Tôi ngồi trên những cuộn thảm, và những hình ảnh về con đường đến Minsk trong cuộc tấn công của chúng tôi năm 1941 lại trở về. Lúc đó, không ai nghĩ rằng 4 năm sau đó, chúng tôi thua trận và tôi bị đưa về Moscow với tư cách là tên tù binh...
Bằng cuộc tấn công nước Nga năm 1941, chúng tôi đã biến đất nước này từ một nước nghèo đói và lạc hậu trở thành một cường quốc thế giới! Tôi ngồi lạc trong những suy nghỉ trong khi tôi và người lính gác chờ phi hành đoàn và hành khác trở lại máy bay, chiếc máy bay cất cánh lại và hướng về Moscow.
Trong khi chiếc máy bay bay trên bầu trời Liên Bang Xô Viết vô dài vô tận, tôi suy nghĩ về những ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh năm 1939...
Lính dự bị được triệu tập vào cuối tháng 8, và lực lượng đồn trú ở Plauen được đặt trong tình trạng báo động ngày 28 tháng 8 - tất cả các cuộc nghỉ phép bị bãi bỏ và không ai được rời đơn vị.
Tám giờ sáng ngày 31 tháng 8, Thiếu Tá Kordt chủ trì cuộc họp, các sĩ quan tiểu đoàn và các sĩ quan của cả 3 pháo đội tham dự.
"Quý vị," ông ta bắt đầu mà không vòng vo, "chúng ta nhận được lệnh lên xe lửa tối nay. Tôi không chắc là tôi phải nói các anh ý nghĩa của điều này không." Ông dừng lại để chúng tôi nhận thấy sự quan trọng của câu nói, rồi nhanh chóng tiếp tục. "Tiểu đoàn chúng ta gần như là đơn vị chiến đấu hoàn hảo sau những đợt huấn luyện, mỗi sĩ quan, mỗi người lính, mỗi con ngựa đã được huấn luyện cho mỗi chức năng riêng, và đã thực hành những chức năng đó cho đến khi thành bản năng. Tôi tin rằng chúng tôi sẽ hoàn thành nhiệm vụ thật tốt trong chiến đấu Tuy nhiên, chúng ta phải bỏ lại 20 phần trăm nhân sự phía sau để làm nhân tố cho tiểu đoàn pháo binh mới. Có nghĩa là 20% nhân viên, mỗi pháo đội một sĩ quan. Thếu Uý Niebergall cũng sẽ ở lại phía sau để tiểu đoàn trưởng mới có một người phụ tá kinh nghiệm. Tiểu đoàn trưởng mới sẽ được chọn trong lính dự bị.
"Ngựa cho tiểu đoàn mới được trưng dụng từ dân chúng. Cả ngựa mới và lính dự bị sẽ đến ngày mai. Những ai sẽ lên đường phải ngay lập tức chuẩn bị lên đường vào chiều nay. Những ai ở lại phải giúp chúng tôi chuẩn bị và lo nhận người và ngựa sáng mai. Tôi đề nghị chúng ta nên bắt đầu ngay lập tức. Kordt đứng lên. "Chúc quý vị may mắn."
Ngay lập tức doanh trại bùng lên với những hoạt động sôi nổi. Tôi được chọn là sĩ quan ở lại trong pháo đội, tôi giúp Witzleben và Dornberg tách 20 phần trăm nhân sự pháo đội ở lại và cùng với họ giúp chuẩn bị ngựa và thiết bị để lên đường.
Trước rạng đông ngày hôm sau, ngày 1 tháng 9, một triệu rưỡi quân Đức tràn qua biên giới Ba Lan và nhanh chóng giao chiến.
Tiểu đoàn trưởng và pháo đội trưởng mới đến nơi vào hay hôm sau. Người đến đầu là Thiếu Tá Raake, thay thế Kordt làm tiểu đoàn trưởng. Pháo đội trưởng mới của tôi là một sĩ quan dự bị vào khoảng 40 tên lài Đại Uý Wimmer. Ông cao hơn 6 feet (hơn 1,82 mét) và ốm, tóc đậm và lông mày đen rậm làm cho khuông mặt khá diễn cảm.
Buổi chiều, Thiếu Tá Raake cho gọi tất cả các sĩ quan đến họp. Ông nhìn bao quát chúng tôi. "Quý vị, chúng ta có đúng 3 ngày để sẵn sàng tiến quân," ông nói. "Chúng ta sẽ di chuyển bằng xe lửa, xuất phát lúc 7 giờ sáng ngày 4 tháng 9. Tôi biết rằng qúy vị chưa biết nhau, và đây sẽ là cuộc hành quân khó khăn. Tôi đề nghị quý vị làm quen với nhau nhanh chóng."
Thiếu Uý Rehberg là sĩ quan tiền sát mới. Anh ta mới vừa ra trường từ học viện quân sự Dresden. Đại Úy Wimmer cũng gọi một buổi họp với Rehberg, tôi, và viên thượng sĩ nhất mới, Schnabel, tối hôm đó.
"Quý vị, chúng ta chưa quen nhau, nhưng chúng ta phải trở thành một nhóm làm việc ăn ý với nhau thật nhanh," Wimmer bắt đầu. Ông ngậm một ống điếu bằng ngà được chạm trổ cầu kỳ. "Không những chúng ta phải nhận khoảng một trăm rưỡi lính mới, mà còn nhận khoảng chừng đó ngựa. Người thì ít ra đã được huất luyện từ trước nên chỉ cần làm việc ăn ý với nhau. Chúng ta phải huấn luyện ngựa - Nếu chúng ta có đủ thời giờ huấn luyện chúng trước khi chiến đấu."
Một cảm giác lạnh chạy dọc xương sống của tôi khi ông nói câu đó. Tôi đã luyện tập cho chiến trận 3 năm qua, nhưng bây giờ tôi giáp mặt với nó chỉ trong vài ngày, từ "chiến đấu" gần như có một ý nghĩa mới - một ý nghĩa với sự khẩn trương và nghiêm trọng nhiều lần. Nhưng nó cũng mang đến cảm giác kích thích với một thanh niên trẻ như tôi, và tinh thần quốc gia đang còn cao độ.
"Tối nay cố ngủ ngon," Wimmer kết luận, khói từ ống điểu vòng quanh mặt ông ta. "Chúng ta sẽ có những ngày gian khổ trước mặt." Lông mày đen, rậm của ông hình như làm tăng thêm sự trang nghiêm của lời nói.
Sáng hôm sau, người và ngựa lần lượt đổ đến. Tôi cưỡi Schwabenprinz vòng doanh trại và sáng sớm. Ngựa được đưa vào chuồng không theo thứ tự nào. Tiếng lộp cộp của móng ngựa bằng sắt trên đá vang lên khắp nơi. Schwabenprinz cảm thấy kích thích, và tôi phải gìm cậu ta lại. Lính dự bị đến từng nhóm đông, họ tụ tập quanh quẩn và chờ lệnh, họ nói chuyện với nhau rì rầm trong không khí sớm mai. Thiếu Úy Niebergall cố gắng lập trật tự trong sân, kêu kính tập trung trong hội trường cho đến khi được chia đơn vị. Wimmer và Schabel bắt đầu tổ chức người và ngựa. Tôi bắt đầu tổ chức nhân sự cho từng khẩu đội, và Rehberg bắt đầu liệt kê ngựa.
Chúng tôi bổ sung toàn bộ số nhân sự và ngựa đã lên đường đi Ba Lan. Chính phủ trưng dụng ngựa của sĩ quan chúng tôi và trả tiền ngựa, yên cương, và chúng tôi được quyền tiếp tục giữ chúng. Mục đich của việc này là nếu ngựa bị giết trong chiến đấu, chính phủ sẽ gánh phần mất mát đó chứ không phải người sĩ quan. Tôi rất vui khi được giữ Schwabenprinz. Tôi đã huấn luyện cậu ta và chúng tôi đã trải qua nhiều cuộc tập trận với nhau, và tốt hơn là có con ngựa cưỡi quen. Lammers, người giúp việc cho tôi cũng ở lại, và tôi cũng không muốn đổi người giúp việc.
Quá trình để chuẩn bị hành quân trong một thời gian ngắn thật bận rộn. Tôi dùng thời gian của tôi để trông nom việc chuẩn bị di chuyển súng ống, đạn dược, xe chở đạn, bếp dã chiến, xe lò rèn di động, và các thiết bị khác. Rehberg trông nom ngựa. Tôi hầu như không gặp Wimmer, Rehberg, và Schnabel, họ bận những việc khác.
Ngày 3 tháng 9, tin xấu nhất bay đến: Anh và Pháp tuyên chiến với Đức. Nó đã trở thành một cuộc đại chiến khác. Herr Hoffer đã nói đúng, và chúng tôi không thể phủ nhận là chúng tôi gây lên cuộc chiến này. Chúng tôi đã chiếm đóng Tiệp mà không ai trả đủa, và bây giờ chúng tôi tấn công Ba Lan, dù với lý do chiếm lại Danzig và hành lang Ba Lan, những nơi chúng tôi bị mất do hiệp ước Versailles.
Sau khi xong việc với ngựa và thiết bị tối hôm đó, Rehberg và tôi đến câu lạc bộ sĩ quan kiếm gì uống và nghỉ ngơi trước khi đi ngủ. Chúng tôi gặp Wimmer và Schnabel đang ngồi ở bàn, đang bàn bạc kế hoạch di chuyển vào sáng hôm sau. Chúng tôi nhập vào và cùng bàn bạc. Sau một lúc, tôi nhận ra một việc mà không ai lên tiếng, thậm chí không ai nghĩ đến, sự có mặt của một hạ sĩ quan trong câu lạc bộ sĩ quan, say sưa tranh luận với những sĩ quan cấp trên. Tôi nghĩ, một điềm tốt cho tương lai. Một đơn vị quân đội làm việc thật gần gũi với nhau thì thật là tốt, với tôi, và một thượng sĩ nếu chấp nhận trách nhiệm ngay từ đầu thì chắc chắn anh ta sẽ là một quân nhân sáng giá.
Sáng sớm hôm sau, toàn trung đoàn bộ binh chuẩn bị di chuyển lúc 6 giờ sáng. Ba tiểu đoàn bộ binh đi trước, đi bộ, đến ga xe lửa. Xe lửa được lên thời khoá biểu mỗi giờ 1 chuyến, và mỗi tiểu đoàn bộ binh lấy 10 toa trên đoàn tàu. Mạc dù 2 đoàn tàu có thể chở hết cả 3 tiểu đoàn bộ binh, nhưng mỗi pháo đội pháo binh phải chờ một chuyến tàu khác vì ngựa và các quân trang, quân dụng. Bộ binh được khởi hành ở Ga lúc 7 giờ, và xe lửa cho 3 pháo đội lúc 8, 9 và 10 giờ sáng. Xe lửa, và tất cả các đồ hậu cần khác, đều được lên kế hoạch và thời gian bởi các sĩ quan hành quân của sư đoàn. Chúng tôi chỉ cần đến đó đúng giờ và xe lửa đã có sẵn.
Vì pháo đội chúng tôi đi đoàn tàu thứ 2, chúng tôi rời khỏi doanh trại lúc 7 giờ và đến ga lúc 7giờ 45. Do đoán trước, đưa ngựa lên tàu là vấn đề khó nhất, vì hầu hết là ngựa từ các đồng quê, chúng chưa bao giờ thấy xe lửa và hoảng sợ vì tiếng ồn ào và sự di chuyển. Tôi giúp Rehberg và lính anh ta đưa ngựa lên. Vài con ngựa quá hoảng sợ, chúng tôi phải che mắt chúng và 2 người phải giữ chặt chân nó và đưa lên tàu. Đưa được chúng lên tàu mà không làm chúng bị thương là một kỳ công. Cuối cùng, mọi thứ đều lên các toa, xe lửa rời ga đúng 8 giờ sáng. Đoàn tàu có 24 toa: 15 cho ngựa, 3 cho lính, và 6 toa để súng và xe ngựa.
Sau khi tàu chạy, cuối cùng tôi cũng được ngồi xuống thở và xét lại những hoạt động điên cuồng hai ngày qua. Tương lai nhanh chóng bị đẩy ra khỏi đầu óc tôi, thay vào đó, tôi suy nghĩ về những việc huấn luyện chúng tôi phải làm khi đến vùng hành quân, tôi được biết là biên giới Luxembourg - nếu người Pháp và Anh cho chúng tôi thời gian cho nó. Lũ ngựa cũng cần phải được xem lại. Đeo cầy và những nông cụ hoàn toàn khác xa với huấn luyện chúng trở thành 1 bộ phận của xe ngựa kéo súng gồm 6 con ngựa 1 xe. Nhân sự cũng là một mối lo khác. Kinh nghiệm của những lần thao diễn trước cho tôi biết rất nhiều thứ có thể xảy ra nghiêm trọng nếu các nhân viên không làm đúng chức năng trong một đơn vị. Tuy nhiên, tôi nghĩ nếu chúng tôi bị tấn công, binh lính cũng đã được huấn luyện và chiến đấu một cách hiệu quả.
Đến sông Mosel, gần Koblenz, khoảng 6 giờ chiêu, xuống xe lửa dễ hơn lên xe rất nhiều. Mặc dù lũ ngựa hoảng sợ, nhung cũng đem chúng xuống dễ dàng hơn. Chúng tôi xuống tàu ở Cochem, thung lũng Mosel, và đi bộ đến núi Eifel. Chúng tôi sẽ tiếp tục cuốc bộ nguyên ngày hôm sau sau khi dựng lều nghỉ đêm ở đây. Chúng tôi buộc ngựa sau khi cho chúng ăn uống, cắt người canh gác, dựng lều và ăn uống trước khi đi ngủ khoảng 10 giờ đêm. Chúng tôi ngủ dưới bầu trời đầy sao, tiếng nước chảy róc rách của con sông cạnh bên, và trong tiếng dế, tiếng ếch nhái. Nững con đom đóm bay chập chờn trong bóng đêm. Nnững tiếng động, tiếng thở phì phò, tiếng dậm chân, mùi ngựa quen thuộc làm tôi cảm thấy như ở doanh trại, và tôi chìm vào giấc ngủ.
Chúng tôi thức giậy vào lúc 5:30 sáng, sau những lễ nghi buổi sáng, chúng tôi tiếp tục hành quân vào lúc 7 giờ. Mặc dù núi Eifel không cao, con đường dài lê thê vói đường núi dốc, người phải đi bộ thay vì cưỡi ngựa hay ngồi trên xe ngựa. Cảnh vật trên núi khá đẹp, nhưng chúng cũng làm cho cuộc hành quân khó khăn vì nhiều chỗ đường rất hẹp.
Dự đóan leo dốc khoảng 3 giờ, nhưng đi được 2 giờ thì một bánh xe chở đạn đi đầu bị gãy. Tôi sai lính liên lạc lên trước báo cho Đại Uý Wimmer là chúng tôi sẽ bị trể, vì các xe sau không thể vượt qua chiếc xe bị gãy. Tiếp đó tôi cho gọi hạ sĩ - thợ rèn Max Knecht lên sửa. Trong khi Knecht và những phụ tá sửa xe, tôi đến bếp kiếm trà uống và chờ. Người đàu bếp là Trung Sĩ Josef Boldt, anh ta có một bộ lông mày chạy từ bên này qua tới bên kia.
Sau gần một tiếng đồng hồ, chúng tôi tiếp tục lên đường, lên dốc được khoảng 1 giờ thì bị dừng lại thêm 1 lần nữa. Tôi gởi lính liên lạc lên phía trước và được biết vài cây lớn bị gãy nằm cản đường. Những cây này bị đốn ngã vài ngày trước đây để cản đường nếu quân Pháp và Anh tấn công. Chúng tôi tiếp tục chờ cho đến khi người ta dọn sạch các chướng ngại.
Cuối cùng chúng tôi đến vị trí vào khoảng trưa. Chúng tôi ở vào khoảng 5km về phía Đông từ biên giới Luxembourg, hướng tây bắc của Bleialf và Winterspelt, trong một khu rừng khá dày. Một con suối chảy qua, chúng tôi có thể dùng nó để cho ngựa uống và tắm rửa. Đại Uý Wimmer chỉ định chỗ đặt súng, chĩa về phía biên giới, và nguỵ trang chúng. Chúng tôi đem ngựa ra phía sau và đặt dây điện thoại đến các vị trí tiền sát và các ổ súng.
Chúng tôi không được cung cấp thông tin về tình hình: chúng tôi có bao nhiêu sư đoàn hoặc có bao nhiêu sư đoàn Anh - Pháp có thể tấn công chúng tôi. Luxembourg và Belgium nằm giữa Đức và Pháp, nhưng chúng tôi không nghi ngờ rằng Pháp - Anh sẽ băng qua những nước ấy để tấn công chúng tôi như chúng tôi đã nghi ngờ trong cuộc chiến tranh trước. Có thể họ sẽ làm như vậy, vì nếu họ cố gắng vượt qua sông Rhine, Không Lực Đức (Luftwaffe) sẽ là mối đe dọa cho họ (họ sẽ phơi mình ra giữa dòng sông rộng, và các cầu sẽ bị phá hủy; họ sẽ bị kẹt ở các cổ chai (bottleneck) và trở thành những mục tiêu lý tưởng cho không quân). Chúng tôi nghỉ trận chiến sắp sửa xảy ra, và nhiệm vụ của chúng tôi rất nặng nề trong sự trông chờ đó.
Chúng tôi lập các chu vi phòng thủ và lập tức đào hầm. Mùi đất mới hòa lẫn với mùi lá cây mục toả ra trong buổi chiều tháng 9 nóng nực. Và mùi mồ hôi tiếp tục thêm vào những mùi đó. Sau khi đào xong hố chiến đấu (foxholes), binh lính bắt đầu đào hầm (bunker) Chúng tôi không biết sẽ ở đây đến khi nào, nhưng không ai thích ở trong các hố cá nhân hay trong lều cả. Họ chặt các cây nhỏ để làm hầm. Họ chặt các nhánh cây, rồi cắm sát vào nhau, và trám bùn vào giữa các cây. Mùi bùn rất khó chịu. Trước hết, binh lính làm hầm cho các vị trí quan sát, hầm sĩ quan, rồi hầm cho họ. Những cái hầm được đào sâu vào vách núi, cửa và cửa sổ xoay về hướng địch. Khoảng 7-8 người ở một hầm.
Rehberg dọn lên căn hầm quan sát. Là sĩ quan pháo đội, hầm của tôi phía sau các vị trí tiền sát chừng 3 cây số với các pháo đội. Pháo và các căn hầm được nguỵ trang kỹ lưỡng để không bị phát hiện từ máy bay. Chúng tôi chỉ mất 2 ngày để chuẩn bị cho vị trí chiến đấu. Lammers xây căn hầm của tôi rất khá so với điều kiện hoang sơ chung quanh. Thiếu Tá Raake đến để kiểm tra vị trí và khen ngợi công việc hoàn thành nhanh chóng.
Ông của mang đến tin thiệt hại đầu tiên ở Ba Lan của những người đã cùng phục vụ với chúng tôi ở Plauen. Một trong số họ là sĩ quan tiền sát, anh ta bị thương nặng vì đạn pháo của chính pháo đội anh ta khi một trái đạn ngắn tầm và nổ ngay vị trí quan sát của anh ta. Tin tức làm cho tôi cảm thấy tê tái, không chỉ vì tôi biết anh ta mà vì người đó có thể là tôi nếu tôi đi Ba Lan với pháo đội của mình. Những tin đó làm chúng tôi thấy chiến tranh là "thật" hơn.
Chúng tôi lập tức bắt đầu chương trình huấn luyện để tập ngựa và để cho nhân viên làm việc ăn ý với nhau. Chúng tôi thực tập suốt ngày, mỗi ngày, để cố gắng lập ra sự nối kết cần có để chiến đấu trong một đội hình tấn công nếu có lệnh. Áp lực vì không biết khi nào chúng tôi bị tấn công cũng thúc đẩy chúng tôi làm việc cật lực để trở thành một đơn vị chiến đấu hiệu quả. Chúng tôi được huấn luyện chiến đấu, và với sự tự tin của tuổi trẻ và ngây thơ, tôi không hề nghĩ đến cái chết hay bị tàn tật trong chiến đấu.
Công việc hàng ngày của chúng tôi là miệt mài tập dợt. Địa thế đồi núi làm cho việc huấn luyện rất khó khăn; không có mặt bằng nên người ngựa đều phải làm việc nhiều hơn. Ít ra, thời tiết cuối hè khô, nên chúng tôi không phải lo mưa và trợt té. Ngày qua ngày, và quân Pháp vẫn không tấn công. Wimmer, Rehberg, và tôi - cũng như biết bao người khác, tôi chắc vậy - đều mừng là quân Pháp - Anh để cho chúng tôi đủ thì giờ để người ngựa sẵn sàng trước khi họ tấn công. Cứ mỗi ngày huấn luyện, sự tự tin của chúng tôi càng cao hơn. Và nhiều ngày nửa trôi qua, vẫn không tấn công. Sau 2 tuần, binh lính bắt đầu bày trò cười về nó.
Một đêm, Niebergall ghé ngang và nhập bọn cùng Wimmer, Rehberg, và tôi uống rượu. Anh cho chúng tôi biết những tin mới nhất từ Ba Lan. Các diễn biến đều tốt đẹp. "Một chiến thuật gọi là Blitzkrieg," anh nói. "Xe tăng vượt qua phòng tuyến địch, và tấn công phá hủy liên lạc và đường tiếp vận. Sự xuất hiện của xe tăng trong hậu phương còn làm cho quân địch hoảng sợ. Chiến thuật này rất có hiệu quả ở Ba Lan". Niebergall ngay ngất vì sự thành công của chiến thuật mới này.
"Tốt lắm," Wimmer nói. "Bất cứ cái gì cũng tốt hơn chiến tranh hầm hố mà chúng tôi bị lún xuống trong cuộc chiến tranh vừa qua."
Ngày 17 tháng 9, quân Nga tấn công Ba Lan từ phía đông. Lúc đó, quân Ba Lan đã bị quân Đức tiêu diệt gần hết, và quân Nga hầu như không gặp sự kháng cự nào. Rõ ràng, đó là một phần của cái giá phải trả về quan hệ mới giữa Đức và Liên Bang Xô Viết. Nó giống như một sự nhạo báng đối với tôi. Thái độ của tôi đối với chính phủ bắt đầu lung lay về sự tin tưởng.
Binh lính bắt đầu gọi sự có mặt phòng thủ biên giới của chúng tôi là chiến thuật "sitzkrieg," một từ giễu được truyền từ mấy tay lái xe ngựa từ đơn vị này qua đơn vị khác. Một vài khu vực, quân Pháp và Đức thỉnh thoảng rót đạn pháo qua biên giới, nhưng nơi chúng tôi thì im lặng, vì Belgium và Luxembourg không đặt các cứ điểm bên biên giới của họ, vì chúng tôi không tuyên chiến với họ.
Cuối tháng 9, chúng tôi nhận lệnh rút vào làng mạc xa biên giới hơn, nơi chúng tôi có thể sinh hoạt khá hơn, sống trong nhà hoặc các trang trại thay vì hầm. Chắc là Bộ Tư Lệnh Tối Cao biết rằng quân Pháp sẽ không tấn công, mặc dù họ tuyên chiến với chúng tôi.
Pháo đội của tôi rút về một ngôi làng ở Eisenschmitt. Người ta bố trí người ngựa chúng tôi bố trí trên khoảng đất của Bismarck, ngay phía bên ngoài ngôi làng. Bismarck, "Thủ Tướng Thép", là thủ tướng của Đế Chế thứ 2 cuối thế kỷ trước. Đất đai được truyền cho người cháu trai của Bismarck, anh ta đã nhập ngũ và vợ anh ta cùng với đứa con trai 2 tuổi là những thành viên duy nhất của dòng họ Bismarck còn ở trên khu đất này.
Các sĩ quan ở trong các căn nhà trong làng. Có quân đội đóng quân trong làng là một kinh nghiệm mới với các cư dân ở đây, đây là vùng đất nghèo của nước Đức, và dân chúng vui mừng khi có thêm 1 ít tiền mà chúng tôi mang đến cho họ. Chế độ "tem phiếu" làm cho cuộc sống của họ khó khăn hơn.
Tôi nhận được thư của Fritz và biết rằng em tôi cũng bị kêu nhập ngũ. Cậu ta ở Jena, chỗ tôi ở 3 năm về trước, nhưng là bộ binh chứ không phải pháo binh.
Ngày 6 tháng 10, Sự chống trả của Ba Lan chấm dứt và cuộc chiến ở Ba Lan coi như xong. Mặc dù Pháp Anh tuyên chiến với Đức, họ đã không làm gì trong nổ lực chống lại chúng tôi, và chúng tôi vui mừng cho rằng cuộc chiến đã chấm dứt.
Thiếu Úy Niebergalll ghé ngang một đêm với vẻ mặt buồn bã.
"Chúng tôi vừa nhận được tin Dornberg bị chết ở Ba Lan. Anh ta ở tuyến trước với bộ binh để điều chỉnh pháo binh."
Mặc dù tôi biết là chiến tranh thật sự xảy ra, tôi vẫn chưa chứng kiến đánh nhau thật sự, và tôi cảm thấy khó khăn để chấp nhận cái chết của Dornberg. Hình ảnh ông ta và bà Dornberg ở buổi khiêu vũ ở Plauen hiện lên suốt đêm đó.
Ngôi làng ở Eisenschmitt tổ chức ngày hội ăn mừng chiến tranh chấm dứt ở Ba Lan. Binh sĩ chúng tôi tham gia vui vẻ, vì họ được uống bia miễn phí, ban nhạc chơi thật khuya, và sau những tuần lễ căng thẳng trên núi nên binh lính tận tình tham gia. Với tôi, tôi nghĩ rằng chúng tôi thật sự ăn mừng vì không phải đánhh nhau với Anh - Pháp hơn là chiến tranh chấm dứt ở Ba Lan. Cứ mỗi khi tôi hòa mình vào cuộc vui, lập tức tôi nghĩ về Dornberg và cuộc vui bỗng nhiên mất ý nghĩa.
Sáng hôm sau, Thiếu Tá Raake và tất cả các sĩ quan nhận được thiệp mời đến chỗ gia đình Bismarck để mừng thắng trận. Thiệp mời từ vợ của cháu trai Bismarck. Đây là một dịp khá lý thú. Chúng tôi được đi tham quan toà lâu đài, có cả chỗ chơi bowling dưới tầng hầm. Frau von Bismarck là một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp và hoạt bát vào khoảng giữa của tuổi hai mươi. Với cách ăn nói có duyên và sự chủ toạ xuất sắc, cô đã làm cho tất cả chúng tôi cảm thấy rất thoải mái, cô đem đứa con trai 2 tuổi ra giới thiệu đến từng người một.
Thời gian trôi qua và không có dấu hiệu của cuộc tấn công từ Pháp, chúng tôi tập luyện nhẹ nhàng hơn và cho lính nghỉ ngơi nhiều hơn. Dù vẫn còn đang tình trạng chiến tranh với Pháp và Anh, mọi người đều cảm thấy cuộc chiến đã thật sự chấm dứt sau khi Ba Lan thua trận. Tháng 10 và tháng 11 trôi qua mà không có gì xảy ra ngoại trừ thời tiết mùa đông khắt nghiệt hơn mọi năm. Chúng tôi bắt đầu huấn luyện chiến đấu mùa đông, để giữ binh lính bận rộn và nhanh nhẹn. Chúng tôi thực hành thành thạo hơn và hợp tác với bộ binh và các pháo đội khác trơn tru hơn. Gần đến Giáng Sinh, có quyết định cho binh lính nghĩ phép mùa lễ. Các lãnh đạo cao cấp chắc chắn không thấy có sự đe doạ từ Pháp, Một nửa quân số được nghĩ lễ 5 ngày trong Giáng Sinh và một nửa kia được nghỉ năm mới như thường lệ.
Niebergall nghỉ Giáng Sinh, và tôi được chọn làm những công việc của anh với cương vị sĩ quan phụ tá tiểu đoàn, người phụ tá quản lý của tiểu đoàn trưởng. Sĩ quan phụ tá phải gặp gỡ tất cả các pháo đội trưởng và cần phải hoà hợp với những người khác.
Tôi có một người khách bất ngờ trong dịp này. Liebelt, người bạn học lớp trung học của tôi, bỗng nhiên bước vào văn phòng của tôi trong bộ đồ bộ binh.
"Liebelt!" Tôi la lên khi trong thấy anh. Tôi nhảy lên và ôm lấy anh ta. "Gặp bạn vui quá!"
"Tôi được phân bổ đến đơn vị bên cạnh, " anh vừa nói vừa cười cười toe toét. "Tôi hy vọng là tìm được cậu ở đây."
Cậu ta và Ebert đang học ở trường Y Khoa, nhưng thỉnh thoảng sinh viên bị nhập ngũ để làm công việc cứu thương vài tuần.
Liebelt bị động viên, nhưng sẽ quay trở lại trường sớm.
"Anh có tin tức của mấy đứa kia không?" Tôi hỏi.
"Friedrich bị thương ở Ba Lan."
"Có nặng không?"
"Rất nặng." Liebelt trả lời buồn bả. "Không biết anh ta có qua khỏi không."
Tim tôi chùng xuống, và hình ảnh của Herr Hoffer lại hiện lên trong trí tôi thêm 1 lần nữa.
Đêm Noel, những người còn lại ở pháo đội tập trung lại trong một ngôi nhà lớn bằng gỗ được đặt những bàn dài Mỗi người lính được mọt chai rượu và một cái bánh Noel nhỏ. Chúng tôi hát những bài hát Noel, và Đại Úy Wimmer phát biểu ngắn về lý do tại sao chúng tôi phải ở phòng thủ ở đây. Những buổi tương tự cũng tổ chức ở các đơn vị khác dọc theo biên giới Đức - Bỉ và Luxembourg, Hoà Lan, và Pháp. Mục đích của chúng tôi là vui giáng sinh với nhau. Tôi đi vòng và chúc Giáng Sinh với mọi người. Tôi ngồi xuống 1 bàn cùng với Boldt, Lammers, Schmitt, và Knecht. Những người lính đã giúp tôi thật nhiều, và tôi nói cảm ơn họ. Họ cười và đùa với tôi. Trừ những người phải canh gác và lo cho ngựa, không có nhiệm vụ nào trong đêm và ngày giáng sinh. Mọi thứ đều yên bình và đẹp đẽ trên vùng núi Eifel.
Sau buổi tiệc Giáng Sinh ở pháo đội, Thiếu Tá Raake mời các sĩ quan uống rượu ở BCH tiểu đoàn đóng trong một nhà nghỉ của thợ săn.
"Quý vị," ông nâng ly, "vì hoà bình. Nếu quân Pháp không tấn công chúng ta trong khi chúng ta tấn công Ba Lan, tôi chắc chắn rằng họ sẽ không tấn công nữa."
Tôi nghĩ phép 5 ngày trong dịp đầu năm. Đây là lần đầu tiên tôi về nhà kể từ khi chiến tranh với Ba Lan bắt đầu. Fritz cũng được về, và thấy là lạ khi nhìn cu cậu trong quân phục. Cậu ta vui vẻ chào tôi và đùa với tôi là không được dùng vẻ mặt cấp trên ở nhà. Tôi chọc cậu ta lại là với vai anh, tôi luôn luôn cao cấp hơn cậu. Mẹ tôi lo cho hai chúng tôi, tôi cố gắng trấn an mẹ bằng lập luận của Raake: nếu Pháp không tấn công trong thời gian chúng tôi tấn công Ba Lan, họ chắc chắn sẽ không dám tấn công bây giờ. Fritz thì luôn hăm doạ.
"Nếu họ dám, chúng ta sẽ cho họ nếm nùi như bọn Ba Lan."
Cha tôi chỉ nhìn và không nói gì, mặc dù hình như ông khó chịu với lời nói của Fritz. Chị Inge cau mày và im lặng.
Tháng Giêng năm 1940 trôi qua với những hoạt động huấn luyện tiếp tục. Tháng 2, chúng tôi nhận lệnh lên xe lửa đi đến miền Trung nước Đức, có thể là một thành phần của lực lượng dự bị chiến lược. Kinh nghiệm đưa ngựa lên xe lửa lần trước làm cho lần này dễ dàng hơn. Ngựa cũng đã biết người chăm sóc, và đã được di chuyển, nên dễ dàng sai bảo. Chúng tôi xuống ở Magdeburg và tiếp tục đi bộ đến Leitzkau, một ngôi làng nhỏ gần đó, và tiếp tục huấn luyện.
Thời tiết mùa đông rất lạnh, nhưng chúng tôi được trang bị áo ấm. Chúng tôi phải đập băng để lấy nước cho ngựa hầu như hàng ngày, và cuối tháng giêng binh sĩ có thể trượt băng trên mặt sông mà không sợ làm vỡ mặt băng.Mặc dù mùa đông 1939-1940 rất lạnh so với mọi năm, chúng tôi có chỗ ở tốt nên không việc gì. Leitzkau là một ngôi làng khá vui, nên chúng tôi thích ở đây. Chúng tôi di chuyển từ khu vực nghèo nhất nước Đức trong vùng núi Eifel đến một trong những nơi thịnh vượng nhất. Mặc dù lương thực vẫn bị trong chế độ tem phiếu, nhưng những nông dân địa phương có rất nhiều thịt, sữa, trứng, và bơ.
Các sĩ quan ăn uống trong một khách sạn nhỏ. Chúng tôi đưa thức ăn cho nhân viên khách sạn, họ nấu nướng cho chúng tôi và lấy tiền công. Người quản lý khách sạn, Willy Kurtz, một nguời rất cao, khoảng 50. Ông có vẻ nặng nề và đầu hói, và là một người rất dễ mến với đôi mắt xanh. Bố ông ta cũng đã làm quản lý ở đây, và ông ta không biết bất cứ ở đâu trừ 2 năm phục vụ quân đội trong chiến tranh thế giới. Ông và Wimmer thường hay nói về cuộc chiến hầm hố.
"Có những lúc chân của tôi không bao giờ khô suốt cả mấy tuần," có một lần Kurtz nói. "Cả thân tôi cũng ướt suốt ngày. Chúng tôi chỉ ngồi chịu khổ sở ngày này qua ngày khác, cuộc sống dường như dừng lại, và chờ đợi cái lệnh khủng khiếp là xung phong xáp la cà."
Nghe họ nói chuyện, tôi bắt đầu thấm thía nổi lo sợ của Wimmer về 1 cuộc chiến tranh hầm hố.
Tư lệnh sư đoàn, Thiếu Tướng von Studnitz, đến Leitzkau kiểm tra trong tháng 3. Ông có vẻ như một người khá lý thú, mặc dù với lon thiếu uý, tôi chưa có dịp tiếp xúc ông. Trong lúc ông kiểm tra, ông cùng ăn tối với chúng tôi ở khách sạn Kurtz. Tôi không ngồi cùng bàn với ông, nhưng tôi có thể nhìn thấy hoạt bát so với một vị tư lệnh. Và ông đi vòng quanh các bàn để chuyện trò.
Ngày 3 tháng 4, chúng tôi di chuyển nữa, lần này đến Overath gần Cologne, ngay phía đông sông Rhine. Một lần lửa, chúng tôi lên xe lửa. Bây giờ thì chúng tôi thành thạo lắm rồi. Chúng tôi tiếp tục huấn luyên, tập vượt sông, bảo vệ pháo từ các cuộc tấn công, và các hoạt động khác.
Ngày 1 tháng 5 năm 1940, tôi được lệnh trình diện Thiếu Tá Raake. Ông chào lại tôi và mời ngồi.
"Niebergall được thăng cấp lên pháo đội trưởng ở một tiểu đoàn khác," ông đi thẳng vào vấn đề. "anh có thích làm sĩ quan phụ tá của tôi không?" Tôi trả lời một cách tự động, tất nhiên, vì trở thành sĩ quan phụ tá tiểu đoàn là một bước lớn và theo hướng tốt nhất đối với tôi.
"Tôi rất làm hân hạnh, thưa Thiếu Tá,"
Tôi rộn ràng và vui mừng. Sự nghiệp của tôi tiến lên một cách đẹp đẽ. Thường thì một sĩ quan tiến thân từ sĩ quan tiền sát lên sĩ quan pháo đội, rồi đến phụ tá tiểu đoàn, tiếp là pháo đội trưởng. Tiếp đó là sĩ quan phụ tá trung đoàn - hoặc vào trường Đại Học Tham Mưu nếu tỏ ra xuất sắc.
Là sĩ quan phụ tá của Thiếu Tá Raake, tôi phải biết ông rõ hơn. Ông hiểu biết và say mê chiến thuật Blitzkrieg, như nó đã xảy ra ở Ba Lan. Mặc dù biết rõ về chiến tranh hầm hố (trench warfare) và rất sợ nó. Ông thấy được làm chiến thuật Blizkrieg làm cho chiến thuật cũ bị lạc hậu đi như thế nào. Tôi rất phục Raake và thường cố gắng học tập tính cách của ông ta.
Trong thời gian này, tôi thắng giải thi bắn súng ngắn ở Overath. Đầu tháng 5, ngay sau khi tôi trở thành sĩ quan phụ tá tiểu đoàn, chúng tôi bắt đầu lên kế hoạch tổ chức một cuộc thi bắn súng toàn sư đoàn. Thiếu Tướng von Studnitz là một người lính kỵ binh, và ông ủng hộ kế hoạch của chúng tôi. Đây chắc chắn làm một cuộc tranh tài thú vị.
Nhưng nó không bao giờ xảy ra. Sáng ngày 10 tháng 5 năm 1940, Đức tấn công nước Pháp.