Hồi ký Nguyễn Hiến Lê

Chương XV

ĐỨC MẠNH LÊN – PHÁP THUA

 

Đầu năm 1938, khi nhà tôi có mang được bảy tám tháng, vợ chồng tôi không hiểu sao tin chắc sẽ sinh con trai và bàn tính với nhau đặt tên cho nó là Nhật Đức. Nhật Đức có nghĩa là đức của mặt trời và còn một nghĩa nữa là Nhật và Đức, hai dân tộc có tinh thần quật cường mạnh nhất thời đó.

 

Nhật chỉ sau 35 năm duy tân đã theo kịp Âu, Mĩ và năm 1905 đã thắng Nga, một nước lớn ở Âu châu, rửa nhục cho các giống da vàng bị giống da trắng ức hiếp, xâm chiếm đất đai, bóc lột; và các quốc gia lớn nhỏ từ Ấn Độ đến Phi Luật Tân có cảm tình ngay với Nhật, hăng hái muốn noi gương Nhật.

 

Còn Đức thì sau thế chiến thứ nhất, phải ký hiệp ước Versailles rất khắt khe: mất một phần thổ địa, mất hết các thuộc địa; không được phép có không quân; lục quân và hải quân bị rút xuống chỉ còn là lực lượng cảnh bị trong nước; lại phải bồi thường chiến phí rất nặng, tưởng không sao ngóc đầu lên nổi. Vậy mà từ năm 1925, Hitler khéo lợi dụng lòng phẫn uất của dân chúng, táo bạo đưa ra một đường lối cứu quốc để phục hồi địa vị đại cường của Đức ở châu Âu và trên thế giới (trong cuốn Mein Kampf: cuộc chiến đấu của tôi), được dân chúng hoan nghênh nhiệt liệt, do đó nắm được chính quyền, xé bỏ hiệp ước Versailles, tổ chức lại quân đội, vừa tuyên truyền, dọa dẫm, vừa dùng ngoại giao, khiến Đức tới năm 1938, lại có cái khí thế lấn át các nước Trung Âu và cả Pháp ở Tây Âu nữa.

 

Lỗi ở các nước đồng minh ức hiếp dân tộc Đức quá trong hiệp ước Versailles; ở các nhà cầm quyền Pháp không đoàn kết, nhu nhược, không biết lo xa; nhưng cũng ở các nhà cầm quyền Anh nữa, làm ngơ cho Đức tổ chức lại quân đội, nhất là hải quân vì truyền thống ngoại giao của họ là giữ sự quân bình lực lượng ở lục địa Tây Âu, không muốn cho Đức yếu quá, sợ Pháp sẽ nuốt Đức mà hóa vô địch châu Âu. Anh cũng không muốn cho Đức mạnh quá, nhưng khi đã lỡ cho Đức lập lại quân đội, thì lực lượng, quân số, võ khí của họ tiến rất mau, ngăn họ lại không kịp.

 

Vậy khi Đức đã chiếm được Áo, muốn nuốt luôn Tiệp Khắc, Anh và Pháp nhượng bộ Đức, bỏ rơi Tiệp, tưởng như vậy Hitler sẽ thỏa mãn mà châu Âu được yên ổn. Không ngờ năm 1939, Đức kí với Nga một hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau; rồi đem quân vô chiếm Ba Lan. Lần này Anh Pháp không nhượng bộ nữa, thế chiến thứ nhì nổ (tháng 9 năm 1939).

 

Hết thảy gia đình bên tôi và bên nhà tôi (mà tôi đoán đa số giới trí thức Việt Nam cũng vậy) thấy Đức mạnh lên thì mừng vì Đức là kẻ thù của Pháp; và khi Anh, Pháp tuyên chiến với Đức thì ai cũng thầm mong cho Đức thắng, nhưng chưa dám chắc vì Đức chỉ có một mình; các cường quốc Nga, Mĩ, Ý, Nhật đều đứng ngoài coi. Chúng tôi còn hơi lo nữa: vật giá đã lần lần tăng lên, đời sống sẽ khó khăn. Tôi còn nhớ, sau khi chiến tranh nổ được độ nửa tháng, một buổi chiều đi lang thang ở chợ cũ, thấy giá các đồ nhập cảng đã tăng lên gấp rưỡi hay gấp hai, tôi mua một con dao nhíp (canif) - trong Nam gọi là con dao con chó – lưỡi thép, vỏ đồng, để gọt bút chì, rọc và xén giấy mà người Huê kiều chủ quán bảo là của Đức. Con dao đó là vật duy nhất tôi còn giữ được, sau bốn chục năm, nay lưỡi đó đã mòn gần hết.

 

Pháp rất tin rằng chiến lũy Maginot ở phía Bắc ngăn được Đức, nên đưa quân lên đó, không ngờ chờ hoài không thấy gì cả; và thình lình tháng 5-1940, Đức không kể gì đến sự trung lập của Hòa Lan, Bỉ, đi vòng chiến lũy, ồ ạt xâm lấn hai nước trên rồi tiến như vũ như bão vào đất Pháp, chọc thủng Sedan, vượt sông Meuse. Liên quân Anh Pháp không cự nổi, rút lui.

 

Lúc này chúng tôi mừng rỡ: Pháp sẽ thua. Một hôm viên kĩ sư sở tôi bảo một họa viên phóng lại một bản đồ phía Bắc nước Pháp tới ngang Reims, tôi bảo ông ta: “Cũng một công, sao ông không bảo phóng thêm xuống khởi Paris đi?” Ông ta ngó tôi, đáp: “Chúng không tới Paris được đâu”. Tôi nghĩ bụng: “Để coi”.

 

Ngày 14 tháng 6 Paris bỏ ngỏ cho Đức vô. Dân Paris tản cư trong cảnh hỗn độn không thể tả. Chưa bao giờ Pháp thua một cách mau chóng, nhục nhã như vậy. Paul Reynaud từ chức, thống chế Pétain năm đó đã 84 tuổi, đứng ra lập nội các mới, ngày 17-6 xin đình chiến. Nước Pháp bị chia đôi, miền Bắc bị Đức chiếm, miền Nam gọi là “miền tự do” do Pétain làm quốc trưởng, thành lập chính phủ Vichy.

 

Ngay ngày hôm sau 18 tháng 6, tướng De Gaulle ở Londres hô hào dân Pháp tiếp tục cuộc kháng chiến; và lần lần thành lập được “nước Pháp tự do”.

 

ĐÔNG DƯƠNG TRONG ĐẦU CHIẾN TRANH

 

Pháp thua, những người Việt yêu nước mừng lắm và hi vọng lần này có thể gỡ ách của Pháp được. Một nhật báo ở Sài Gòn đăng tin không biết có phải là trào phúng không: ở một tỉnh nọ miền Hậu Giang, một buổi tối, vài ba thanh niên lái xe đạp đi chơi, khi xuống một dốc cầu, một thanh niên bỗng la lớn: “Đức thắng rồi, tụi bay ơi!”' Một tên lính gác cầu bắt lại; thanh niên đó ngạc nhiên hỏi: “Tôi làm gì mà bắt tôi?”

 

- “Tại anh la Đức thắng”

 

- “Thì thắng của tôi đức đây nè.”

 

Tên lính cúi xuống coi cái thắng (cái “phanh” để hãm xe), thấy nó đứt thật, tẽn (mắc cỡ) lính gác cho thanh niên đó đi. Một ít tay sai của Pháp còn quyến luyến với chủ như chú lính đó.

 

Ảnh hướng thứ nhất tới Việt Nam là Nhật, ngay từ ngày 19 tháng 6 đã đưa tối hậu thư cho chính quyền Pháp ở Đông Dương buộc phải đóng cửa biên giới Việt Nam-Trung Hoa, không cho chở xăng và một số dụng cụ bằng đường xe lửa qua Trung Hoa nữa. Lúc đó Nhật đương đánh nhau với Trung Hoa và đã chiếm được gần hết các thành phố lớn ở duyên hải từ Bắc tới Nam Trung Hoa. Tướng Catroux, toàn quyền Đông Dương chịu đóng biên giới nhưng đòi phải có một thỏa hiệp rõ ràng giữa Pháp và Nhật; và trong khi chờ đợi, ông ta vẫn liên lạc với Anh ở Singapour, hi vọng nhận được khí giới của Anh, Mĩ. Chính phủ Vichy cách chức ông, đưa Hải quân Đề đốc Decoux lên thay, và ít bữa sau Pháp kí hoà ước với Nhật.

 

Hai bên thương thuyết với nhau: Nhật chịu nhận chủ quyền của Pháp ở Đông Dương, mà Pháp chịu cho Nhật được nhiều dễ dàng về quân sự ở Bắc Việt để Nhật giải quyết cho xong chiến tranh với Trung Hoa. Không đợi kết quả cuộc thương thuyết, quân đội Nhật trong đó có một số nhà yêu nước Việt Nam, đánh phá Lạng sơn và một số đồn ở biên giới. Cả hai bên tổn thất nặng (tháng 9-1940). Hiệp ước Pháp Nhật kí rồi, việc đó êm.

Cũng vào khoảng đó, Thái Lan tấn công để đòi lại vài tỉnh: Battambang, Siemreap... Pháp đưa quân lên chống cự. Thái được Nhật ủng hộ, Pháp phải nhượng cho Thái ba tỉnh ở Miên và hai tỉnh ở Lào[1]. Ở Nam Việt đảng Cộng sản nổi lên nhiều nơi như Tam Bình, Vũng Liêm, Xoài Hột... bị Pháp đàn áp tàn nhẫn.

Tháng 7 năm sau (1941) Nhật lại buộc Pháp phải để cho họ dùng một số sân bay, đổ bộ ở Sài Gòn, Cam Ranh. Pháp phải nhượng bộ nữa. Lúc đó tôi nghỉ phép, đi thăm cảnh Nha Trang - Tuy Hòa - Qui Nhơn, vừa về tới nhà ở Khánh Hội thì được lệnh phải dọn đi ở chỗ khác nội trong 48 giờ, vì gần trọn khu bến tàu ở Khánh Hội để cho quân Nhật đóng. Gia đình tôi phải đi ở nhờ một người bà con một hai ngày mới kiếm được một căn phố chật hẹp ở đường Monceau (sau đổi là Huỳnh Tịnh Của)

Ngày 7-12-1941, Nhật thình lình tấn công Pearl Harbour (Trân Châu cảng), ở quần đảo Hawai; Mĩ bị thiệt hại nặng[2]. Ba ngày sau, Nhật lại đánh đắm hai hàng không mẫu hạm lớn nhất của Anh ở ngoài khơi Mã Lai. Tin đó làm cho người Việt nào cũng phấn khởi, ảnh hưởng lớn hơn vụ Nhật thắng hải quân Nga năm 1905 nhiều. Lần này Nhật thắng được hai cường quốc bực nhất Mĩ, Anh; chỉ trong một tháng lần lần chiếm hết các quần đảo lớn nhỏ ở Thái Bình Dương (trừ Úc), Thái Lan, Miến Điện, ngấp nghé cả Ấn Độ nữa. Đông Dương tuy còn thuộc Pháp nhưng đã ở trong tay họ rồi. Chương trình Đại Đông Á của họ đã gần thực hiện được.

Họ đặt nhiều cơ sở ở Việt Nam, nhiều người Việt học tiếng Nhật, làm việc cho họ - hai người anh con bác Ba tôi, Tân Phương và Việt Châu, làm sở Thông tin Domei của họ. Lính họ đi nghênh ngang ngoài đường, lùn tịt mà gươm dài sát đất. Pháp phải cung cấp cho họ đủ thứ: thực phẩm, than đá, xi măng... Và nhân dân thì chịu thiếu đủ thứ, nhất là vải và thuốc men. Năm 1944, một số nông dân ở Rạch Giá phải ở trần, chỉ có mỗi chiếc quần cụt bằng bố tời. Thuốc Tây thì kí ninh cũng thiếu, mà thuốc Bắc thì những vị hoàng cầm, hoàng bá đều là thuốc giả. Giấy báo và giấy viết như tôi đã nói, vừa đen vừa xấu, in sách phải dùng giấy bản làng Bưởi. Miền Nam may mắn có đủ gạo ăn, miền Bắc đầu năm 1945 có hàng triệu người chết đói vì chính sách thu lúa tàn nhẫn của Pháp và Nhật, và vì đường giao thông nghẽn, không chở gạo trong Nam ra cứu đồng bào ngoài đó được.

Năm 1939, một lượng vàng giá khoảng 160 đồng, đầu năm 1945 giá trên 1.000 đồng; đồng bạc bị phá giá gấp 6 lần; đời sống rất khó khăn. Vậy là từ năm 1930 tới năm 1945, trong 15, 16 năm, hết nạn kinh tế khủng hoảng, dân mới dễ thở được độ 5 năm (1935-1939) thì lại bị nạn chiến tranh. Công việc kiến thiết, khai hoang, phát triển công nghiệp, từ 1920 đến 1945 mới bắt đầu thực hiện được trong khoảng 15 năm (từ 1920 đến 1930, từ 1935 đến 1939) đã hai lần bị ngưng trệ, mỗi lần khoảng 5 năm.

NGƯỜI VIỆT YÊU NƯỚC – CÁC GIÁO PHÁI Ở NAM

 

Phải thú thực rằng thời đó chúng tôi cũng như hầu hết mọi người, không biết gì về tình hình thế giới cả. Trong nước có lẽ chỉ các tổ chức cách mạng là có máy thâu thanh, còn thường dân nếu có - số này hiếm lắm, cả sở tôi không người nào có - thì cũng phải nộp cho chính quyền Pháp, hoặc cất giấu đi, không dám dùng, thành thử ai cũng chỉ biết những tin tức mà Nhật và Pháp muốn cho biết thôi. Tất nhiên Nhật chỉ loan những tin lợi cho Nhật, Pháp cũng chỉ thông báo những tin của chính phủ Vichy; tất cả những tin đó đều một chiều, thiếu thốn, nếu không sai.

 

Vì vậy chúng tôi không biết Hitler tàn sát hằng triệu dân Do Thái ra sao, Mĩ mạnh ra sao và từ cuối 1942, Đức yếu ra sao.

 

Chúng tôi được nghe nói Nhật rất tàn nhẫn với thuộc địa của họ (Triều Tiên, Mông Cổ, Mãn Châu), chẳng hạn biết ba nhà phải dùng chung một con dao phay (sợ dân thuộc địa dùng dao mà nổi loạn chăng?). Một nhà văn Việt Nam – Nguyễn Vĩ - viết cuốn Kẻ thù là Nhật Bản, nhưng cuốn đó không được phổ biến trong thời chiến tranh, nên nhiều người không được đọc.

 

Mà chúng tôi cũng không hề tính xa: hết chiến tranh, nếu Nhật Bản, Đức mà thắng thì họ có cho dân tộc mình được chút nào hay không, hay chính sách thực dân của họ còn tàn khốc hơn của Anh, Pháp nữa?

 

Chúng tôi chỉ biết mỗi một điều là họ thù địch với Pháp nên mong nhờ họ gỡ cho cái ách của Pháp đã, rồi ra sao thì sau sẽ hay. Tôi không làm chính trị, chỉ có lòng yêu nước, không muốn một nước nào chiếm giang sơn của mình, tước hết chủ quyền của mình, bắt mình làm nô lệ:

 

Nam quốc sơn hà” thì phải Nam tộc cư”.

 

Đó là tâm lí của mọi người Việt Nam, trừ một số Việt gian, bất kì trong giới nào. “Dù bị đô hộ một trăm năm, một ngàn năm, dân Việt Nam vẫn còn tinh thần Việt Nam, vẫn không chịu thừa nhận chính quyền ngoại nhân. Chính quyền ngoại nhân bao giờ cũng chỉ như một miếng da “cấy” vào một cơ thế khác, thế nào rồi cũng bị đẩy ra (...). Cứ xét các ông vua triều Nguyễn được Pháp đưa lên thì biết: ông nào có tư cách cũng chỉ ít thăng là chống lại họ, còn ông nào ngồi lâu được thì dân không thèm biết tới”. (Cụ Phan và lòng dân – Bài đã dẫn).

 

Nước nước nào giúp chúng tôi lật đổ Pháp, đuổi Pháp đi là chúng tôi mang ơn, mặc dầu chúng tôi biết rằng nhờ một thực dân đuổi một thực dân thì không khác gì “tiền môn cự hổ, hậu môn tiến lang”[3] (của trước đuổi con cọp mà cửa sau rước con chó sói vào) như cụ Phan Chu Trinh và các cụ trong Đông Kinh nghĩa thục nói; biết rằng trên thế giới không có một chính phủ nào nhân từ cả, chỉ có cá nhân tốt thôi, mà người nào dù tốt mà làm chính trị thì cũng phải bỏ lòng công bằng, nhân ái đi mà chỉ nghĩ cái lợi cho quốc gia. Khi cái lợi của quốc gia bắt buộc thì họ cũng phải nuốt ngay lời hứa mà phản bạn như Nhật tháng 9 năm 1940 sau khi kí hiệp ước với Pháp, được Pháp nhường cho một chút quyền lợi ở Đông Dương rồi, liền để cho Pháp tàn sát các nhà cách mạng Việt Nam đã nghe lời họ, theo họ đánh phá các đồn ở Lạng Sơn.

 

Chính sách của Nhật lúc đó là cho Pháp tạm nắm chủ quyền ở Đông Dương, miễn Decoux ngoan ngoãn nghe lời, Nhật đòi gì cũng sẵn sàng cung cấp; như vậy Nhật được rảnh tay đối phó với Mĩ, Anh ở Thái Bình Dương. Cho nên khi Pháp thẳng tay đàn áp đảng Cộng sản Đông Dương, họ làm thinh, còn thích là khác nữa.

 

Đối với Việt Nam Quốc dân đảng, Việt Nam Phục quốc hội của Cường Để, họ cũng không giúp đỡ gì, và cứ hẹn lần, bắt phải chờ thời. Khi thế chiến phát, ở Nam, hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo cũng nổi lên làm chính trị.

 

Mới đầu Cao Đài do Lê Văn Trung, một viên Hội đồng quản hạt thành lập, chỉ hoạt động về tôn giáo, thờ chung Phật, Lão, Khổng, Ki tô, thêm cả Lí Bạch, Victor Hugo nữa, chỉ thiếu Mohamad. Họ dùng cách cầu cơ để truyền bá tín ngưỡng, khéo tổ chức, đặt ra các chức sắc, có lễ phục riêng, xây cất được nhiều thánh thất cùng một kiểu kiến trúc. Thánh thất chính ở Tây Ninh. Sau một viên đốc phủ sứ ở Bến Tre lập một giáo phái riêng, gọi là Cao Đài Bến Tre, nhưng không phát triển bằng Cao Đài Tây Ninh.

 

Năm 1934, Phạm Công Tắc lên thay Lê Văn Trung lúc đó đã chết và hướng về chính trị; tới năm 1939, Cao Đài thành một đảng chính trị mạnh có khoảng nửa triệu tín đồ và mỗi ngày mỗi thân Nhật hơn, ủng hộ Cường Để.

 

Hòa Hảo xuất hiện sau Cao Đài. Mới đầu Huỳnh Phú Sổ cũng chỉ là một ông “đạo” như người ta thường thấy ở miền Tây, nhưng thông minh hơn, có tư cách hơn. Chỉ là một nông dân học hết lớp ba ở trường làng Hòa Hảo (quận Tân Châu - Châu Đốc) mà năm 1939 (21 tuổi ta) bỗng trị bệnh bằng nước lã, lá cây, được nhiều người tin, lại thêm có tài làm thơ lục bát, giọng rất mộc mạc, ý nghĩa không sâu sắc, nhưng làm rất mau. Bài thơ nào cũng có ý răn dời, khuyên hiếu nghĩa, kính Phật; nhiều người xa lại xem, rất phục. Rồi lại làm những bài “Sấm giảng” có giọng chính trị, tiên tri, báo trước rằng sắp “đổi đời” và sẽ có một vị “vương” toàn đức toàn trí ra đời ở miền Thất Sơn làm vua ở Việt Nam, và đưa dân tộc tới vinh quang. Việt Nam sẽ thành một nước văn minh nhất thế giới. Tiếng tăm của ông lần lần lan khắp các tỉnh miền Tây, nơi mà tín đồ nhiều nhất, rồi tới những tỉnh khác ở Nam, có lẽ cũng đông gần bằng tín đồ Cao Đài. Người ta đoán phỏng được 500.000 người theo hẳn, còn số có cảm tình thì tới cả triệu.

 

Giáo phái đó trước 1950 không có tổ chức gì cả (sau năm 1964 mới tổ chức mạnh), không có một “thánh thất” như Cao Đài, ai theo thì cứ tu tại nhà, tụng “giảng” của “Thầy” tức những bài thơ lục bát của Huỳnh Phú Sổ, và có thể căng một tấm vải rộng màu nâu, gọi là “trần điều” gần nóc nhà, trên bàn thờ Phật. Họ theo đạo Phật mà giản dị hóa cách tu, tụng niệm, ăn chay, chú trọng đến đạo làm người, nhất là đạo Hiếu, Nghĩa.

 

Không có chức sắc, chung quanh giáo chủ chỉ có một số tín đồ thân tín, mới đầu là nông dân, sau thêm một số người có học: một luật sư, vài kinh lí, kĩ sư, bác sĩ. Những người này rất phục Huỳnh Phú Sổ mà họ gọi là “Thầy” (Thầy Tư) vì họ tin rằng thầy là hậu thân của Phật Thầy Tây An ở Châu Đốc thời xưa (Phật Thầy có tiên là Đoàn Minh Huyên, hiện còn mộ ở Núi Sam), hoặc được một thần linh nào nhập vào nên không học mà xuất khẩu thành thi.

 

Nhà thầy ở làng Hòa Hảo, nhưng từ khi nổi danh, thầy thường đi nơi này nơi khác thuyết giáo và được đệ tử đưa đón long trọng, mời về nhà để hầu hạ.

 

Thầy không có một đường lối, một chương trình chính trị, mà đệ tử cũng không có ai là chính khách, lập nổi một chương trình hoạt động. Không gọi là một tổ chức chính trị được. Nhưng cũng như mọi người có tinh thần quốc gia, thầy muốn đuổi Tây, mà tín đồ của thầy đông, coi thầy như thần thánh, thầy bảo gì cũng nghe, nên người Nhật để ý tới giáo phái Hòa Hảo có phần hơn giáo phái Cao Đài vì giáo phái Hòa Hảo có tính cách nông dân cuồng tín.

 

Dĩ nhiên chính quyền Pháp thấy hai giáo phái đó có thể gây rối, nên năm 1941, bắt Phạm Công Tắc đày đi quần đảo Comores thuộc Madagascar trên Ấn Độ Dương.

 

Còn Huỳnh Phú Sổ thì cũng năm đó, họ cho vào nhà thương điên ở Chợ Quán, gọi thầy là “bonze fou” (nhà sư điên), sau đưa xuống an trí ở Bạc Liêu. Ở đây thầy lại có cơ hội thu hút một số đông tín đồ nữa. Năm 1942, Pháp thấy vậy tính đày thầy qua Lào để thầy hết thuyết giáo được vì khác ngôn ngữ, nhưng chưa kịp thi hành thì hiến binh Nhật bắt cóc thầy đem về Sài Gòn, cho thầy ở một biệt thự gần Sở Hiến binh của họ, Pháp phản kháng nhưng vô hiệu.

Nhật cũng cứu vài người khác có tinh thần quốc gia bị Pháp nghi ngờ như Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc ở Bắc, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân ở Nam đưa qua Singapour mà họ gọi là Chiêu Nam đảo, tính sau này có dịp thì sẽ dùng. Còn các nhà cách mạng trong nhóm Đệ tứ quốc tế như Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm đã bị nhốt ở Côn Đảo từ đầu thế chiến.

 

Qua năm 1944, Đức không ngóc đầu lên được nữa; tháng 6 năm 1944 Đồng minh đổ bộ lên bờ biển Normandie của Pháp, rồi Paris được giải phóng, De Gaulle trở về Pháp.

 

Tháng 5 năm 1945 Hitler tự tử. Chiến tranh kết liễu ở châu Âu.

 

Ở Thái Bình Dương, Nhật rất lúng túng, lo lắng. Chính phủ Vichy đã không còn, Pháp tự do đã đứng về phe thắng, Anh, Mĩ đã tấn công lấy lại các đảo trên Thái Bình Dương, cả Phi Luật Tân nữa, thế nào Đồng minh cũng đổ bộ lên Đông Dương, và người Pháp ở Đông Dương cũng đương tổ chức kháng chiến để tiếp ứng quân Đồng minh. Nhật thấy tình thế nguy kịch rồi, phải lật Decoux, đánh Pháp để nắm hết quyền ở Đông Dương mà chống cự với Đồng Minh, do đó có cuộc đảo chính chớp nhoáng đêm mùng 9 tháng 3 năm 1945.

 

NHẬT LẬT ĐỔ PHÁP ĐÊM 9-3-1945

 

Ở Sài Gòn, biến cố xảy ra thật đột ngột, chính người Pháp cũng không ngờ. Tối hôm đó, đường tôi ở cũng yên tĩnh như mọi ngày; sáng hôm sau dậy, trên đường lại sở, không thấy có gì khác - hoặc giả có mà không quan trọng, lâu quá, tôi quên rồi chăng - tới sở mới biết là Nhật đã đảo chánh. Ai cũng ngạc nhiên, nở nụ cười, nhưng vui tưng bừng thì hình như không. Tại cuộc đảo chánh đó đợi lâu quá rồi, bây giờ đã quá trễ? Tôi đoán được tình hình Nhật đã nguy mà mình sẽ bị họ lôi cuốn vào chiến tranh lúc gần tàn rồi chăng? Ai cũng tự hỏi tương lai sẽ ra sao?

 

Báo chí cho hay 8 giờ tối hôm 9-3, đại sứ Nhật ở Sài Gòn đưa tối hậu thư cho Decoux buộc Pháp phải đặt lực lượng quân sự Pháp ở Đông Dương dưới sự chỉ huy của họ; Decoux trả lời có ý “hoãn binh”, Nhật ra tay liền. Nhờ tổ chức tỉ mỉ từ trước, họ làm chủ tình hình Nam Kì rất mau. Ô Huế, Hà Nội, Pháp chống cự được vài giờ rồi cũng phải đầu hàng. Ở Lạng Sơn, họ chống cự được mấy ngày, sau bị Nhật tàn sát.

 

Tóm lại, chỉ trong không đầy 24 giờ, phần lớn quân đội Pháp bị loại, các tướng bị bắt làm tù binh. Ở Nam và Trung có một ít quân Pháp trốn được qua Lào, ở Bắc vài ngàn quân Pháp rút được qua Trung Hoa. Thường dân Pháp được yên ổn. Nhật muốn gây xáo trộn càng ít càng tốt, vì họ đương gặp nhiều khó khăn ở Thái Bình Dương, nên cho phép các nhà chuyên môn Pháp được tiếp tục làm việc, nhưng công chức Việt không muốn. Cả sở Thủy lợi của chúng tôi không còn người Pháp nào; một viên kĩ sư Nhật tạm nói được tiếng Pháp tới điều khiển sở, nhưng công việc ở trong tay chúng tôi hết, ông ta chỉ biết kí tên. Vả lại công việc cũng chẳng có gì.

 

Một vài kĩ sư Pháp mon men tới sớ, bị đánh. Tôi thấy trong cả khu công chánh gồm nhiều sở ở đường Pellerin[4], nơi tôi làm việc, chỉ có hai trường hợp hành hung công chức Pháp. Một kĩ sư có tiếng là gắt gao bị một nhân viên – hình như theo đạo Cao Đài - quất bằng gân bò, té, gãy xương sườn; và viên kĩ sư coi cả miền Nam từ phòng giấy xuống cầu thang, bị khoảng hai chục nhân viên chặn ở chân cầu thang; vài người nhảy tới thoi vào đầu, vào ngực; hắn can đảm, giữ được bình tĩnh, không chống đỡ, lách ra cửa, và anh em chúng tôi thấy vậy không nỡ đánh nữa. Nếu hắn chống cự lại, chắc bị đòn nặng hơn nhiều.

 

Còn ở ngoài đường thì tôi chỉ thấy mỗi một người Pháp già bị một thanh niên đánh, té nhào xuống đường. Tôi hơi thương hại.

 

Sau tôi nghe nói một số người Pháp ở miền Tây trốn vào bưng, không bị dân chúng đánh đập, giam giữ, tố cáo; có người còn giúp đỡ lương thực cho họ nữa. Ở Nam này như vậy, mà có lẽ ở Bắc và Trung cũng không khác mấy. Người Việt chúng ta chỉ muốn họ cút đi thôi, họ không chịu đi, để cho người Nhật tống cổ họ thì chúng ta lại thương hại họ. Có người bảo người Việt nào cũng có một ông Phật ở trong lòng, câu ấy đúng.

 

NỘI CÁC TRẦN TRỌNG KIM – NHẬT ĐẦU HÀNG – VIỆT MINH ĐẢO CHÍNH - BẢO ĐẠI THOÁI VỊ

 

Thời cuộc biến chuyển rất mau, không ai ngờ nổi.

 

Chiều tối ngày 9-3, Bảo Đại đi săn về, bị Nhật giữ lại vì họ đương tấn công Pháp, và sáng hôm sau mới thả cho về cung và cho biết Việt Nam đã độc lập rồi. Trước kia ai cũng tưởng Nhật sẽ dùng Cường Để, nhưng Nhật có óc thực tế, không muốn gây nhiều xáo trộn lúc đó, nên dùng Bảo Đại.

 

Bảo Đại liền tuyên bố với thế giới và quốc dân rằng kể từ ngày 11-3, hiệp ước bảo hộ kí với Pháp bị hủy bỏ; Việt Nam lấy lại quyền độc lập và hợp tác với Nhật để xây dựng cho Đại Đông Á được thịnh vượng.

 

Cơ mật viện, đứng đầu là Phạm Quỳnh đồng loạt từ chức.

 

Lúc đó Dương Bá Trạc đã chết vì bệnh ở Singapour, xác được hỏa táng; Trần Trọng Kim đã qua Băng Cốc (Vọng Các), Nhật phái người đưa ông về Huế để gặp Bảo Đại.

 

Trong cuốn Một cơn gió bụi (Vĩnh Sơn - 1969), ông viết:

 

“Từ trước tôi không biết vua Bảo Đại là người như thế nào. Vì trong thời bảo hộ của nước Pháp, hình như ngài chán nản không làm gì cả, chỉ săn bắn và tập thể thao. Hôm mùng 7 tháng tư, tôi vào yết kiến thấy có vẻ trang nghiêm và nói những điều rất đứng đắn”.

 

Bảo Đại yêu cầu ông lập chính phủ. Ông chỉ muốn yên thân để dưỡng già, từ chối vì bệnh tật, không có đảng phái và không hoạt động về chính trị, đề nghị nên dùng Ngô Đình Diệm. Nhưng Ngô Đình Diệm từ chối – hay vì do gì không biết - nên Bảo Đại cố nài ông vì nghĩa vụ mà lo việc nước và ngày 17-4 ông đành đứng ra lập nội các gồm toàn các kĩ thuật gia đứng đắn, có tinh thần quốc gia như Trần Đình Nam, Hoàng Xuân Hãn, Phan Anh, Vũ Văn Hiền, Hồ Tá Khanh, Vũ Ngọc Các, Trịnh Đình Thảo (Lưu Văn Lang không nhận). Trần Trọng Kim làm thủ tướng.

 

Nội các bắt tay ngay vào việc, sửa soạn một hiến pháp, thay đổi chính sách thuế khóa, lập các đoàn thanh niên tiền phong, đưa tiếng Pháp xuống hàng ngoại ngữ, ân xá các chính trị phạm không phải cộng sản, và tranh đấu để thống nhất ba kì, đòi quyền nội trị về mình... Nhật có lẽ thấy nguy tới nơi nên không làm khó gì nhiều, lần lần trả lại hết.

 

Khó khăn nhất là nạn đói ở Bắc do Pháp (trước kia) và Nhật thu lúa của nhân dân nhiều quá. Có cả triệu người chết đói, cảnh hỗn loạn lan tràn. Lợi dụng tình thế, đảng Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo, có tổ chức rất chu mật, có tinh thần hi sinh cao, giỏi tuyên truyền, khéo gợi lòng ái quốc của dân và lôi cuốn được nhiều nông dân, nắm được quyền nhiều làng ở Bắc Việt, nhất là miền thượng du. Ở Trung, Nam đảng đó cũng hoạt động kín đáo và mạnh.

 

Ai cũng biết Nhật cứ lùi hoài, mất hết đảo này tới đảo khác thì thế nào cũng thua. Anh, Mĩ lúc đó khí thế rất hăng, nhưng mọi người - và chính nội các Trần Trọng Kim cũng vậy - hi vọng rằng Nhật cầm cự được mươi tháng, một năm đủ cho mình lập lại được trật tự trong nước, thi hành được một số cải cách, cải thiện kinh tế, lập được một đạo quân phòng vệ. Tóm lại là dựng được một cơ sở cho nền độc lập, rồi khi Nhật thua, đồng minh tới thì mình cũng dễ ăn nói; Đồng minh vẫn tuyên bố cho tự do, không lẽ lại cướp nền độc lập của mình, lúc đó đã thành “sự đã rồi”, mà bắt mình nô lệ trở lại. Mà nếu như vậy chăng nữa thì có một chút khí giới, có một số quân đội đã luyện tập, toàn dân sẽ nổi dậy chống cự, chết thì chết.

 

Ngờ đâu nội các Trần Trọng Kim hoạt động chưa được bốn tháng thì ngày 6 tháng 8, Mĩ thả quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima, ba ngày sau thì trái bom thứ nhì xuống Nagasaki, chỉ trong một phút, cả một thành phố thành bình địa, non 100.000 người chết, khoảng 100.000 người bị thương, 200.000 người không có chỗ trú vì trong một vòng tròn bán kính là 15 km không còn một ngôi nhà nào đứng vững.

 

Ngày 15 tháng 8 Nhật phải đầu hàng không điều kiện.

 

Hai ngày sau, Bảo Đại ban chiếu “thiết tha hiệu triệu những nhà ái quốc hữu danh và ẩn danh (...) mau mau ra giúp trẫm để đối phó với thời cuộc”, còn riêng ông ta thì “ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”.

 

Cũng ngày đó (17-8), ở Hà Nội 20.000 người biểu tình trước Nhà hát Tây và các nhà lãnh đạo Việt Minh xuất hiện lần đầu tiên trước quần chúng, cờ đỏ sao vàng bay phấp phới khắp thành phố. Ngày 20 tháng 8, Việt Minh chiếm được hết các cơ quan hành chánh ở Hà Nội. Ngày 21 tháng 8, Tổng hội sinh viên “đại biểu mọi đảng phái, mọi tầng lớp dân chúng” đưa kiến nghị, đánh điện tín yêu cầu Bảo Đại thoái vị để thành lập chính thể cộng hòa. Nội các Trần Trọng Kim tự xét không đương nổi đại sự, tự ý rút lui.

 

Ngày 25 tháng 8, ba đại diện của Việt Minh là Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận tới Huế; Bảo Đại ban chiếu thoái vị, “khuyên tất cả các giai cấp, các đảng phải, cho đến cả người hoàng phái cũng vậy, đều nên hợp nhất mà ủng hộ triệt để chính phủ dân chủ”, rồi giao bảo ấn cho đại diện Việt Minh.

 

Nhà Nguyễn chấm dứt sau non bốn thế kỉ, kể từ khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ ở Thuận Hóa, và từ hôm đó, hoàng đế Bảo Đại thành công dân Vĩnh Thụy.

 

Ở Nam, Việt Minh do Trần Văn Giàu cầm đầu, tiếp xúc với các đảng quốc gia như đảng Việt Nam độc lập của Hồ Văn Ngà, Thanh niên Tiền phong, một số trí thức, một số Cao Đài, Hòa Hảo, cả nhóm “Trốt kít”, La Lutte, tổ chức một cuộc biểu tình lớn ở Sài Gòn ngày 25 tháng 8.

 

Ngày 2-9 chính phủ Hồ Chí Minh tuyên bố ở Hà Nội Việt Nam độc lập, là một nước Cộng hòa dân chủ, và thành lập chính phủ lâm thời gồm: Chủ tịch Hồ Chí Minh và hơn một chục bộ trưởng: Võ Nguyên Giáp, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận, Phạm Văn Đồng, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Tố...

 

Thế là lịch sử Việt Nam đã qua một chương khác.

 

VỢ CON TÔI TẢN CƯ - HUỲNH PHÚ SỔ VÀ VIỆT CHÂU

 

Trong một chương trên tôi đã nói đầu năm 1944, Hải Phòng thường bị phi cơ Đồng minh dội bom, cả một khu tan tành, đường xuyên Đông Dương bị cắt nhiều nơi. Mùa hè năm đó Sài Gòn bị bom ở gần chợ Bến Thành, gần Sở thú... Trận khủng khiếp nhất xảy ra tôi không nhớ vào tháng nào, trong khi tôi đi kinh lí miền Tây bằng một chiếc tàu của sở. Mười hai giờ trưa tàu mới rời bến, tối tới Mĩ Tho thì hay tin Sài Gòn bị bom, nhiều nơi cháy, từ Mĩ Tho nhìn về phía Sài Gòn thấy hừng hừng một góc trời. Tôi cho tàu đậu lại, sáng hôm sau đi chuyến xe lửa đầu tiên, tới Sài Gòn vào khoảng bảy giờ, hay tin khu Tân Định tôi ở không sao. Tôi ghé thăm nhà: vợ con vẫn bình tĩnh, rồi tới sở hỏi viên kĩ sư có nên tiếp tục cuộc kinh lí nữa không. Ông ta đáp: Thôi, để tàu dùng vào việc khác. Lần đó có lẽ giang cảng Sài Gòn bị thiệt hại khá nhiều.

 

Dân chúng Sài Gòn bắt đầu tản cư, và tôi cho vợ con mang theo tất cả những giấy tờ quan trọng xuống làng Long Điền, quận Giá Rai, Bạc Liêu, tạm lánh ở nhà người em gái có chồng làm điền chủ và xã trưởng Long Điền (Lúc đó ông nhạc tôi đã ra làm việc ở Tuy Hòa, không còn ở Giá Rai nữa).

 

Tôi ở lại nhà đường Huỳnh Tịnh Của với hai người anh, con bác Ba tôi: Tân Phương và Việt Châu, em trai tôi và một đứa nhỏ giúp việc.

 

Vậy là cháu Nhật Đức mới vào học được mấy tháng ở trường tiểu học Tân Định, đã phải nghỉ học một thời gian.

 

Cả hai anh tôi đều thông minh, có khiếu về văn: Tân Phương học ở Cần Thơ, rớt Tú tài Pháp I, rớt vì dở toán quá, nghỉ học vài năm rồi qua Hương Cảng. Thượng Hải chuyên học tiếng Anh hai năm, lúc đó làm thông dịch viên tiếng Anh cho sở Thông tin Domei của Nhật; rồi giới thiệu cho em là Việt Châu vô làm. Việt Châu chỉ có bằng tiểu học rồi về nhà học chữ Hán và Đông y.

 

Hai anh đều như tôi, rất mừng khi Nhật đổ bộ lên Sài Gòn, mong Nhật đuổi Pháp đi, nhưng không thích gì Nhật, không học tiếng Nhật. Tân Phương không làm chính trị; Việt Châu cũng vậy, nhưng Việt Châu không nhớ do một cơ hội nào được nghe thầy Tư Hòa Hảo (tức Huỳnh Phú Sổ) xuất khẩu thành thi, lấy làm lạ, nhất là thấy thầy như có một ma lực gì kì dị, thu phục được rất nhiều người, nên từ ngạc nhiên sinh ra ngưỡng mộ, xin được giáp mặt thầy. Tiếp xúc vài lần, hai bên đều quí nhau: thầy Tư khen thơ Việt Châu hay nhưng ủy mị, Việt Châu không khen thơ thầy Tư hay nhưng nhận là làm rất mau và có ý nghĩa răn đời. Mới đầu giao tình chỉ có tính cách vì thơ văn như vậy.

 

Tháng 7 năm 1945, Nhật nhờ thầy Tư đi khuyến nông ở khắp miền Tây. Thầy rủ Việt Châu đi theo. Đi khoảng một tuần về, Việt Châu bảo tôi: “Con người đó thật kì dị. Mỗi ngày ngồi xe hơi đi mấy trăm cây số, diễn thuyết hai ba nơi, mỗi nơi nói thao thao bất tuyệt trong hai ba giờ, ở giữa trời, trước một dám nông dân hằng ngàn người, ai nấy im phăng phắc như nuốt từng lời một, có kẻ khóc mướt nữa. Có lần đương diễn thuyết thì trời đổ mưa, thầy Tư vẫn nói mà dân chúng vẫn nghe dưới mưa. Lần nào diễn thuyết xong rồi cũng lên xe đi nơi khác liền, không thấy mệt nhọc, vẫn ung dung làm thơ. Mà ăn rất ít, toàn đồ chay. Sinh lực sao mà dồi dào thế. Sức lôi cuốn, thôi miên quần chúng sao mà mạnh thế”.

 

Tôi cũng rất ngạc nhiên, cho là một dị nhân, và tôi bỗng nhờ tới Raspoutine thời Nicolas II ở đầu thế kỉ, nhưng không nói ra. Raspoutine cũng có sức mạnh phi thường, cũng có tài thôi miên, nhưng đời sống bê bối, hình dáng ghê tởm, rõ là một nhân vật bất tường, còn Huỳnh Phú Sổ thì ai cũng khen là nghiêm trang, đạo đức.

 

Từ đó Việt Châu theo thầy Tư và trong nhóm trí thức chung quanh thầy, thầy quí Việt Châu hơn cả, vì anh tuy ít học nhưng văn nhã, hoạt bát, trong sạch, có nhiều lương tri. Họ thành một cặp tri kỉ.

 

Khoảng giữa tháng 8, thầy phái anh ra Hà Nội xem tình hình ngoài đó và tìm hiểu thực lực của Việt minh. Anh ra tới Huế, yết kiến Trần Trọng Kim cho biết tình hình trong Nam, rồi tiếp tục ra Bắc, mới tới Nghệ An (?) thì gặp Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận từ Hà Nội vào để nhận ấn của Bảo Đại, anh theo họ trở vô Huế, rồi về Sài Gòn.

 

Tôi biết vậy thôi, chứ con đường của ai người ấy đi, mà mọi việc anh thường quyết định rồi mới cho tôi hay.

 

Từ khi Nhật đảo chánh, việc sở không có gì, tôi vẫn tiếp tục viết lách, dịch thuật, nhìn xem Nhật hành động ra sao.

 

TỜ TÂN VIỆT NAM

 

Tháng 5 hay 6-1945, ông giám đốc nhà Tín Đức thư xã cho ra tờ tuần báo Tân Việt Nam, mời ông Nguyễn Văn Nho làm chủ bút. Ông Nho thuộc lớp sau Nguyễn Văn Tố, nổi tiếng học giỏi trong tỉnh Bắc Ninh, ở trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội ra, đã viết ít bài đăng báo Pháp, và lúc đó dạy Việt ngữ ở trường Pétrus Ký, có tiếng hơn giáo sư Phạm Thiều, được giáo giới quí, học sinh trọng.

 

Tờ Tân Việt Nam 16 trang, khổ như tờ Tri Tân[5], có tính cách chính trị (số nào cũng có một bài xã luận lời già giặn của Nguyễn Văn Nho), bán không chạy bằng tờ Thanh niên của Huỳnh Tấn Phát vì hơi đạo mạo, có ít cây viết trẻ, phần văn nghệ kém.

 

Tôi nghĩ nước nhà đã đi vào vận hội mới nên gởi ông Nho vài bài tuỳ bút, tiểu luận đã viết từ trước, ông đăng và mời tôi lại nhà nói chuyện ở đường Boresse[6] (?). Từ cửa bước vào là một phòng hẹp với một bàn viết, mấy cái ghế, cái tủ. Sách vở giấy tờ ngổn ngang trên mặt bàn, dưới chân bàn, thật lộn xộn. Ông Nho khoảng 50 tuổi, lúc đó có lẽ đã bắt đầu bệnh cùi, mặt có vết đỏ hơi sần sùi, nhất là ở tai. Ông thông minh, hoạt bát, cởi mở, hiểu đời và nhiều nhiệt tâm. Tôi nhớ ông viết một bài về việc cứu đói ở Bắc Việt, đại ý bảo những kẻ yếu quá rồi thì đành hy sinh họ đi, chỉ cứu những người còn còn có sức một chút, vì không thể nào cứu hết được mà nếu chia đều cho mỗi người thì rốt cuộc chẳng cứu được ai cả. Tôi phục ông có óc làm chính trị.

 

Một hôm, ông ngỏ ý muốn giao nhiệm vụ chủ bút cho tôi vì ông mắc nhiều công chuyện chính trị. Tôi còn suy nghĩ chưa kịp trả lời thì báo đình bản. Trước sau tôi đăng được 4-5 bài[7]. Đó là lần đầu tiên tôi ra mắt độc giả.

 

NGÀY 2 THÁNG 9 NĂM 1945 Ở SÀI GÒN – PHÁP TRỞ LẠI SÀI GÒN

 

Nhật đầu hàng rồi, Đồng minh để cho Anh giải giới Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vô (dưới Tourane một chút), Trung Hoa giải giới từ vĩ tuyến đó trở ra, như vậy là Mĩ, Nga, hai cường quốc lớn nhất không có ý muốn cho Pháp trở lại Việt Nam, nhưng De Gaulle vẫn muốn bám lấy cái thuộc địa cũ. Ngày 24-3-45 sẽ cắt Việt Nam làm ba nước: Bắc, Trung, Nam; hợp với Lào, Miên thành một liên hiệp Đông Dương mà người cầm đầu là một viên toàn quyền Pháp, ở dưới có một số bộ trưởng Pháp và bản xứ. Liên hiệp đó có một quốc hội cũng gồm Pháp và bản xứ; quốc hội chỉ có quyền bàn ngân sách và góp ý kiến về các đạo luật. Nghĩa là chưa được tự trị chứ đừng nói là độc lập; vẫn là chế độ cũ “cải thiện” được một chút xíu.

 

Cuối tháng 8, Pháp cho Sainteny nhảy dù xuống Bắc Việt, Cédile xuống Nam Việt; Cédile bị dân chúng bắt giam. Sau được thả, nhờ Nhật can thiệp.

 

Ngày 2-9 làm lễ tuyên ngôn độc lập, có một cuộc biểu tình rất lớn từ 2 giờ trưa ở Sài Gòn, sau nhà thờ Đức Bà, gồm 200.000 người, có đủ các đảng phái tham dự. Sự tổ chức kĩ lưỡng, mới đầu rất có trật tự, sau có vài phát súng ở gần nhà thờ bắn vào đám biểu tình, không trúng ai. Thanh niên Tiền phong túa ra lục xét những nhà tình nghi. Từ đó đoàn biểu tình hoá hỗn độn, mặc dù vẫn tiếp tục được một đoạn đường nữa rồi mới giải tán. Một ông bạn tôi sợ quá, run lẩy bẩy, tôi phải dìu ông về nhà. Nghe nói hôm đó có mấy người Pháp bị bắt hay giết. Vậy là kiều dân Pháp gây hấn trước.

 

Ngày 6 tháng 9, tướng Anh Gracey tới Sài Gòn để giải giới quân Nhật. Pháp mới nhờ Mĩ, Anh mà ngóc đầu lên khỏi gót sắt của Đức thì De Gaulle đã cho một trung đội quân viễn chinh núp sau lưng quân Anh để đổ bộ lên Sài Gòn, mưu tính giày xéo non sông ta. Gracey thả hết các tù binh Pháp (và Anh, Hòa Lan, Úc) ra. Cờ Tam tài lại hiện trên nóc Dinh Toàn quyền cũ.

 

Ngày 10 tháng 9, Trần Văn Giàu thấy tình hình khó khăn, lập một Ủy ban chấp hành gồm nhiều đảng phái: Cao Đài, Hòa Hảo, Đệ tứ Quốc tế v.v... Chủ tịch là Phạm Văn Bạch.

 

Cédile muốn hòa đàm, đưa ra đề nghị đúng như lời tuyên bố 24-3 của De Gaulle. Đại diện phái đoàn mình mỉm cười: “Hiện thời chúng tôi đã có nhiều hơn vậy rồi”.

 

Ngày 17 tháng 9, tờ Dân Chúng đăng lệnh tổng đình công của Ủy ban chấp hành để bao vây kinh tế Sài Gòn, lại dọa đốt Sài Gòn nữa.

 

Đêm 22 rạng 23 tháng 9, quân đội Pháp chiếm lại các công sở; thường dân Pháp thấy dễ dàng quá, càng khiêu khích thêm. Người mình phản ứng lại mạnh. Hằng trăm người, tối 24 tháng 9 bao vây khu Hérault của Pháp kiều ở Tân Định, giết 150 người Pháp, bắt đi 300 người khác, theo Philippe Devillers trong Histoire du Việt Nam de 1940 à 1952.

 

Hai bên giao tranh một trận nhỏ, ngừng rồi lại đánh nữa. Không khí Sài Gòn thật khó thở. Khu tôi ở, nhà nào cũng đóng cửa và cũng có một cây tầm vông vạt nhọn. Pháp kiều, Ấn kiều không dám ló mặt ra.

 

Chúng tôi phải tích trữ gạo, một ít mè, hột vịt muối; rau cũng thiếu, phải đi nhổ rau càng cua ở bất kì chỗ nào: chân tường, lề đường, trên ống máng. Một vài người mạo hiểm ra ngoại ô mua được ít thịt, rau.

 

TÔI TỰ HỌC TIẾNG ANH

 

Trong thời gian non hai mươi ngày nằm nhà, để qua thì giờ, tôi nhờ anh Tân Phương chỉ cho tôi học tiếng Anh trong cuốn L’Anglais en 100 leçons (tôi không nhớ tên tác giả) mà tôi đã mua từ 1931, đã bắt đầu học được ít bài, rồi sau đó bỏ vì đậu vào trường Công chánh.

 

Loại sách đó thời tiền chiến rất thịnh hành, giúp những người tự học muốn thi Tú tài Pháp. Mỗi bài có độ ba chục từ mới, có chỉ cách đọc, sau mỗi bài học có một bài tập ngắn: dịch Anh ra Pháp hoặc ngược lại; cuối sách có bài Corrigé (sửa lại) của người làm sách, để người học coi mà tự sửa lấy bài của mình. Học như vậy chỉ ba bốn tháng có thể viết được ít câu tiếng Anh thông thường, ngắn, đọc được những loại dễ (loại cho trẻ em), nhưng nói thì người Anh không hiểu vì sai giọng; mà nghe người Anh nói mình cũng không hiểu. Vì vậy tôi chỉ nhờ anh Tân Phương chỉ cho tôi các đọc cho đúng giọng thôi.

 

Ngày nay phương pháp học đó đã lỗi thời. Học ngoại ngữ cốt nhất là nói được, cho nên ở Âu, Mĩ, người ta dùng phương pháp thính thị (audio-visuelle), chỉ sáu tháng là tạm nghe được, nói được, viết được một ngoại ngữ.

 

Trong đời tôi, đã hai lần rồi (1934 và 1945), hễ phải ở không trong một thời lâu thì tôi học ngoại ngữ. Cách đó là cách tốt nhất mà cũng ích lợi nhất để khỏi buồn. Và lần nào tôi học cũng chỉ cốt đọc được sách, không cần nói. Những môn tôi tự học để tiêu khiển đó, sau này giúp cho tôi rất nhiều trong việc viết sách. Một người nào đó đã nói: “Ai cũng biết sự ích lợi của những cái hữu ích mà không biết sự ích lợi của những cái vô ích”. Lời đó nhiều khi đúng.

 

GẶP HUỲNH PHÚ SỔ VÀ CỤ VÕ HOÀNH

 

Một hôm tôi nói với Việt Châu: “Hòa Hảo có một lực lượng khá lớn, nhưng thiếu tổ chức, thiếu chương trình hoạt động”. Chắc anh kể lại chuyện đó với thầy Tư Hoà Hảo, và ít ngày sau bảo tôi: “Chú có muốn gặp thầy Tư xem con người đó ra sao không? Nếu muốn thì hôm nào tôi dắt chú lại”. Tôi đáp: “Đi thì đi, cho biết”.

 

Và một buổi chiều, tôi theo Việt Châu lại chỗ thầy Tư ở, tại đường Michel[8]. Một biệt thự lầu mát mẻ, rộng rãi, có vườn. Tôi không nhớ có người gác không, nếu có thì cũng kín đáo. Chúng tôi đi thẳng vào phòng ngoài. Thầy Tư ngồi trên một cái sập giữa phòng, chúng tôi ngồi ghế, bên cái bàn kê ngay phía trước.

 

Rõ ràng là một thư sinh (lần đi thăm này trước khi Việt Châu đi Huế) trắng trẻo, mảnh khảnh, yếu đuối, xanh xao (Thầy bị di tinh, không sao trị được). Nét mặt đều đặn, cử chỉ, ngôn ngữ nhã nhặn. Nét đặc biệt nhất là cổ nhỏ, cao “ba ngấn”, với mớ tóc đen, mượt, lật ngược, xõa xuống vai.

 

Thầy bình tĩnh, ôn tồn hỏi tôi vài câu xã giao, cho tôi biết tình hình thời cuộc rồi bảo Việt Châu đưa tôi lên lầu, coi phòng người bắt tin ngoại quốc bằng máy một thu thanh. Tôi thấy trong nhà chỉ có vài đệ tử âm thầm đi đi lại lại để thầy sai bảo vặt. Thật tĩnh mịch.

 

Khi ra về, Việt Châu hỏi cảm tưởng của tôi, tôi đáp, cứ thực mà đáp: “Thành thực, nhã nhặn, hiền lành; không thấy được nhờ đâu mà thầy lôi cuốn, cảm hóa được quần chúng mạnh như anh và rất nhiều người nói. Biệt thự có vẻ của một cư sĩ, chứ không phải là trụ sở của một đảng cách mạng... Tôi thấy tướng thầy có vẻ yểu”.

 

Khoảng giữa tháng 9 hay đầu tháng 10, một hôm giữa trưa, Việt Châu về bảo tôi: “Tôi phải đi gấp bây giờ. Ở Cần Thơ có vụ lộn xộn giữa tín đồ Hòa Hảo và Việt Minh. Ủy ban nhân dân tỉnh đã bắt vài người trong đạo. Thầy Tư phái tôi xuống dưới đó dàn xếp”.

 

Tôi cho không là có gì quan trọng mà anh ấy đi thì tất dàn xếp xong vì được thầy Tư tin, tín đồ trọng, lại quen vài người Việt Minh (tháng trước anh đã ra Huế, gặp Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận; bạn thi sĩ của anh có vài người theo Việt Minh từ lâu như Trần Huyền Trân, Thâm Tâm ở Hà Nội), mà anh khéo ăn khéo nói, bình tĩnh nữa.

 

Anh hẹn ba bốn ngày thì về. Bốn năm ngày sau vẫn chưa về. Rồi một hôm tôi hay tin đương đêm có người đến bao vây chỗ ở của thầy Tư Hòa Hảo, thầy leo tường trốn thoát. Tôi nghĩ bụng vụ Cần Thơ không êm rồi, Việt Châu không biết ra sao đây.

 

Cũng vào khoảng đó, một buổi sáng đi lang thang ở khu Nguyễn Du hay Duy Tân ngày nay, tôi thấy cụ Võ Hoành ở trong một biệt thự bước ra, có mấy thanh niên đi hai bên hộ vệ. Cụ có vẻ đã yếu nhiều, không quắc thước như hồi Việt Châu và tôi lại thăm ở Sa Đéc khoảng mười năm trước (việc này tôi đã chép trong phụ lục III cuốn Đông Kinh nghĩa thục, in lần thứ ba). Tôi bùi ngùi: chí hướng của cụ và các đồng chí non bốn chục năm trước bây giờ mới đạt, nhưng cụ Huấn Quyền đã mất ở Bến Tre, cụ Dương Bá Trạc cũng đã mất ở Singapour, di hài hỏa thiêu đem về Sài Gòn làm lễ truy điệu ở vườn Tao Đàn, do Cao Đài tổ chức mấy tuần trước, chỉ còn cụ (Võ Hoành), cụ Phương Sơn, bác tôi, và cụ Nguyễn Hải Thần đều quá già rồi, hoạt động gì được nữa, mà nói gì chắc cũng chẳng ai nghe. Cụ lên một chiếc xe hơi với mấy thanh niên, tôi nhìn theo tới khi xe khuất ở góc đường.

 

Mấy năm sau tôi hay tin cụ tản cư vào đồng Tháp Mười và mất trong đó, không hiểu vì bệnh hay vì nguyên do gì khác. Rồi tới khoảng 1972, một bạn văn cho tôi hay có gặp một người con trai của cụ làm thợ nề ở Sài Gòn, nhà rất nghèo, tôi bảo dắt tôi lại chơi để tôi hỏi rõ về cái chết của cụ; bạn đó hứa rồi quên mất. Con cái các nhà Nho cách mạng hầu hết đều cực khổ cả.

 

Cuối tháng 9, một số dân Sài Gòn đã bắt đầu tản cư. Ngày 5-10 tướng Leclerc tới Sài Gòn để chỉ huy quân đội Pháp, chiếm lại miền Nam sau khi Gracey làm xong nhiệm vụ giải giới Nhật, rút quân về Anh. Tân Phương, em trai tôi và tôi cũng tính tản cư về Tân Thạnh, nhà bác Ba tôi.

 

Báo đăng tin Pháp đã thả bom xuống một cựu thuộc địa Pháp ở bán đảo Ả Rập (Syrie), trúng quốc hội, mấy trăm người chết. Như vậy thì Việt Nam không sao thoát nạn binh lửa, nhưng lúc đó tôi vẫn ngây thơ tin rằng Mĩ, Anh, Nga không để cho Pháp tái chiếm Việt Nam và chỉ trong một tháng là sẽ có hòa đàm. Cho nên chúng tôi cứ để nguyên đồ đạc, chỉ mang theo mỗi người một chiếc va li chứa ít quần áo thường, vài bản thảo, vài cuốn sách. Sáng ngày 10 tháng 10, chúng tôi khóa cửa lại, nhờ hàng xóm coi chừng giùm, rồi cùng nhau lên đường.

 

°

° °


[1] Nhưng khi Nhật đầu hàng (1945) rồi, Pháp đòi lại hết.

[2] Có sách nói tổng thống Roosevelt biết trước vụ đó nhưng chịu hi sinh trọn hạm đội ở Pearl Habour để cho dân chúng phẩn uất, chịu cho ông đem quân qua châu Âu giúp Anh, Pháp (De Gaulle) chống với Đức, Ý.

[3] Câu này có người ghi là: Tiền môn cự hổ, hậu hộ tiến (hoặc nghinh) lang. (Goldfish).

[4] Sau đổi tên thành đường Pasteur. (Goldfish).

[5] Tức khổ 20 x 25cm. (Goldfish).

[6] Nay là đường Yersin. (Goldfish).

[7] Có lẽ tất cả các bài đó hoặc một vài bài trong số đó, cụ NHL dùng bút hiệu Lộc Đình. Năm 1980, khi ông Lê Phương Chi hỏi về bút hiệu này, cụ NHL cho biết: “(…) Bây giờ thì anh đã thấy bút danh Lộc Đình tôi dùng ký dưới một vài bài văn ngắn từ hồi trẻ…” (trích trong bài Tâm tình học giả Nguyễn Hiến Lê của Lê Phương Chi). (Goldfish).

[8] Bây giờ là đường Phùng Khắc Khoan, quận I.