như thế mãi cũng có thể tung hoành ở trong chốn núi Hồng sông Lam được trọn đời mãn kiếp, làm một người lục lâm anh hùng, ai đánh dẹp cũng khó.
Nhưng mà cái chí khí của ông to. Ông còn nghĩ đến vua, đến nước, đến anh em đồng loại, đến chủ tướng cũ là cụ Phan; nói tóm lại, chí khí của ông là làm thế nào cho "nước Nam người Nam", cho nên ông không lấy khí giới đó, tướng sĩ đó, làm tự túc, mà muốn cho khí giới còn mạnh hơn, tướng sĩ còn đông hơn nữa.
Ông là một người biết lượng sức mình, lại có tính quả quyết. Ông tự biết rằng sức quân của mình, sức súng của mình còn yếu quá chừng, ăn cướp thì được, đánh với quân Pháp chưa được, cho nên đêm ngày thường lo gây dựng thế nào cho thực lực của mình to lên. Bấy giờ, vấn đề lương thực chẳng phải lo nữa, vì oai danh ông lúc ấy to, dân gian quanh miền đã sợ, ông muốn bao nhiêu gạo, bao nhiêu tiền, chỉ viết giấy đi các chủ nhà giàu, khiến họ tự phải đem tiền gạo lại nộp, không mấy khi phải dùng võ lực.
Song còn một khiến cho ông lo nghĩ nhất, là vấn đề khí giới kiểu Pháp.
Ông đã từng bỏ ăn quên ngủ, nằm nghĩ đến một tháng trời, băn khoăn về vấn đề khó khăn này: Đã làm thì tất phải làm to, mà những kiểu súng của ta, là kiểu súng ăn mày thế này, nào chùi súng, nào nạp thuốc mất công phu và thời giờ nhiều lắm, làm sao địch lại được quân Pháp. Có muốn đánh với họ, tất phải có khí giới như họ mới được.
Ông nghĩ rằng làm theo như kiểu súng Pháp cũng chẳng khó khăn gì, tuy mình không có tài sáng tạo, nhưng có tài bắt chước được thừa, vì thế ông nghĩ mưu kế làm sao cho có một khẩu súng Pháp để ăn cắp kiểu.
Làm thế nào lấy được một khẩu súng Pháp để ăn cắp kiểu? Khó quá! Bảo rằng mua được, nhưng đường sá phần thì mắc nghẽn, phần thì xa xôi, đi đâu mà mua. Bảo rằng đánh một đồn nào gần đó để cướp lấy một khẩu về, nhưng đồn nào cũng giữ gìn nghiêm nhặt, đánh đã chắc gì lấy nổi. Chỗ này, ông suy nghĩ gần muốn héo gan nát ruột, mà không biết làm thế nào. Ông vẫn nói rằng: Hễ ai tìm được cho ta một khẩu súng kiểu Pháp, thì ta thưởng cho 1000 đồng bạc. Ai lấy được? Nhưng mà người có chí khí thường được trời giúp đỡ.
Thật thế, trong khi ông đang nghĩ quẩn nghĩ quanh nghĩ đến cách mua, nghĩ đến cách cướp, nghĩ mãi chưa biết làm thế nào, thì chợt có tên lính vào bẩm rằng: có một người lạ mặt, xin vào yết kiến để bẩm có việc cơ mật.
Ông cho vào. Ấy là người đem kiểu súng Pháp lại cho ông.
Binh gia nói: "Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên", e có lẽ phải.
Cao Thắng muốn kiếm một khẩu súng của Pháp để bắt chước chế tạo, nhưng đang lo nghĩ ao ước không biết lấy ở đâu có một khẩu súng Pháp để làm kiểu bây giờ, bỗng dưng trời xui khiến một người khách lạ mặt tới ngay giữa quân môn giúp cho ông được như nguyện.
Người lạ mặt vô bẩm rằng:
- Nghe nói có lệnh của tướng quân truyền ra: hễ ai lấy được một khẩu súng Pháp đem nộp, thì sẽ được trọng thưởng 1000 đồng bạc. Nếu bây giờ tôi lấy dâng cho tướng quân, không những một khẩu súng Pháp, mà tới 15 khẩu lận, thì tướng quân thưởng cho bao nhiêu?
Cao Thắng mừng lắm:
- Thôi, thế thì trong trại ta bao nhiêu tiền bạc, ta cho nhà ngươi lấy hết.
Thật ra lúc bấy giờ, ông cũng đã có một vài vạn bạc ở trong quân.
Người lạ mặt xin truyền cho tả hữu lui ra ngoài, rồi mật bẩm diệu kế. Té ra y có một người bà con đi lính tập ở tỉnh Nghệ An mới viết thư về nhà nói rằng: tới ngày mai đây có hai viên quan binh ở tỉnh thành Nghệ An dẫn 14 tên lính tập chở mấy hòm bạc lên đồn Phố (thuộc hạt Hương Sơn) để phát lương cho binh lính. Lẽ tự nhiên toán lính ấy có súng. Đó là một cơ hội trời giúp cho tướng quân. Vậy tướng quân nên sắp đặt cho nghĩa binh mai phục ở giữa đường, đánh toán lính tập mà cướp lấy súng của họ là được ngay, nào có khó gì?
Cao Thắng được tin cơ mật này, hết sức mừng rỡ, đưa tay lên trán và nói:
- Thật là trời giúp ta phen này!
Tức thời, một mặt Cao Thắng cầm giữ người khách lạ mặt hảo tâm đó ở lại trong dinh chơi, một mặt hội chư tướng lại để thương nghị cách cướp súng.
Ông thì quyết kế là kéo hết quân mình ra đón đường liều đánh lấy một trận tử chiến. Nhưng ông Cao Đạt vừa khoát tay vừa nói:
- Không nên! Anh tính kế làm như vậy là đem cả nghĩa binh và bản thân anh vào chỗ hiểm nguy tổn hại mà chắc là không xong việc. Quân tư chưa phải là quân thiện chiến, vả lại thứ súng cũ kỹ của mình bây giờ còn lôi thôi quá, đạn bắn ra nổ không mạnh, đi không xa, tôi tưởng ngày nay nếu quân ta đem toàn lực ra đánh nhau đường trường cũng sợ không địch lại với 15 khẩu súng kia. Vậy thì không những ta làm đã chẳng thành công mà lại còn mang hại đến thanh thế của quân ta lúc ban đầu nữa. Theo ngu ý của em, việc này ta phải dùng mưu thì hơn, quyết không nên dùng lực. Em xin dâng kế "Xuất kỳ bất ý công kỳ vô bị" anh nghĩ sao?
Cao Thắng suy nghĩ một lát, gật đầu khen phải.
Nguyên là con đường từ tỉnh Nghệ An đi lên đồn Phố (chỗ đó là làng Phố Châu, chính là huyện lỵ Hương Sơn đóng bây giờ, thuộc về tỉnh Hà Tĩnh) có nhiều chặn phải đi xuyên qua núi rừng rậm rì, hiểm trở. Giữa đường có một hòn núi trọc chận ngang, không có cây cối nào rậm và to, chỉ mọc toàn là lau sậy rất cao, chính giữa có một con đường độc đạo. Ông Cao Đạt hiến kế rằng chỉ nên lựa chọn mấy chục tráng sĩ, cầm đoản đao mai phục ở hai bên rừng lau sậy, chờ khi nào toán lính tập kia nghễu nghện đi qua, thì ta nổ một tiếng pháo làm hiệu, rồi hai bên tráng sĩ nhảy bổ ra, xuất kỳ bất ý mà đánh, tất được toàn thắng.
Cao Thắng y kế, và muốn bản thân làm việc khó khăn này, cho nên tức khắc xếp đặt công việc để ngày mai chính ông thân dẫn cả bọn Cao Đạt, Cao Nữu, Nguyễn Niên cùng hai mươi tên quân cảm tử, nai nịt gọn gàng, cầm đoản đao ra mai phục tại đó.
Quả nhiên, xế chiều hôm ấy, một toán gồm hai viên quan Pháp và 15 tên lính tập mang súng và khiêng hòm bạc, kéo nhau đi ngang qua rừng sậy đã nói trên. Bởi con đường độc đạo nhỏ hẹp, họ phải đi hàng một, lẻ tẻ từng người, trong trí không ngờ đâu giữa bãi lau sậy này mà có sự bất trắc.
Tiếng giày đi cồm cộp đàng xa, đủ làm dấu hiệu để báo tin cho phục binh hay trước. Tới chừng họ đi vào giữa khoảng nghĩa binh mai phục, Cao Thắng nổi pháo lên làm hiệu, tráng sĩ mai phục hai bên nhảy ra, miệng vừa hò hét, tay vừa khoa đao, cứ mỗi người nhắm ngay một kẻ bên nghịch mà chém tung hoành loạn đả. Tội nghiệp cho hai viên tiểu tướng Pháp và 15 chú lính tập đều bị chém ngã hết, không sót một người nào, không ai kịp trở tay. Vì họ đang đi đường mệt nhọc, lẻ loi, bỗng dưng bị chém một cách thình lình như thế, làm sao không chết.
Thế là Cao Thắng lấy được 17 khẩu súng, trong đó có hai khẩu súng kiểu hai nòng, và 600 viên đạn, mấy ngàn đồng bạc nữa, mà phía mình không nhỏ một giọt máu, cũng không nhọc nhằn sức khỏe bao nhiêu.
Trở về sơn trại, ông mời người khách lạ mặt kia để trọng thưởng. Nhưng khách nói rằng:
- Thấy tướng quân làm việc nghĩa hiệp, tôi vẫn hâm mộ, trời bèn xui khiến tôi đem lại cơ nghiệp giúp cho tướng quân được thành công đó thôi. Tôi nào có công cán gì mà thưởng, vả lại tôi có phải vì ham số tiền thưởng mà tới đây bao giờ; hôm qua tôi hỏi thưởng bao nhiêu là nói chơi vậy mà. Số tiền thưởng này tôi xin để lại tướng quân nuôi binh sĩ, đúc khí giới, thế là tôi mừng. Trước khi từ biệt tôi xin hiến tướng quân bốn chữ "tiền đồ bảo trọng”, xin ghi nhớ cho. Luôn dịp, có một bức thư kín đây, hễ ngày nào cụ Phan về, thì phiền tướng quân trình cụ giúp tôi, ngày nay hãy khoan mở ra.
Cao Thắng muốn hỏi tên họ, nhưng khách cũng không chịu nói, chỉ cười nhạt rồi đứng dậy vái dài một vái, ra đi. Người này là thần tiên chăng, là ẩn sĩ chăng, là hiệp khách chăng, là gì không ai biết.
Thuở giờ Cao Thắng chỉ ước mong có một khẩu súng Pháp để làm kiểu, nay đã được thoả mãn sự mình mong ước rồi vậy. Cao Thắng gọi thêm rất nhiều thợ rèn, rồi kéo lên núi sâu, bắt đầu công việc chế tạo. Ông tự tháo một khẩu ra từng mảnh, để xem từ cơ quan thước tất cho đến công dụng như thế nào, rồi đêm ngày ông ngồi một bên, đốc thúc bọn thợ rèn, cứ lấy từng mảnh ở súng Pháp, theo đúng hình thức dài vắn rộng hẹp như thế nào mà rèn đúc. Mấy lần đầu còn hư hỏng lôi thôi. Nhưng hư hỏng thì ông lại bắt phá hết ra mà rèn đúc lại. Rèn đi đúc lại mãi mới được.
Công việc đúc súng này làm luôn trong mấy tháng ròng rã, được cả thảy 350 khẩu súng giống y súng Pháp. Duy có thuốc đạn thì còn phải dùng thuốc ta.
Ta nên biết Cao Thắng rèn đúc được 350 khẩu kiểu Pháp, thật có công phu khó khăn to lớn bằng rèn đúc mấy mươi vạn khẩu. Thật thế, lúc bấy giờ ông ta chỉ là một đám giặc cỏ, phải lẩn lút ở trong núi biếc rừng xanh, nào đã dám ra mặt chán chường, vậy thì lấy đâu được sắt, lấy đâu được đồng, lại lấy đâu được máy mà đúc, lấy đâu được thuốc nổ để mà chế ra đạn. Thế mà ông làm được đủ cả, là nhờ ông có trí xảo cơ mưu và có nghị lực nhẫn nại lắm. Ruột gà trong súng, thì ông dụng cây gọng dù uốn lại mà làm; sắt thì ông cho người đi khắp các chợ và các miền nhà quê, mua những móng lừa, móng ngựa, các thứ sắt vụn, và những cày hư cuốc bể, của các nhà nông, đem về đập ra mà rèn; còn bì đạn thì ông góp nhặt những mâm đồng, nồi đồng, đập dẹp ra thật mỏng rồi cuốn lại. Sợ thiếu những nguyên liệu cần dùng, nên ông hạ lệnh cho các dân làng chung quanh, chia bớt những đồ đồng trong nhà mình cho nghĩa binh và đem lên sơn trại nộp để làm quân giới.
Ấy đó, Cao Thắng chỉ nhờ có những tài liệu góp nhặt như thế, mà rèn đúc được súng đạn hẳn hoi, thỉ chung chỉ dùng sức người, không có máy móc gì hết.
Tới đây, không những súng cũ và súng mới đã được hơn 500 khẩu, mà lương tiền cũng dồi dào, và số quân lính mộ thêm cũng tăng lên đến gần 1000 người. Cao Thắng tự biết lúc này mình đã có gốc hơi vững, tức là có cơ sở để tấn phát mãi lên và có thể bắt đầu mưu tính việc lớn. Nhưng phải có người danh vọng oai quyền để làm chủ, cầm quân mới được.
Người đó đương thời, còn ai hơn là ông chủ tướng cũ hiện đang lưu lạc ẩn cư ngoài Bắc: ấy là Phan Đình Phùng.
Cao Thắng bèn sai người tâm phúc ra Bắc Hà rước cụ Phan về.
Phong trào võ lực phản đối ở ba tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình đã tịch mịch ít lâu, giờ lại nổi lên đùng đùng, và kéo dài ra được mấy năm nữa. Lần này có tổ chức, có khí giới, có kỷ luật, có oai danh, chính có người Pháp thẳng ngay đã nhìn nhận sự thật như thế.
Một võ quan Pháp dự cuộc đánh dẹp ở Nghệ Tĩnh hồi bấy giờ là Đại uý Gosselin, về sau viết ra cuốn sách có giá trị tựa là "Nước Nam" trang 313, có đoạn nói về Phan Đình Phùng đại khái như vầy:
"Cuộc biến loạn của Phan Đình Phùng cầm đầu tràn lan rất mau và có thanh thế lớn. Sánh lại những đám phản đối nổi lên về trước không thấm vào đâu.
Nhưng vì phương lược cai trị, vả lại cũng không muốn làm xôn xao kinh hãi dư luận bên Pháp, cho nên ở đây người ta rán giấu nhẹm được chừng nào càng hay, không nói rõ cho bên Pháp biết.
Lúc đó, người chủ tướng cầm đầu cả 4 tỉnh miền Bắc Trung nổi lên đánh lại binh ta, chứng tỏ ra một người có tài năng tổ chức lạ lùng: lại thêm ông ta có cái địa vị đậu Đình nguyên, thành ra nhân dân quy phục hết thảy, vì dân này vốn trọng học vấn và kính mộ danh nho.
Té ra từ trước tới đây chúng ta không hay Phan Đình Phùng biết sắp đặt tập rèn quân lính theo như kỷ luật và binh pháp Âu châu; cho nên quân lính mặc y phục giống hệt một thứ với lính tập bản xứ của ta, lại mang khí giới là súng kiểu 1874 do ông bí mật chế tạo lấy rất nhiều, nhưng chế tạo ở chỗ nào không ai biết, tới nay chúng ta chẳng hề tìm ra.
Tôi có đem nhiều khẩu súng đó về tận bên Pháp; xem nó giống đủ mọi vẻ như súng của các xưởng binh khí nước ta chế tạo, đến nỗi tôi đưa cho các quan binh pháo thủ ta xem, các ông phải sửng sốt lạ lùng, chỉ hiềm vì nó khác với kiểu súng ta có hai chỗ này thôi: ruột gà không đủ sức mạnh và trong nòng súng không có xẻ rãnh, vì đó mà đạn bắn ra không xa, không mạnh. Tuy vậy mặc dầu, những súng đó đã từng bắn chết ít nhiều lính khố xanh, cai đội Pháp và lính tập, vì thật ra lúc bấy giờ chỉ có lính khố xanh ra xông pha đánh dẹp đám loạn này, ta phải nói rằng lính ấy đã xuất lực và thành công một cách vẻ vang".
Ta xem Đại uý Gosselin đã từng mục kích và phải nhìn nhận sự thật như thế, đủ biết đương thời nghĩa binh cụ Phan cầm đầu không phải giặc cỏ, hay cuộc phản đối tầm thường. Kỳ thật có tổ chức, có khí giới, có lực lượng ít nhiều, ta nên biết những thành tích ấy do một tay lược thao kỳ xảo của thượng tướng quân Cao Thắng.