Sương mờ vẫn bao phủ đỉnh Hổ Khâu Sơn.
Đèn đỏ chiếu qua sương bạc, sương nhuốm màu hồng, trông như ngàn hoa máu kết tụ.
Sương giống hoa, vì có ánh đèn, sương chổ dày, chổ mỏng không đều, hiện ra lốm đốm hồng, chổ đậm chổ nhạt.
Ngoài vũng hồng mờ nhạt nơi đỉnh tháp, chung quanh, là biển tối đen.
Hồ Thiết Hoa nhìn ra xa xa, chừng như muốn tìm lại bóng hai vợ chồng kỳ quái.
Một lúc lâu, y quay sang Tiểu Phi điểm một nụ cười, thốt:
-Ta đoán thế nào ngươi cũng buông tha cho họ! Quả nhiên đúng như vậy! Tiểu Phi điềm nhiên:
-Nếu ngươi là ta hẳn ngươi đã hạ thủ rồi?
Hồ Thiết Hoa mỉm cười:
-Giết họ làm gì? Nhất là một người sợ vợ? Phàm những người sợ vợ, ít ai dám làm điều bại hoại. Họ không phải là những con sâu xã hội, mình giết họ làm chi! Tiểu Phi hỏi:
-Ngươi giải thích ta nghe! Hồ Thiết Hoa lại cười:
đến vợ mà họ còn sợ, thì họ làm gì có can đdảm làm những việc gì khác chứ?
Huống chi điều bại hoại là điều bại hoại là điều nguy hiểm?
Y vỗ tay lên đầu vai Tiểu Phi rồi tiếp:
-Lúc ngươi buông tha Đổ Cẩu Ông, ngươi có lưu ý đến sắc diện của lão ta chăng? Ta theo dõi lão rất kỹ. Bình sanh ta chưa hề trông thấy một gương mặt nào khó nhìn bằng! Chừng như lão vẫn vui cho ngươi giết lão, lão mong muốn được chết hơn là được ngươi tha! Lão không thích theo mụ đó trở về chăng? Lão sợ theo mụ đó trở về thế nào lão cũng bị hình phạt nặng nề, không tinh thần cũng xác thịt! Y lại cười, rồi tiếp:
-Thật ta không tưởng tượng nổi! Tiểu Phi cười nhẹ:
-Ngươi cho là lão thọ tội, nhưng lão lại nghĩ đó là hưởng thọ! Hồ Thiết Hoa suýt kêu to lên:
-Hưởng thọ? Quỳ gục đầu, đội mâm hầu là hưởng thọ à?
Tiểu Phi gật đầu:
đương nhiên! Ta hỏi ngươi:
Đổ Ngư Bà có thích cho ngươi làm việc đó chăng?
Hồ Thiết Hoa hừ một tiếng:
-Tại sao bà ấy muốn ta làm việc đó?
Tiểu Phi cười:
-Ngươi thấy đó, khi nào bà ta thích bảo ngươi, hay bất cứ ai khác làm như vậy?
Bởi, bà ta không yêu ngươi, hay bất cứ ai khác! Bà ta chỉ yêu một Đổ Cẩu Ông! Và chỉ có người được bà yêu mới có hân hạnh đội mâm hầu, quỳ gục đầu bên cạnh giường bà, dưới gối bà! Được yêu là hưởng thọ chứ còn gì nữa! Phục lụy vợ là hưởng thọ chứ còn gì nữa! Hồ Thiết Hoa thở ra:
-Thế những người sợ vợ, cho rằng mình có diễm phúc được vợ hành hạ! Vợ càng hành hạ là càng tỏ ra yêu thương! Tiểu Phi nghiêm giọng:
đúng! Người ta nói, yêu nhau lắm mới cắn nhau đau! Nếu không yêu, bao giờ họ cho ai ở gần? Nếu không yêu, khi nào họ đay nghiến, họ ray rứt nhau? Cho nên tình yêu phát lộ qua hình phạt, vì yêu họ nhìn những hình phạt đó là phần thưởng! Có như vậy họ mới chịu đựng nổi chứ! Hồ Thiết Hoa ôm đầu, muốn rên tiếng lớn lắm! Sau cùng, y thở dài thốt:
-Nếu tất cả các nữ nhân yêu chồng nư mụ ấy thì trên thế gian này, chùa đâu có đủ để chứa hòa thượng?
Tiểu Phi cũng thở dài:
-Lập luận như vậy, là ngươi chưa hiểu cái tư vị của những đôi vợ chồng! Và tình cảm là cái gì phức tạp nhất ở trên thế gian! Hồ Thiết Hoa cau mày:
-Ngươi hiểu? Ngươi lấy vợ chưa mà dám nói thế?
Tiểu Phi không đáp câu đó, chỉ hỏi lại:
-Ngươi cho rằng Đổ Cẩu Ông sợ vợ?
Hồ Thiết Hoa trừng mắt:
-Chứ không à?
Tiểu Phi tiếp:
-Ta hỏi ngươi, tại sao lão sợ mụ ấy? Không lẽ ngươi chẳng thấy lão có võ công cao hơn vợ lão sao?
Hồ Thiết Hoa giật mình:
-Phải! Đổ Ngư Bà chỉ có thân pháp ngụy dị, còn Đổ Cẩu Ông thì có công lực cực kỳ thâm hậu! Nếu cả hai đánh nhau phần thắng cầm chắc về tay Đổ Cẩu Ông rồi! Đánh thắng vợ làm gì lão sợ vợ! Tiểu Phi mỉm cười:
-Cho ngươi biết, Đổ Cẩu Ông rất yêu vợ, phàm nam nhân nào quá yêu vợ, cũng sợ vợ cả. Họ sợ vì quá yêu, chứ chẳng phải sợ vì tài cao mưu độc chi cả. Cho nên ngươi đừng thấy lão sợ vợ rồi cho rằng lão khiếp trước mụ ta như tên nô lệ khiếp trước chủ nhân, lão không muốn làm gì xúc phạm đến người yêu. Giả như lão có nô lệ, thì đúng là lão nô lệ cho tình yêu chứ chẳng phải thực sự nô lệ cho mụ ấy, dù tình yêu nằm trong cái xác vĩ đại của mụ.
Hồ Thiết Hoa lắc đầu:
-Ngụy biện! Ngụy biện! Ta không tin là có như vậy, hoặc giả ngươi giải thích bừa bãi, không hợp với đạo lý! Tiểu Phi mỉm cười:
-Sau nầy, khi nào ngươi lấy vợ, nằm đêm nhớ những gì ta đã nói với ngươi trong lúc nầy, ngươi sẽ tìm ta tức khắc, để bái phục ta! Họ vừa đến Hổ Khâu Sơn, từ cô bé bán hoa đến vợ chồng Đổ Cẩu Ông, ngang qua Soái Nhất Phàm, họ vào tử ra nguy ba lượt, họ vẫn cười nói được như thường, chẳng những thế, họ còn đi sâu vào hiểm địa, họ thản nhiên như thường.
Quả thật, trên đời nầy có mấy tay dư can trường như họ?
Giả như ai khác, chắc chắn là phải quay trở về.
Đành rằng họ có một lý do đi sâu vào, lý do đó là truy tầm tung tích bọn Tô Dung Dung.
Song họ còn một lý do khác, quan trọng không kém là không thể bỏ cái tác phong của người hùng.
Trở lại là hèn! Do đó cả hai hăng hái đi tới.
Vợ chồng Lý Ngọc Hàm viện dẫn những tay lợi hại như Soái Nhất Phàm, Đổ Cẩu Ông, Đổ Ngư Bà đến đây, toan ám sát chàng, song chàng đều thoát nạn.
Qua hai cửa ải đó rồi, còn bao nhiêu cửa ải nữa mới thật sự đến Ủng Thúy sơn trang?
Nếu có, những người ở phía trước đó, lợi hại như thế nào nữa?
Phá được hai cửa ải,nào phải là việc tầm thường? Sức người có hạn, đánh lui Soái Nhất Phàm và vợ chồng Đỗ Cẩu Ông, Đổ Ngư Bà, Tiểu Phi mất rất nhiều công lực.
Giả như, những tay kém hơn Soái Nhất Phàm và Đổ Cẩu Ông, Đổ Ngư Bà, chưa chắc gì chàng thủ thắng nổi, huống chi cái chắc là có khi nào vợ chồng Lý Ngọc Hàm gọi những tay kém đến đây?
Điều mà chàng lo ngại nhất, chẳng phải bọn viện thủ của Lý Ngọc Hàm và Liễu Vô My.
Bọn Tô Dung Dung hiện ở trong tay vợ chồng họ.
Họ làm mọi cách tiêu diệt chàng. Nếu chàng san bằng mọi trở lực, thì vợ chồng họ hết phương rồi, họ sẽ dùng bọn Tô Dung Dung uy hiếp chàng, bắt buột chàng tuân theo một vài điều kiện nào đó.
Chàng sẽ xử trí ra sao?
Nhưng, lo là lo bên trong, cả hai cứ nói cứ cười như thường.
Hồ Thiết Hoa mỉm cười, thốt:
-Ta trông thấy Đỗ Ngư Bà xách vành tai Đỗ Cẩu Ông mà đi như người xách tai thỏ, ta buồn cười quá. Buồn cười hơn nữa là cái lão ấy lại co chân lên, tỏ vẻ quá sợ! Tiểu Phi gật đầu:
-Cho nên, Đổ Cẩu Ông mới bảo, lão không sợ trời ngán đất, lão xem thường phép nước, luật vua, nhưng lão lại rung rung trước Thiên La Địa Võng! Thiên La Địa Võng là cái màn lưới tưởng tượng, màn lưới tình do Đổ Ngư Bà giăng mắc quanh lão, ràng buộc lão chằng chịt, lão thích rúc mình trong màn lưới đó. Lão cho là tổ ấm của lão, nguồn hạnh phúc của lão! Hồ Thiết Hoa lắc đầu, cười khổ:
-Vô luận họ yêu nhau như thế nào, ta vẫn thấy họ là đôi vợ chồng quái dị nhất ở trên đời! Trước họ, không ai sau họ, chắc chắn cũng sẽ chẳng có ai. Tuy vậy, cũng thú vị lắm đấy! Tiểu Phi mỉm cười:
-Nếu không thú vị, khi nào họ bám sát nhau nhừ hình với bóng bất luận nơi đâu, trước đám đông hay trong chỗ kín?
Chàng kết luận qua tiếng thở dài:
- Dù sao, họ cũng có nhiều thú vị, hơn vợ chồng Liễu Vô My và Lý Ngọc Hàm! Sảnh đường to quá, dài quá, sảnh có cái vẻ đặc biệt hơn bất cứ sảnh đường nào, ở chỗ dài quá.
Dài thăm thẳm, dài khoảng, từng khoảng. Như nhiều khoảng kết thành, như chẳng phải một tòa khách sảnh duy nhất.
Qua mỗi chặng, có một bức rèm trúc chắn ngang.
Giữa những khoảng rèm, chim én liệng hẹ nhàng, nhanh nhẹn.
Có chim, tất có hoa. Chim có nhiều loại, hoa có nhiều giống.
Tiếng chim nghe êm tai, hương hoa ngửi nhẹ mùi.
Có mấy đồng tử bỏ tóc thề, dứng chực nghinh tiếp khách. Đồng tử bỏ tóc thề?
Đồng tử là nam, bỏ tóc thề là nữ, thế chúng là nam hay nữ?
Khách của chúng là ai?
Đương nhiên là Tiểu Phi và Hồ Thiết Hoa.
Họ đã đến sảnh đường, tức nhiên họ qua lọt bao nhiêu cạm bẫy. Họ an toàn đến đây.
Cuối cùng rồi họ cũng đến Ủng Thúy sơn trang.
Sau bọn đồng tử buông tóc thề, tự nhiên có bọn Liễu Vô My và Lý Ngọc Hàm.
Cả hai nở nụ cười ân cần mời khách.
Liễu Vô My nói:
-Lúc đêm xuống bóng tối lan tràn, bọn tôi cứ đi, đi mãi khi nhìn lại chẳng thấy hai vị đâu cả! Bọn tôi loanh quanh tìm hai vị, tìm rất lâu, chẳng gặp hai vị, định bụng có lẽ hai vị đã đến trước đây rồi, nên cấp tốc về trang, ngờ đâu các vị cũng chưa đến! Thật chúng tôi lo sợ vô cùng! Lý Ngọc Hàm tiếp:
-Tại hạ toan ra lịnh cho người nhà đi khắp nơi tìm các vị, song lịnh chưa kịp đưa ra, các vị đã đến rồi! May quá! Họ còn nói như vậy được sao?
Họ còn thân thiết được sao?
Hồ Thiết Hoa tức uất phi thường, khí uất lồng lên, suýt vỡ ngực y. Y không tưởng ổi trên đời này lại có những kẻ trơ trẽn đến mức độ đó.
Tiểu Phi bình tỉnh như chẳng có việc gì xảyra.
Chàng điểm nhẹ nụ cười, đáp:
-Bọn tại hạ mãi mê ngắm cảnh, thành lạc đường. Không ngờ việc sơ suất nhỏ mọn đó, lại làm cho hai vị quá lo lắng. Thật lỗi quá! Lý Ngọc Hàm mỉm cười:
đêm trắng tại Hổ Khâu Sơn, quả có đẹp hơn những nơi khác. Huống chi, Lưu Hương huynh và Hồ huynh là bậc nhã sĩ, khi nào lại bỏ rơi một cảnh đẹp.
Hồ Thiết Hoa không dằn lòng được buột miệng chen vào:
-Thực ra bọn tại hạ cũng chẳng ngoạnthưởng được gì. Bất quá, ngủ một giấc nơi chân tháp baảy tầng, mà trong khi ngủ, lại nằm mơ nhiều chuyện hay hay! Liễu Vô My điềm nhiên:
-Thì ra, Hồ huynh làm một cuộc mộng du tại Hổ Khâu sơn! Thú vị thật! Hồ Thiết Hoa cười mỉa, tiếp:
-Thực ra, cũng chẳng phải là một giấc mộng đẹp đó tẩu phu nhân! Trong mộng, bọn tại hạ gặp nhiều người muốn lấy sanh mạng của bọn tại hạ! Y dừng lại một chút, rồi tiếp:
-Mộng mà gặp người đến sát hại mình, thì mộng đâu có thú vị? Tuy nhiên vẫn có cái thú, bởi những người, mà bọn tại hạ gặp trong mộng, là những người do các vị mời đến đây! Liễu Vô My thay vì nao núng lại cười tươi:
-Thú ghê! Thú ghê! Rất tiếc bọntôi không có một giấc mộng như vậy? Nếu không thì, có thể chúng ta gặp nhau trong mộng? Gặp nhau trong mộng, còn gì thú bằng, hở các vị?
Họ đã đi qua khỏi bức rèm thứ tư, đến bức rèm thứ năm.
Ở mỗi bức rèm, có những đồng tử xỏa tóc thề đứng chực vén lên, họ đi qua rồi chúng buông xuống.
Mỗi một bức rèm buông xuống ngăn cách họ xa hẳn hồng trần, càng vào sâu, càng xa hồng trần hơn.
Hồ Thiết Hoa đảo ánh mắt, như muốn nói chi.
Lý Ngọc Hàm mỉm cười cất tiếng trước:
-Người các vị muốngặp sắp đến nơi rồi.
Hồ Thiết Hoa nhìn sang Tiểu Phi một thoáng. Y không nói nắng gì.
Vô luận y muốn nói gì, cũng không thể nói ra, y không muốn nói ngay bây giờ.
Y nghĩ, chờ lúc gặp Tô Dung Dung rồi, muốn nói gì, sẽ nói.
Tiểu Phi luôn luôn cười nhẹ. Nụ cười được giữ mãi, để che giấu một tâm trạng khẩn trương.
Bức rèm trước mặt lại được vén qua một bên.
Từ bên trong, mùi đàn hương bốc ra, không còn bị rèm ngăn chận, loang ra ngoài.
Trong màn khói đàn hương, có một lão nhân tóc trắng, đang ngồi yên tịnh.
Lão nhân còn quắc thước lắm, nhưng vẻ tiều tụy phảng phất nơi môi nơi mắt.
Một con người còn quắc thước song lại kém sinh khí, kể cũng lạ! Hơn thế, lão như chỉ còn chiếc xác, chẳng có linh hồn, không linh hồn, không sinh khí thì làm gì có sinh thú? Lão sống đó, có khác nào đã chết rồi.
Lão sống đó, để chờ chết, đếm từng ngày qua đếm cho tới đứt đoạn chuỗi thừa.
Nhưng, trước mặt lão có một thanh kiếm.
Kiếm rất đẹp, rất quý thân kiếmm àu xanhbiếc, óng ánh như nước ao thu.
Vỏ kiếm cẩn nhiều đá quý song màu sắc của đá bị lu mờ vì thép kiếm sáng quá.
Còn lại bao nhiêu tinh thần khí lực lão nhân tập trung lại nơi thanh kiếm.
Đôi mắt nhìn thân kiếm không rời, không chớp.
Đôi mắt lờ đờ, bởi mơ màng hay si dại?
Gì thì không biết, chắc chắn là lão nhân êm thanh kiếm phi thường.
Trong giai đoạn chờ về với tổ tiên, lão quên tất cả. Trừ bỏ tất cả để ngồi đây với thanh kiếm. Như vậy, đủ biết lão quý thanh kiếm hơn người thân! Lão không làm một cử động nhỏ.
Có thể bảo lão duy trì sinh lực kéo dài sự sống đến nay, là nhờ thanh kiếm.
Lão nhân là ai?
Lý Quan Ngư? tay kiếm vang danh thiên hạ suốt mấy mươi năm dài?
Nếu thế thì vàng son của thời oanh liệt đã chào biệt lão ra đi để lại cho lão cái ủ rủ với niềm luyến tiếc xa xôi?
Tiểu Phi và Hồ Thiết Hoa không khỏi sững sờ, vừa kinh dị vừa thương cảm trước luân chuyển của thịnh suy.
Thì ra, cuộc đời là một tấnkịch dài, mở màn từ lúc trưởng thành vào sân khấu, đóng hết vai trò màn hạ rồi lại trở về với lãng quên, với phủ phàng, với bất lực của đoạn đầu sơ sanh và đoạn cuối của lão nhược! Thế tại sao con người mãi bôn xu theo danh lợi, phí bỏ những ngày sanh đầy hoan lạc, không hưởng thụ để lúc suy tàn lại nuối tiếc cái đã qua?
Không ai kéo ngược bánh xe thời gian trở lại vòng tươi sáng nhất đời mình, giữ mãi lại đó! Nhưng đắc thất của lão nhân không thành vấn đề cho Tiểu Phi và Hồ Thiết Hoa.
Điều làm cho họ lo lắng là sự vắng mặt của bọn Tô Dung Dung! Các nàng hiện tại ở đâu?
Chàng toan cất tiếng hỏi, vợ chồng Lý Ngọc Hàm đã vượt lên, và qua mặt chàng.
Cả hai nghiêng mình làm lễ.
Lý Ngọc Hàm thốt:
-Con có hai vị bằng hữu, không quản đường dài, từ phương trời xa đến đây mong được hội kiến với gia gia. Họ có lòng thành con không nỡ từ chối, mạn phép gia gia đưa họ đến gặp gia gia! Lão nhân không ngẩng đầu lên.
Aùnh mắt cũng không rời thanh kiếm.
Lý Ngọc Hàm tiếp:
-Hai vị bằng hữu của con, ngày thường gia gia hằng đề cập đến. Một vị là lhds, còn vị kia là Hoa Hồ Điệp.
Bây giờ, lão nhân mới ngẩng đầu lên, nhưng ánh mắt của lão mơ hồ, xa xôi, chẳng rõ lão có nghe có hiểu Lý Ngọc Hàm nói gì chăng?
Tiểu Phi và Hồ Thiết Hoa ngỡ ngàng quá, chẳng biết có nên nói tiếng gì chăng?
Lý Ngọc Hàm day lại, điểm một nụ cười vuốt, thốt:
-Mấy năm sau nầy, gia phụ mất cả nhãn quan, thính giác, thành ra thất lễ với hai vị, mong hai vị vì tại hạ, bỏ qua đi cho gia phụ! Tiểu Phi điềm nhiên:
-Bọn tại hạ nào dám lấy đó làm điều?
Hồ Thiết Hoa tiếp nối:
-Bọnvãn bối không thể quấy nhiễu tiền bối lâu được, vậy xin cáo từ.
Bọnhọ nóng nảy về các nàng, song cũng muốn hỏi Lý Ngọc Hàm mấy câu. Họ định kéo Lý Ngọc Hàm đến một góc nhà nào đó, không thích ở bên cạnh một lão nhân chờ chết.
Nhất là họ giữ lễ độ, bởi dù họ muốn nói gì, làm gì cũng khong thể nói không thể làm trước một người cao tuổi.
Họ kính lão, trọng hiền, dù người kia hiện tại chỉ còn là cái bóng của thời xưa.
Bỗng, đôi môi lão nhân mấp máy, như nói gì, song âm thinh không thoát ra.
Chỉ có đôi môi mấp máy nhẹ thôi, toàn gương mặt, toàn thân hình bất động.
Lão nhân đã biến thành tượng gỗ những thớ thịt đã chai cứng.
Lý Ngọc Hàm giải thích:
-Gia phụ quá tịch mịch trong nhiều năm rồi, từng tha thiết được hội kiến với các bậc hào kiệt anh hùng, các vị đến đây là một vinh hạnh cho người, các vị lại gấp đi, điều đó làm cho người thất vọng phần nào! Tiểu Phi và Hồ Thiết Hoa cùng nhìn nhau, đoạn cả hai ngồi xuống.
Họ có oai lực xoay chuyển càn khôn, nhưng họ không thể thất lễ với một lão nhân sắp về lòng đất lạnh.
Lý Ngọc Hàm tỏ vẻ cảm kích:
-Hai vị nhân hậu như vậy, gia phụ phải xúc động phi thường! Lão nhân lạo mấp máy đôi môi. Trông qua thần tình của lão, Tiểu Phi thấy lão phảng phất có niềm bi ai, mà cũng có vẻ khẩn trương.
Bi ailà phải, chứ sao lại khẩn trương.
Lý Ngọc Hàm cau mày:
-Có lẽ gia phụ có điều muốn nói với hai vị đây.
Hắn bước đến gần lão nhân, ép tai kề miệng lão. Trong tư thế đó hắn che khuất trọn phần mặt của lão.
Đương nhiên, Tiểu Phi không thể nghe lão nhân nói gì mà chàng cũng chẳng thấy được miệng mồm của lão nhóp nhép làm sao.
Chỉ thấy Lý Ngọc Hàm luôn luôn gật đầu, sau cùng thì hắn cung kính thốt:
-Phải! … Phải! … Con minh bạch rồi! Hắn quay đầu lại, đối diện với bọn Tiểu Phi, mặt hắn lộ vẻ thống khổ vô cùng.
Song hắn gượng mỉm cười, hỏi:
-Trong mấy năm qua, gia phụ còn thắc mắc một điều, có thể bảo đó là tâm nguyện của người. Giờ đây hai vị huệ cố đến tệ trang đúng là dịp may cho người thực hiện tâm nguyện đó. Chẳng hay hai vị có sẵn sàng giúp đỡ chăng?
Tiểu Phi trầm trụ khí, giữ bình tịnh, điểm nụ cười nhẹ:
-Chẳng hay tiền bối còn điều tâm nguyện gì chưa thỏa mãn? Nếu vãn bối có thể giúp được, thì khi nào lại dám từ khước?
Lý Ngọc Hàm lộ vẻ mừng rỡ:
-Nếu vậy, tại hạ trước tiên xin thay mặt gia phụ, cảm tạ hảo ý của hai vị! Hồ Thiết Hoa không dằn được tánh nóng nảy lâu hơn, hỏi liền:
-Tuy nhiên, cũng phải có biết tâm nguyện của lão tiền bối như thế nào mới được chứ? Bọn tại hạ có đủ sức làm cái việc đó cho tiền bối chăng?
Lý Ngọc Hàm mỉm cười:
-Tại hạ sẽ cho hai vị biết. Tại hạ minh bạch điều đó rồi! Hồ Thiết Hoa cười lớn:
- Dù sao, tại hạ cũng thừa hiểu là tiền bốikhông cưỡng bức bọnth phải làm một việc không thể làm! Lý Ngọc Hàm mường tượng không nghe Hồ Thiết Hoa nói gì, từ từ tiếp:
-Gia phụ thành danh là nhờ kiếm pháp. Cho nên, người xem thanh kiếm như mạng sống của người. Suốt đời chỉ khi nào đề cập đến kiếm pháp là người mới có hứng thú, ngoài ra chẳng có một việc gì khác làm cho người chú ý cả. Do đó người sưu tập tất cả những kiếm phổ đã có từ cổ chí kim, gia công nghiên cứu. Chẳng những thế, người còn nghiên cứu đến lai lịch của những kiếm khách thành danh. Dĩ nhiên, người không bỏ sót một cuộc chiến nào của những vị kiếm khách đó. Nói một cách khác, là người chú ý đến từng thành tích một của mỗi kiếm khách, kể cả những lần thất bại của vị kiếm khách đó.
Tiểu Phi nhìn lên lão một thoáng, thầm nghĩ:
-Văn nhân bất quá hao phí mười năm đèn sách, một phút tên ghi bảng vàng.
Kiếm sĩ thành danh để làm gì, trong khi chuyên tâm nghiên cứu, bỏ hết phú quý vinh hoa, nhẫn chịu những điều mà người đời không thể nhẫn chịu nổi. Mục đích đạt được rồi, họ thủ đắc được gì? Hay chỉ rước lấy một ủ rủ để chờ ngày về trong quên lãng của thời gian. Hừ! Hơn mấy mươi năm thành danh, trên giang hồ, giờ đây còn lại những gì? Một thân hình tiều tụy, chờ vòng tay tử thần mở rộng, hốt đi quăng vào địa ngục! Lý Ngọc Hàm tiếp nối:
-Nghiên cứu trong mấy mươi năm, gia phụ cũng có phát hiện ra nhiều cái hay, cái lạ … Hồ Thiết Hoa thực sự không thích kéo dài một câu chuyện với một đối tượng mà y đã chán chường.
Song dần dần, câu chuện có hấp dẫn y phần nào, y chống đối giảm dần đi, y hỏi:
-Giả như? … Lý Ngọc Hàm mỉm cười tiếp:
-Giả như gia phụ phát hiện ra rằng, những kiếm pháp có oai danh cực thịnh nhất trên đời thường là không phải những kiếm pháp tối ảo diệu trong võ học. Chính gia phụ lấy làm lạ vể sự phát hiện đó.
Hồ Thiết Hoa cau mày:
-Tại hạ chưa được hiểu rõ! Lý Ngọc Hàm tiếp:
-Như Ma Giáo, giáo phái có kiếm pháp tuyệt vời, tên là Vạn Diệu Vô Phương Nhiếp Hồn Đại Cửu Thức, trong mỗi chiêu có mươi thức, trăm thức, biến hóa vô cùng. Nếu muốn biễu diễn trọn vẹn kiếm pháp đó, phải thi triển đúng bảy trăm hai mươi chín thức. Kiếm pháp đó, về lợi hại, về kín đáo, hơn hẳn Lưỡng Nghi kiếm pháp phái Võ Đương.
Hồ Thiết Hoa gật đầu:
đúng vậy! Tại hạ nghe nói từ nghìn nămqua, chưa một tay nào có thể nghinh tiếp đủ bảy trăm hai mươi chín chiêu thức của kiếm pháp Ma Giáo.
Lý Ngọc Hàm tiếp:
đừng nói là nghinh tiếp đủ bảy trăm hai mươi chín chiêu, chỉ chịu đựng nổi bảy chiêu đầu cũng là tay khá lắm rồi. Vậy mà người đời lại ca tụng kiếm pháp Lưỡng Nghi của phái Võ Đương, chứ chẳng ai tán thưởng Vạn Diệu Vô Phương Nhiếp Hồn Đại Cửu Thức! Hồ Thiết Hoa trầm ngâm một lúc:
-Có thể là do người đời ít ai mục kích kiếm pháp kỳ diệu đó! Lý Ngọc Hàm lại tiếp:
đành rằng rất ít người trông thấy kiếm pháp đó! Nhưng thử hỏi có được bao nhiêu người trông thấy Lưỡng Nghi kiếm pháp. Kỷ luật của phái Võ Đương rất sum nghiêm, việc chọn lựa mônđồ rất kỹ lưỡng. Lúc môn phái thịnh vượng nhất, số môn đồ không hơn tám mươi mốt người. Mà không phải tám mươi mốt người đó đều am tường Lưỡng Nghi kiếm pháp.
Hồ Thiết Hoa gật đầu:
điều đó cũng đúng luôn! Bởi chỉ có chưởng giáo chân nhân mới được toàn quyền tuyển chọn người, truyền thụ kiếm pháp Lưỡng Nghi. Và chính chưởng giáo đích thân chỉ dạy. Cho nên dù là đệ tử phái Võ Đương, cũng chẳng phải tất cả tinh thông đường kiếm vô thượng đó! Lý Ngọc Hàm tiếp:
-Nhưng ngược lại Ma giáo không cần nghiêm khắc trong việc tuyển chọn, phàm ai nhập môn rồi, cũng truyền dạy kiếm pháp ngay, nếu muốn học. Do đó, môn đò hai phái, lúc hạ sơn có chỗ sai biệt là bất cứ đệ tử Ma Giáo nào cũng xử dụng được kiếm, và chẳng phải bất cứ đệ tử nào của phái Võ Đương cũng múa kiếm được.
Người giang hồ tất thấy kiếm pháp Ma Giáo thường hơn kiếm pháp Võ Đương chứ? Thế tại sao Lưỡng Nghi kiếm pháp được nhắc nhở nhiều hơn?
Hồ Thiết Hoa đưa tay sờ chót mũi, lẩm nhẩm:
-Kỳ quái thật! Lý Ngọc Hàm mỉm cười:
-Nhưng, gia phụ lại suy nghiệm ra cái lẽ kỳ quái đó! Hồ Thiết Hoa chợt kêu lên:
-Tại hạ minh bạch rồi! Lý Ngọc Hàm điềm nhiên:
-Xin thỉnh giáo! Hồ Thiết Hoa đáp:
-Kiếm pháp của Ma Giáo kỳ bí, ảo diệu quá người học kiếm đó, khó tập luyện tinh tường đúng mức. Họ học chưa thành tài, lại gấp hạ sơn tung hoanh ngang dọc, thành ra phải bại, họ bại thì kiếm pháp cũng mất thinh danh luôn. Do đó, người giang hồ đánh giá kiếm pháp đó rất thấp! Lý Ngọc Hàm mỉm cười:
-Cũng đúng đạo lý, song chỉ đúng một phần nhỏ! Nguyên nhân chủ yếu không phải đúng như vậy! Hồ Thiết Hoa trố mắt:
-Thế nguyên nhân chủ yếu đó như thế nào?
Lý Ngọc Hàm đáp:
-Kiếm là chết, người là sống! Người cầm kiếm, biến cái chết thành cái sống, mới biểu hiện được chỗ tinh diệu của kiếm pháp.
Hồ Thiết Hoa cau mày:
-Thì tại hạ cũng vừa nêu lên cái ý đó?
Tiểu Phi bây giờ mới chen vào:
-Không phải đệ tử Ma Giáo không tinh thông kiếm thuật. Chỉ vì tâmthuật của họ bất chánh, họ hành sự lại quá thiên về tà, cho nên mỗi lần có tranh chấp, danh không chánh, danh không chánh thì cái khí không hùng tráng. Cho nên, kiếm thuật có cáo họ vẫn bại như thường. Xua nay, có khi nào tà thắng chánh?
Chàng nhìn sang Liễu Vô My điểm một nụ cười, hỏi:
-Tẩu phu nhân nghĩ tại hạ nói đúng đạo lý chăng?
Liễu Vô My dặng hắng mấy tiếng, cười nhẹ đáp:
đúng! Hai đấu thủ so tài, chẳng phải người có võ công cao là thắng. Muốn thắng, người phải có tự tin, và cái lý chánh mới tạo tự tin được! Nếu cái lý tà, thì khó mà nắm cái cớ tất thắng! Tiểu Phi chớp mắt gật đầu:
-Còn một điều này nữa. Một người làm việc gì đúng cái lúc của việc đó, mới mong thành công được, phải chăng? Bởi làm việc đúng, mới có tự tin, làm sai lúc, là làm cầu may, mơ hồ! Có phải vậy không?
Liễu Vô My trầm ngâm lâu lắm, đoạn mỉm cười:
-Tôi thường nghe, khách giang hồ truyền thuyết Lưu Hương đánh bại cả những tay cao cường hơn mình! Chẳng qua Lưu Hương Soái biết làm đúng lúc, và luôn luôn tự tin cho là mình không bại.
Tiểu Phi trầm giọng:
-Tự tin, không phải bằng vào cơ tất thắng, mà chỉ vì tại hạ nghĩ điều mình làm, quang minh chánh đại, hợp đạo nghĩa, không sợ người đời chỉ trích chê bai. Nếu chẳng có niềm tin mãnh liệt, nơi chủ trương minh chánh, dù tại hạ có võ công cao tuyệt đến đâu cũng vẫn bại như thường và nhờ cái chủ trương minh chánh đó, tại hạ thoát chết qua nhiều trường hợp! Liễu Vô My không nói gì nữa.
Lý Ngọc Hàm cất tiếng:
-Trong mấy trăm năm, trên giang hồ có biết bao chiến dịch hãi hùng có nhiều chiến dịch kết thúc nghịch chiều với sở liệu của võ lâm, là yếu thắng mạnh! Gia phụ cho là kỳ quái. Giả như, trong trận chiến giữa Ma Giáo Giáo Chủ Độc Cô Tàn và Trung Nguyên đại hiệp Thiết Trung Đường, khai diễn trên Nhạn Đăng Sơn, lúc đó, Thiết Trung Đường chưa tròn ba mươi tuổi, Độc Cô Tàn lại là tay lão luyện giang hồ. Ai ai chẳng cho là Thiết Trung Đường phải bại trước Độc Cô Tàn?
Người ta còn đánh cá với nhau một ăn mười, hạn định trong vòng tám mươi chiêu, Thiết Trung Đường phải bại.
Hồ Thiết Hoa gật đầu:
-Tại hạ có nghe nói đến giai thoại đó! Lý Ngọc Hàm tiếp:
-Ngờ đâu, họ đánh nhau suốt ba ngày ba đêm, sau cùng Thiết đại hiệp bị thương mười ba chỗ, y phục đẫm máu như nhúng vào nước. Bị thương nặng như vậy, Thiết đại hiệp vẫn dùng chưởng lực đánh đứt tâm mạch Giáo chủ Độc Cô Tàn. Trước khi chết Độc Cô Tàn vẫn không tin là mình có thể bại! Hồ Thiết Hoa nhướng cao đôi mày, vỗ tay reo:
-Thiết Trung Đường đại hiệp quả là một hảo hán! Nếu ngày nào đó, tại hạ may mắn được hội diện, chắc chắn là phải uống với người đúng ba ngày ba đêm rượu! Có như vậy mới không uổng kiếp sống! Lý Ngọc Hàm mỉm cười:
-Nhưng cái điều làm cho gia phụ kỳ quái hơn hết là từ ngàn xưa đến nay không có một kiếm trận nào đáng gọi là vô thượng chiến vô bất thắng cả! Hồ Thiết Hoa trố mắt:
-Kiếm trận?
Lý Ngọc Hàm gật đầu:
-Phải! Về kiếm trận Toàn Chân giáo có Bắc Đẩu Thất Chân trận, Võ Đương phái có Bát Quái kiếm trận. Tuy trận đồ vang danh trong thiên hạ, song gặp cao thủ chân chánh trong võ lâm, những trận đó cầm như vô dụng! Hồ Thiết Hoa tán đồng:
-Lý huynh nói đúng! Tại hạ chưa từng nghe nói một ao thủ chân chánh nào bị khôn trong kiếm trận đến đổi phải mất mạng! Lý Ngọc Hàm tiếp:
-Cao thủ trên giang hồ, mất mạng nơi tay kiếm khách phái Võ Đương thì nhiều, song chưa có một ai chết trong Bát Quái kiếm trận. Hồ huynh không thấy cái điểm kỳ quái đó à?
Hồ Thiết Hoa đáp:
-Nghe Lý huynh nói, tại hạ càng kỳ quái hơn! Muốn lập thành kiếm trận Bát Quái, ít nhất cũng phải có tám tay kiếm, cùng liên thủ với nhau. Hơn nữa, họ lại được huấn luyện thuần thục về đấu pháp đồng đội, họ phối hợp tất cả những ảo diệu, tạo thành một thế trận kín đáo vô cùng! Thiết tưởng công hiệu một kiếm trận phải hơn một người riêng rẽ chứ?
Lý Ngọc Hàm mỉm cười:
-Chẳng những riêng một trận Bát Quái của phái Võ Đương trở thành vô hiệu đối với một cao thủ chân chánh mà hầu hết những kiếm trận của các môn phái khác, cũng không tuyệt đối hữu hiệu. Tại sao thế?
Hồ Thiết Hoa trầm ngâm một lúc:
-Có thể vì bất cứ kiếm trận lợi hại nào, cũng có chỗ sơ hở! Lý Ngọc Hàm hỏi:
đành rằng kiếm trận có sơ hở, nhưng kiếm pháp nào cũng thế dù lợihại đến đâu cũng có sơ hở như thường. Nhưng tại sao kiếm trận gồm nhiều người, lại kém kiếm pháp của một người?
Hồ Thiết Hoa đưa tay sờ chót mũi:
điều đó, lịnh tôn có nghiên cứu đến chứ?
Lý Ngọc Hàm cười nhẹ:
-Nguyên nhân như thế này. Bát Quái kiếm trận tuy tuyệt diệu song tìm cho đủ tám tay kiếmđồng đều để thủ trận, không phải là việc dễ. Trong tám người thủ trận, nếu có một người, công lực không đầy đủ, gặp cao thủ chân chánh tất dễ bị phát hiện chỗ kém, do chỗ kém đó của đối phương, cao thủ công vào. Người kém phải bại, thế trận phải vỡ ngay.
Hắn dừng lại một chút, đoạn tiếp:
-Chẳng hạn như tại hạ, luyện được kiếm pháp vô song, gặp Lưu Hương huynh là cao thủ chân chánh,có nội gia chân lực thâm hậu, tại hạ phải bại là cái chắc!