Đại tiến vọt thực tế gồm hai lần. Lần thứ nhất diễn ra trước Hội nghị Lư Sơn 1959, cuối măm 1958 đã phát hiện có vấn đề nghiêm trọng. Sau Hội nghị Lư Sơn để chứng minh ba ngọn cờ hồng đúng đắn, Mao phát động phong trào chống hữu khuynh trong toàn đảng rồi dấy lên cao trào Đại tiến vọt 2 trong cả nước lần “tiến vọt” này kéo dài hơn một năm từ nửa cuối 1959 tới cuối năm 1960, gây tôi ác lớn nhất.
Ngày 3-9-1958, Mao tuyên bố: “Sản lượng lương thực năm nay có thể tăng xấp xỉ gấp hai lần năm ngoái, từ 185 triệu tấn lên khoảng 370 triệu tấn nếu năm 1959 lại tăng gấp hai lần năm nay, lên 750 triệu tấn”. Tin lên ra cả thế giới đều biết. Sau vụ thu hoạch, đột nhiên các tỉnh báo cáo không nộp đủ lương thực như dự định. Mao sốt ruột, bởi đây là việc thật bẽ mặt. Ông ta đích thân viết thông tri gửi toàn quốc, nhận định “vấn đề phổ biến trong cả nước là các công xã, đội trưởng sản xuất che giấu sản lượng, chia nhau lương thực, tình hình nghiêm trọng, phải giải quyết ngay”, hơn nữa, “phải tiến hành một đợt giáo dục kiên quyết mới giải quyết được”. Song “kiên quyết” như thế nào Mao không nói rõ, để cho cấp dưới đầy đủ không gian tha hồ tưởng tượng, phát huy. “Chống che giấu sản lượng và chia nhau lương thực” bằng thủ đoạn “giáo dục kiên quyết moi cả khẩu phần lương thực của nông dân là nguyên nhân chủ yếu gây chết đói trên qui mô lớn.
Tỉnh Hà Nam vụ thu 1958 có tới 50% mùa màng bị hư hỏng ngoái đồng (do lao động khỏe bị huy động đi làm gang thép). Năm 1959 sản lượng lương thực giảm, chỉ có 9,75 triệu tấn, nhưng các nơi hư báo lên tới 22,5 triệu tấn. Bí thư tỉnh uỷ Ngô Chi Phó lấy đó làm cơ số giao chỉ tiêu cưỡng bức thu mua lương thực, cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ bị coi là “Bành Đức Hoàn con”. Chuyên khu Tín Dương thực sản chỉ có 2 triệu tấn, Bí thư Khu uỷ Lộ Hiến Văn vống lên 4,15 triệu tấn, tỉnh giao chi tiết thu mua 48 vạn tấn đã là quá cao, Khu uỷ xung phong nhận 52 vạn tấn. Khẩu phần lương thực, hạt giống và thức ăn gia súc của nông dân bị cướp đi rất nhiều, bình quân đầu người chỉ còn hơn 50 kg, đủ ăn trong 4 tháng, một số huyện thậm chí không đủ 3 tháng. Chưa đến cuối năm 1959 bếp ăn tập thể của nhiều công xã không còn đỏ lửa và hết lương thực.
Để quán triệt tinh thần “kiên quyết giáo dục” của Mao Trạch Đông, Khu uỷ đã tổ chức cuộc họp 6.000 người ở huyện Hoàng Xuyên, lôi hơn 60 người ra đấu tố, lại lôi thêm 4 người từ nhà tù ra xét xử công khai. Những nông dân đến dự đều gầy gò, vàng vọt, khoảng 40% mắc bệnh phù thũng, một người chết đói tại chỗ, 19 người chết trên đường về nhà.
Ngày 8-11-1959, cán bộ Đội sản xuất Lê Thụ, Công xã Hoài Điếm, huyện Quang Sơn, nghi ngờ xã viên Từ Phó Chính có lương thực mà không giao nộp đã cho dân quân treo Từ lên xà nhà, đánh đập dã man, 6 ngày sau tử vong. 6 người trong gia đình Từ sau đó đều chết đói. Xã viên Yên Gia Tâm do không nộp đủ lương thực, bị đánh đập tàn bạo, 5 ngày sau qua đời. Vợ Yên là Hoàng Tú Anh rang lúa mạch cho con ăn, bị trói lại đưa ra đấu, bị dội nước lạnh giữa ngày đông giá rét và giày vò cho đến chết. Còn lại 5 người con, chỉ có đứa lớn 14 tuổi bỏ chạy đến nhà họ hàng thoát thân, còn lại 4 đứa nhỏ đều chết đói. Biết bao nông dân bị tan cửa nát nhà vì cuộc “giáo dục kiên quyết” này!
Mùa xuân 1960, nạn đói tràn lan, có làng 80 ngày người dân không được một hạt lương thực vào bụng. Nhiều người chết đói hoặc bỏ đi nơi khác kiếm ăn. Vậy mà Bí thư Khu uỷ Lộ Hiến Văn vẫn lên giọng: “Không phải thiếu lương thực, mà lương thực rất nhiều, 90% là vấn đề tư tưởng”. Ông ta chỉ thị cho cán bộ cơ sở và dân quân phong toả mọi nẻo đường, không cho dân chúng bỏ đi nơi khác, chỉ thị cho các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp, trường học ở các thị trấn không được đón tiếp người từ vùng nông thôn lên. Bưu cục Tín Dương đã giữ lại trên một vạn lá thư của cán bộ và quần chúng xin cứu đói.
Theo báo cáo của Khu uỷ gửi Trung ương sau này, chỉ riêng đông xuân 1959-1960, Tín Dương có hơn 1 triệu người chết đói, dân số giảm mạnh, đồng ruộng hoang vu, nhiều nhà chết không còn một ai. Đội sản xuất Ngô Viên Tử thuộc Công xã Thập Lý huyện Quang Sơn có 120 nhân khẩu, thì chỉ trong tháng 10 và tháng 11 năm 1959 đã có 72 người chết đói. Danh sách 72 người này năm 2004 đã được khắc trên tấm bia để nhấc nhở đời sau.
Sự kiện Tín Dương bị phơi trần, để bảo vệ mình, Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ Hà Nam Ngô Chi Phố hạ lệnh bắt Lộ Hiến Văn cùng 16 Bí thư Huyện uỷ và Huyện trưởng thuộc Khu Tín Dương, cách chức 982 cán bộ cấp dưới, bắt và đưa ra xét xử 275 người, kết án tử hình Dương Thủ Tích, Bí thư Huyện uỷ Cố Sử và Mã Long Sơn, Bí thư Huyện uỷ Quang Sơn.
Sự kiện trên làm chấn động Bắc Kinh. Bí thư Ban Kiểm tra kỷ luật trung ương Đổng Tất Vũ cử hai vụ trưởng về điều tra tại chỗ. Càng điều tra, càng phát hiện nhiều vấn đề nghiêm trọng. Tháng 5-1960, Đổng Tất Vũ chuyển báo cáo điều tra lên Thường vụ Bộ Chính trị, Mao xem xong, định hướng đây là sự kiện phản cách mạng, do địa chủ, phú nông lọt lưới chui vào đội ngũ cách mạng, phá hoại quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Thế là Mao rũ sách trách nhiệm thủ phạm đầu sỏ làm cho mấy chục triệu người chết đói, và một lần nữa trở thành cứu tinh của nhân dân.
Số người chết đói ở Trung Quốc trong thời gian 1959- 1962 là 5,11% dân số cả nước. Sáu tỉnh nặng nhất là An Huy 18,37%, Tứ Xuyên 13,07%, Quý Châu 10,23%, Hồ Nam 6,81%, Cam Túc 6,45%, Hà Nam 6,12%. Sáu tỉnh bị nhẹ nhất là Hà Bắc (gồm cả Bắc Kinh, Thiên Tân) 11% Giang Tây 1,06%, Thiểm Tây 1,02%, Cát Lâm 0,94%, Chiết Giang 0,55%, Sơn Tây 0,37%. Sự chênh lệch này liên quan rất lớn tới tố chất của các Bí thư thứ nhất Tỉnh uỷ: nơi nào càng bám sát “đường lối cách mạng” của Mao, thì tỉ lệ người chết đói càng nhiều.
Nạn ăn thịt người đã diễn ra ở Tứ Xuyên và nhiều nơi khác: khi chôn người chết chỉ vùi nông, tối đến bới lên xẻo lấy thịt ăn, hoặc tang chủ đã lóc thịt thân nhân trước khi mai táng. Tàn nhẫn hơn là nạn ăn thịt trẻ con, điển hình là chuyện xảy ra ở Đội sản xuất số 1, Đại đội 5, Công xã Đông Dương, huyện Sùng Khánh, Khu Ôn Giang, tỉnh Tứ Xuyên.
Theo lời Trịnh Đại Quân, nguyên cán bộ Ban công tác nông thôn huyện Sùng Khánh. Đội sản xuất trên có 82 hộ, 491 nhân khẩu, chỉ trong một năm từ tháng 12-1959 đến tháng II-1960, đã có 48 bé gái 7 tuổi trở xuống bị người lớn làm thịt, chiếm 90% số bé gái cùng độ tuổi ở nơi này. 83% số gia đình ở đội này từng ăn thịt người. Chuyện đau lòng đó diễn ra trong bối cảnh lương thực hết sạch, mọi người từng nhiều ngày phải ăn giun dế, côn trùng, lá cây, vỏ cây, cỏ dại, và cả đất thó. Kế toán Vương Giải Phóng là người đầu tiên phát hiện vụ ăn thịt trẻ con. Hồi đó, tuy nhà ăn tập thể thực tế đã ngừng hoạt động vì không còn lương thực nữa, nhưng lệnh cấm các gia đình nấu nướng vẫn còn hiệu lực, bếp nhà ai nổi lửa là phạm pháp.
Đêm ấy, đến lượt Vương cùng hai người khác đi tuần. Các mái nhà phủ trắng tuyệt đầu mùa sáng hẳn lên khi vầng trăng nhô ra khỏi đám mây. Nhóm tuần tra phát hiện một dải khói mỏng toả ra từ mái nhà bần nông Mạc Nhị Oa. Họ chia nhau bao vây vu hồi, rồi đồng loạt bấm đèn pin nhảy vào nhà, nổ một phát súng cảnh cáo: tất cả ngồi im! Đèn dầu được châm lên, nhà Nhị Oa có 8 nhân khẩu, đã chết đói 2, còn lại 6 người, nhưng lúc này chỉ thấy có 5. Thành viên thứ 6 là bé gái Thụ Tài 3 tuổi vừa bị giết hại, xẻ ra lấy thịt, đang luộc trong nồi. Trong lúc tổ tuần tra tìm cây trói can phạm, Nhị Oa và mấy đứa con lao vào cướp thịt Thụ Tài, ăn ngấu nghiến. Khi cả 5 người lớn bé bị trói thành một xâu đưa về trụ sở Đại đội sản xuất, trời đã sáng bạch. Cán bộ lãnh đạo địa phương sau khi nghiên cứu cân nhắc, đã quyết định ỉm vụ này đi, vì sợ bị kỷ luật. Sau một ngày bị giam giữ, cả nhà Mạc Nhị Oa lại được tha. Dân làng bàn tán, cho rằng chính phủ ngầm cho phép ăn thịt trẻ con. Thế là nạn ăn thịt trẻ con lan tràn, do “trọng nam khinh nữ”, họ chỉ ăn bé gái, giữ lại bé trai.
Không những ăn thịt, mà còn nghiền vụn xương đầu và tay chân ăn cho bằng hết. Kẻ nhẫn tâm thì làm thịt con ngay tại nhà mình. Kẻ mềm yếu hơn thì “gạt nước mắt đánh đổi với hàng xóm”: trao con mình cho người khác ăn, mang con người khác về làm thịt. Một số xã viên “nhìn xa trông rộng”, đã đi bắt cóc trẻ con ở vùng lân cận về ăn, hoặc gài bẫy trẻ con như bẫy thú, kể cả việc sử dụng một loại thuốc nổ xưa kia dùng để bẫy sói: trẻ nhỏ nhặt được chiếc “kẹo” mùi vị thơm ngon, cho vào miệng nhai liền phát nổ, đầu mặt tan tành, khi gia đình hay tin tìm đến, thì chỉ còn lại vũng máu.
Trong ba năm đói kém ấy, tình hình xã hội rối ren nghiêm trọng. Tháng 12-1960, Chuyên khu Vô Hồ tỉnh An Huy xảy ra 180 vụ cướp lương thực. Nhiều vụ khác xảy ra ở Cam Túc, Quảng Đông, Quí Châu, Tứ Xuyên. Nhiều vụ bạo động qui mô lớn, các hoạt động phiến loạn vũ trang nổ ra ở Vân Nam, Quí Châu, Quảng Đông, Quảng Tây, An Huy, Hồ Bắc, các chính đảng hoạt động bí mật mọc lên như nấm, mãi đến năm 1970 mới dẹp xong.
Số người chết đói trong Đại tiến vọt không bởi thiên tai, mà do “nhân hoạ”, “Mao hoạ”, quyết sách sai lầm. Cuối tháng 6-1959, dự trữ lương thực trong cả nước 17 triệu tấn, đủ đáp ứng nhu cầu thành thị trong một năm. Nhưng trong tình hình lương thực giảm 30 triệu tấn, Mao lại quyết định xuất khẩu 4,19 triệu tấn để đổi lấy vàng và USD, bầng 24% dự trữ lương thực.
Nếu Quốc hội Trung Quốc thật sự có quyền làm chủ, không chấp nhận chỉ tiêu tăng sản lượng gang thép lên gấp hai lần, không thông qua thể chế công xã hoá, hoặc có quyền lực kiên quyết ngăn chặn cuộc Đại tiến vọt hại nước hại dân, thì có thể tránh hoặc giảm nhẹ tai hoạ này. Đáng tiếc là Kỳ họp thứ 2 Quốc hội Khoá 2 họp tại Bắc Kinh từ 30-3 đến 8-4-1960, 2.000 đại biểu đều phụng mệnh “ba không”: không nói đến nhiệm vụ trưng mua lương thực quá nặng; không nói nông thôn thiếu lương thực; không nói nhiều người chết đói, mà chỉ được phép nói về “tình hình tốt đẹp” ở địa phương mình, giơ tay thông qua kế hoạch kinh tế Đại tiến vọt hơn nữa.