nh trăng lọc qua mây mỏng phủ lụa mỡ gà trên xóm cháy. Những chòm cây sém nâu chìm vào màu lá xanh sẫm chung quanh. Con mắt nhìn đỡ nhức, nhưng mũi vẫn phải thở cái mùi khét tanh cuộn tròn trong gió. Hình như gió biển càng thổi sâu vào đất liền qua vùng bị càn, các thứ mùi tàn phá càng trộn vào nhau thêm đậm chứ không tan.
Súng cối đánh trống chầu đều đều ở Đồng Trầu, Đồng Mè. Pháo 105 từ quận lỵ bắn lên treo đèn trên đường ôtô và dọc sông Nhỡn. Một khối lửa xòe sáng trên không, tiếp tiếng "pung" của đạn nổ, rồi tiếng "pình" đầu nòng súng vẳng đến sau cùng. Chiếc dù trắng giống con sứa đeo chân lửa bập bềnh trôi xuống. Từng lúc xe ủi đất rồ máy ở chợ Đồng Trầu. Trung đoàn địch đã lọt được vào hai thôn dưới. Chúng đang hối hả sửa đường cho xe tiếp tế kéo lên. Chúng quyết cắm rễ, chiếm đến đâu xây "ấp chiến lược" đến đấy.
Đồng bào thôn Đồng Dừa họp ở một chỗ khuất gần sông, để tiện tụt xuống hào giao thông tránh pháo. Hơn ba trăm người ngồi trên cái sân đất rộng bị đạn máy bay rạch nhiều đường lỗ chỗ. Bóng lá dừa lá cau không ngớt chạy lừ lừ qua sân dưới ánh đèn dù. Mặt người hết tối lại sáng.
Lần họp này không có đèn măng sông, cờ, băng, chỉ có một khẩu hiệu viết vội bằng phấn trên cái nong dựng đứng: "Thà chết quyết không làm nệ!". Nến cháy leo lét bên trong đài tử sĩ - một cái nơm to phủ màu trắng - ghim mảnh giấy đề năm cái tên. Anh Mười Bề du kích, một đôi vợ chồng già, hai em nhỏ đã hy sinh trong ngày chọi sức đầu tiên.
Bê ghé sổ tay vào sát mặt vải màn; cúi đầu bên mảnh giấy đề năm tên, đọc những con số trả thù:
- Bộ phận đồng chí Sỏi đánh tại Đồng Mè diệt khoảng ba mươi bốn tên, lấy mười một súng. Sau khi giặc vào Đồng Mè, du kích thôn hạ được mười ba tên nữa. Ở Đồng Trầu, bộ phận đồng chí Trưng đánh chung với du kích thôn, diệt chừng bốn chục tên. Trận đánh của du kích thôn khi mới tối chưa có báo cáo. Nghe hai trái mìn của ta nổ trước, coi bộ chắc ăn...
Trong cái xô bồ của trận đánh, mỗi chiến sĩ thường chỉ thấy chiếc xe mình lật nhào, thằng giác mình đâm. Anh cũng kinh ngạc như tất cả mọi người ngoài trận khi nghe những con số cộng to tướng. Niềm vui diệt địch của anh lớn vọt lên theo bản thành tích chung. Ngay Bê cũng vậy. Vừa đánh giặc vừa lãnh đạo cả xã chống càn, Bê vẫn bồi hồi khi báo cáo chiến công trước bà con Đồng Dừa.
Bê gập sổ, nêu những người lập công đầu. Ba người được đề nghị lên trên khen thưởng: Mười Bề đã quật nhào bốn tên địch trước khi hy sinh, Tư Sỏi luôn luôn xốc tới tìm giặc mà đánh, và cái cậu Chuân có vẻ lờ đờ lòng khòng mà ra trận cứ nhanh như cắt. Bê không đả động đến mình, bởi quen thấy anh Chín Chuyền chỉ nhận lỗi chứ không nhận công. Một cái tên nữa nóng chảy trên lưỡi Bê. Đồng chí Út Sâm. Em Sâm. Phải nín lặng.
Chị du kích bí mật Đồng Mè lên tìm Bê lúc chập tối đã trầm trồ kể lời bọn lính bảo an: "Đụng một tay Việt cộng người Thượng thiệt dữ dằn, gan quá chừng chừng là gan. Biết người Thượng bởi thấy nó búi tóc mà mặt đen. Nó bắn thứ súng gì năm bảy nòng của Nga Xô Trung Cộng chẳng biết, hắt đạn như trấu vô mặt tụi tôi. Bị thương hơn chục đứa đây nè". Sâm bưng bát nước đến mời chị, cười: "Bộ đội Tây Nguyên đó chị ơi". Chi ủy giấu tên Sâm để Sâm có thể đánh lâu dài trong lòng địch.
-...Qua đấu tranh chánh trị và binh vận. Bà con hai thôn dưới vây giặc không cho đốt nhà, giựt lại được hai bò, bảy heo, hàng trăm gà tụi nó ăn cướp. Một số lính nghe lọt tai đã chặn tụi ác ôn không cho phá phách...
Lại một thành tích nữa phải ngậm tăm: lời má Bảy khuyên nhủ trung sĩ Huỳnh đã thấm.
Trong chỗ tối, dưới một lùm chuối, hai người mang bao lưng và đeo súng ngắn ngồi nghe Bê nói, đôi lúc vành bàn tay lên tai để theo dõi những câu bàn tán của đồng bào đang khoái hay còn lo. Đó là anh Chín và Dõng.
Anh Chín cho đồng chí bảo vệ tìm gọi hai lần. Dõng mới chịu rời đội du kích, về Đồng Dừa. Dõng cau đôi mày rậm, hậm hực:
- Tôi bỏ đi bây giờ, đồng bào chửi cho thối tai thối óc.
- Trời mưa có đất chịu. Ai chửi nhờ cậu Bê nghe giùm, gói gửi theo.
Anh Chín nói vui, nhưng cũng bị dằn vặt không kém Dõng.
Có lần về khu họp, anh được tin địch càn lớn ở tỉnh mình, giết đốt tràn lan, cán bộ tỉnh mất liên tiếp bốn người. Suốt đêm anh mở chong mắt. Xa91;ng bào đồng chí giữa lúc gay go, không làm gì được để góp sức chỉ đạo chống càn, anh thấy như mình đang mê một cơn mê dữ trong đó chân tay anh tách rời khỏi thân. Anh không cựa quậy được, không níu chúng lại được, chỉ còn một cái đầu để hiểu rằng mình hoàn toàn bất lực. Gần sáng anh tháo võng nhét vào bao, lên báo cáo với cấp trên xin về tỉnh ngay. Anh Sáu, người chủ trì cuộc họp, can một hồi rồi gắt một mẻ. Anh Chín đành thức một đêm nữa viết thư góp ý với tỉnh, buồn rầu nghĩ rằng thư phải đi bộ hơn nửa tháng mới đến nơi. Anh lên văn phòng, chỉ xin một phong bì đóng dấu thượng khẩn. Anh Sáu đi qua, nói ngay: "Ông coi lại, gạch bớt cái số thì, mà, là, vậy, để cho điện hỏa tốc về tỉnh. Đánh toàn văn". Anh Chín ngượng, mừng, biết ơn quá đỗi. Anh Sáu trẻ hơn anh Chín đâu mười tuổi. Họ là bạn tù Ban Mê Thuột hồi Pháp, đến nay họ vẫn dúi trà thuốc cho nhau, khi cần cũng cãi nhau những keo nẩy lửa về công tác.
Tiếng gọi của tình cảm mạnh lắm ở anh cán bộ tóc bạc này. Nó kéo anh trở lại Kỳ Bường, giúp cán bộ xã tận tay trong ngày mở màn chống càn, như người mẹ hồi hộp đưa hờ đôi tay theo đứa con lần đầu bước chập chững. Nhưng anh buộc mình đi xuống vùng biển. Đợt đồng khởi dưới đó sẽ đánh một đòn phá càn rất chắc ăn. Còn Dõng phải đi đón tiểu đoàn bộ đội địa phương của tỉnh đang kéo về đây, giúp tổ chức đánh vài trận lớn cũng để phá càn. Anh Chín phải mang cả cái tích xưa Tôn Tẫn cứu Hàn bằng cách lôi địch sang hướng khác để dỗ ngọt Dõng. Anh hiểu vì sao Dõng khổ. Quê ở Kỳ Bường, lãnh đạo khởi nghĩa tại Kỳ Bường, không ngớt kêu gọi bà con Kỳ Bường đánh giặc giữ làng, giữa lúc giặc càn ác nhất lại bỏ Kỳ Bường mà đi! Cay lắm chứ!
Bây giờ anh rỉ tai Dõng:
- Cậu Bê cứng rồi. Dám xông xáo mà lại biết nhìn hết các mặt, thấy không? Chị Năm cũng vững. ậu Kỳ Bường đủ sức làm ăn.
Dõng gãi mớ tóc bàn chải:
- Dễ nướng lắm anh à. Phải chi tôi được ở lại...
- Bộ ông với tôi thay da sống ba đời được sao? Mời ông thu hình lại một chút để cán bộ xã cầm cương phong trào, ông tướng ơi!
Tổ cảnh giới kêu ngoài xa:
- Tàu bay! Đầm già đó!
Ông Nhâm ngồi bên đài tử sĩ vội vén góc màn, thổi nến. Chiếc L.19 bay thấp giăng những đèn màu hình chữ thập. Đôi cánh đen kịt, vuông góc như lá chuối xén hằn trên nền mây trắng, lừ lừ xoay nghiêng. Có tiếng "rảng" lên đạn các bin. Tư Sỏi định bắn, Bê gọi:
- Khoan bắn, đợi họp xong đã!
Qua tiếng động cơ rè rè như xe gắn máy, một giọng đàn ông eo éo nổi lên: "Hỡi toàn thể anh em binh sĩ Việt cộng! Hỡi toàn thể dân chúng!". Bà con giật mình, rướn cổ. Rõ ràng tiếng loa từ dưới đất dội lên, như địch đã tới đầu xóm. "... Chúng tôi khẩn thiết kêu gọi ông Bê, ông Trưng, ông Sỏi, bà Tân, cùng tất cả những người khác đã lầm lỡ đi theo Việt cộng...".
Anh Trưng ở đâu gọi vào, giọng tỉnh khô:
- Họp tiếp đi, hễ kịp ta khoèo thằng này xuống coi mặt!>
Ba bốn người nói to:
- Giọng thằng Rân con lão Hạnh rõ ràng.
- Giả bộ lưng chừng miết!
- Cháy nhà ra mặt chuột, cháy làng thì lòi Việt gian!
Chiếc máy bay quần những vòng rất hẹp như vướng một đầu cánh vào ngọn tre. Thằng Rân chuyển sang mời "toàn thể dân chúng hãy hợp tác với quân đội cộng hòa và chánh quyền, hầu vãn hồi trật tự an ninh...". Tờ truyền đơn chưa đọc hết, máy bay đã ném luôn bốn cái đèn dù chung quanh cầu sông Nhỡn. Nó lên cao, mở vòng rộng hơn. Một quả đạn 105 huýt sáo như chích chòe cất giọng, bật chớp trắng cách chỗ họp vài trăm thước.
Anh Chín và Dõng ra đi lặng lẽ trong khi đồng bào tản ra tránh pháo. Chừng ba chục quả 105 rơi dồn dập xuống bãi sông cạnh cầu, nơi có nhiều con bù nhìn đứng giơ chổi cùn đuổi chim đến phá đỗ. Tư Sỏi nói oang oang:
- Tụi Mỹ mời đám bù nhìn của mình ra làm tổng thống. Bù nhìn không đi, nó tức nó bắn.
Phần sau cuộc họp bỗng nổi sóng gió.
Cần mở gấp một đợt đấu tranh trực diện lớn chống máy bay đại bác phá làng giết dân. Đi ngay sáng mai. Trừ du kích và mấy cán bộ ra công khai, còn bao nhiêu đi cả. Khi bàn việc này, chị Năm và ủy ban đều thấy trước sẽ có nhiều thắc mắc. Nhưng không ai ngờ bà con sẽ chống lại gay gắt như bây giờ.>
Trong khi chị Năm Tân nói, tiếng rì rầm đã nổi lên to dần. Vài câu sừng sộ bật ra. Một người cười khẩy.
-...Tóm lại, bà con ta sáng mai sẽ kéo xuống vây bọn chỉ huy, bắt chấm dứt phi pháo, bắt bồi thường nhà cháy người chết. Đồng bào cảm thông chưa?
Nhiều giọng cùng ồ lên:
- Thông như ống thổi lửa!
- Đang đánh ngon, lại xui đi nạp mạng chỗ hàm chó vó ngựa!
- Nó đang xúc dân 1, xúc không được thì giết, ủy ban quên rồi sao chớ?
- Có phải chị biểu xuống để nó khỏi mất công bắt, phải không?
- Bỏ bao thả sông. Nó bỏ bao thả sông hết?
Chị Năm ngẩn ra trước những lời sấn sổ ấy không kịp đáp. Tư Sỏi nổi khùng, quát:
- Làm gì kỳ vậy? Ai phát biểu giơ tay coi!
Một người ngồi thu lu cạnh miệng hào đưa tay lên. Khi người ấy nói, bà con mới nhận ra ông Mại. Suốt ngày nay ông bám chắc đáy hầm. Cô Mại "đa cảm" phải lên nhen lửa nấu cơm, bưng xuống cho cha. Ông thưa gửi rất lễ phép, và nói những lời rất không ngờ đối với cả những người tán thành cũng như phản đối chị Năm:
- Dạ, chị xong chưa để tôi xin nói hớt. Cấp trên bày vậy thiệt chí phải. Để đồng bào ở lại đây vướng vít, quí anh em du kích ném chuột còn sợ bể lộc bình. Tản cư lên mấy xã trên thì kẹt cái vụ đổ bộ Kỳ Lâm, đi không lọt. Chi bằng bà con mình lánh đỡ xuống dưới, lựa lời ăn nói với bên kia sao cho trôi chảy, họ nới tay cho chừng nào hay chừng nấy. Mình làm cách mạng chớ đâu có liều mạng...
Từ đầu cuộc họp, má Bảy vẫn ngồi chen giữa đám đông cho đỡ rét, vạch khăn trùm đầu để hở một bên tai, tóp tép nhai trầu.
Khi bà con cãi lại chị Năm, má không bằng lòng mà chẳng lấy làm lạ. Chính má cũng ngờ ngợ thế nào. Mọi hôm bà con đi chợ đã từng lời một tiếng hai với địch, đâu có chịu bị ăn hiếp. Nhưng lần này khác hẳn. Bọn Mỹ cầm quân đi càn, cố xúc dân và giết dân càng nhiều càng hay, bì sao được với trung sĩ Huỳnh và bọn lính còn nhớ tới Nam quốc Nam nhân! Đi đấu tranh lúc này e lợi chẳng bù hại, má tính như thế.
Tuy vậy, khi nghe giọng nỉ non của ông Mại, má bực mình muốn đập lại ngay. Ông Nhâm đã hầm hầm cắt ngang khi má định giơ tay:
- Nè, ông Mại, thằng Rân rao loa miết chưa đủ sao mà anh xía thêm vô?
- Chết, bác cứ...
- Anh muốn tránh né thì cuốn gói lủi một mình, chớ có dụ dỗ người ta! Trực diện kiểu anh là cõng con thỏ trên lưng, trói mình ra hàng! Thử hỏi bấy nhiêu bà con đây có ai chịu lạy giặc ống không?
Ông Mại co mình như con tôm luộc, nín thít, trong khi mấy anh trẻ tuổi chồm dậy đòi ủy ban "nắm đầu tụi phản động lọt lưới". Chị Năm phải can, và lái cuộc họp trở lại bàn việc chính: đồng ý với nhau cần tiến công địch, nhưng đánh cách nào đây? Nên hay chưa nên tiến công chính trị?
Chị Ơn đứng trong góc tối, mắt long lanh. Ngọ vẫn kèm bên chị.
Nỗi đau của người đàn bà công giáo mất chồng mất con này có cái gì dễ sợ. Chị không khóc, không cầu kinh, cũng không cho chôn đứa con. Sau lúc đi cắm chông với chòm xóm, chị lại về ngồi trên cái chõng nhỏ, bồng xác con, trừng trừng nhìn ra ngõ như đợi chồng về ăn cơm. Nghe bà thím đọc đi đọc lại kinh "Kính mầng" trước tượng Đức Mẹ, chị cười gằn:
- Bà hỏi thử Mẹ Maria có bị hiếp không?
- Nói bậy...
- Mẹ bao lớn...
- Thôi thôi, Giêsu Maria, lạy Chúa tôi!
Đến tối, sau khi nghe anh du kích kể một thằng Mỹ chỉ huy biệt động quân bị cây súng săn của anh bộ đội mặt đen cắm đủ chín viên chì giữa ngực, chị Ơn cúi nhìn vết bom chém mặt con, ngẫm nghĩ một lát, rồi đem con đi chôn sát bên mả chồng.
Bây giờ chị đột ngột giơ tay xin nói. Cũng như trong đêm vạch tội thằng Phổ, bà con im hẳn để nghe chị. Chị níu tay vào vai Ngọ, hơi nhô đầu:
- Tôi xin theo lệnh ủy ban đi trực diện. Có điều xuống đó tôi làm gì nữa thì một mình tôi chịu. Báo cáo trước vậy đó.
Chị chỉ nói bấy nhiêu bằng cái giọng khô và lạnh. Ngọ hiểu ngay chị muốn gì. Sau khi chôn con, chị lấy con dao xếp cỡ to của anh Ơn ra mài. Anh Ơn mua dao sau khi cha Phức dặn con chiên sắm vũ khí để "chống Việt cộng vô thần về giết công giáo". Chị mài nó đến khi cạo thử lông tay thấy đứt mới thôi. Chị hỏi một anh đã đi quân dịch: "Thằng tướng Mỹ đeo lon ra sao, chú vẽ tôi coi". Rõ ràng chị định theo bà con đi đấu tranh để đổi mạng với giặc.
Chị Năm trả lời qua quít: "Để giải quyết sau", và đưa mắt cho Ngọ. Ngọ khẽ gật đầu.
Má Bảy đã nghĩ xong. Má dặng hắng, bàn góp:
- Tôi nói sai nhờ bà con bỏ qua... Hồi khác không kể, bây giờ hễ mình xuống đấu tranh thì nó đánh trâu. Đánh chết trâu còn sợ mất vốn, đánh chết dân tụi nó được tăng lương. Hai nữa là cứ ở đây cự với tụi nó. Cự được đôi ba ngày rồi tụi nó cũng vô được, giết một mớ, đánh một mớ, rồi bắt dân rào ấp chiến lược, canh gác báo động. Hóa ra mình chống lại Cách mạng, chống lại mình. Cũng không xong. Chi bằng bà con mình bồng con ẵm cháu, đi tản cư tuốt một hơi lên Kỳ Sơn, lập cái chiến đấu khu, dựa thế núi mà chống chọi với tụi nó. Nhà cửa thóc lúa đem được gì thì đem, còn ta đốt hết, ta làm tiêu thổ như dạo xưa... Nói chung bấy nhiêu, còn phần tôi xin sống gửi nạc thác gửi xương cho Cách mạng, theo anh em nấu cơm nuôi heo, như hồi chín năm vậy đó.
Má nói một hơi, tin chắc rằng số đông bà con đồng ý với mình. Thật là giản đơn. Suốt chín năm kháng chiến ta làm vậy mà thắng Tây, thì bây giờ cứ vậy mà làm ắt thắng Mỹ. Cãi chi cho mệt!
Nhưng liên tiếp mấy người bác ngay má. Một chị nói sa sả:
- Con bà Bảy lớn chớ con tôi ẵm ngửa, tản cư lên đó lấy gì ăn? Mà tụi Mỹ bây giờ nhiều trực thăng, chỗ nào nó cũng hăm he đổ bộ, mình cứ bỏ đất cho nó mà tẩu miết à? Tôi không chạy lên cũng chẳng chạy xuống, cứ ở lì đây cuốc đất lật cỏ nuôi du kích bộ đội đánh giặc, nuôi bầy con tôi thôi!
- Nó vô được, chị làm sao?
- Nó vô tôi chống. Đốt nhà tôi níu tay. Đánh bà con tôi la làng. Làm ấp chiến lược tôi phá. Làm mất công chớ phá chẳng mấy hồi!
Má Bảy chưng hửng, rồi nhận ra chị kia nói cũng có lý.
Suốt một giờ bàn cãi rối rắm ấy, Bê ngồi im trên góc thềm nhà bị mảnh bom xói lở, cố ý không trông thấy những cái đưa mắt cầu khẩn của chị Năm. Trong chi ủy và ủy ban, chị nắm mặt đấu tranh chính trị, chị đứng ra giải thích là phải. Khi chị bí, Bê cũng đang bí, dù muốn nói thay cũng không biết nói sao cho đúng. Bí nhưng không thấy khó chịu. Bí mà vẫn tin có thể tìm ra lối thoát.
Giả sử cuộc họp này diễn ra ở Kỳ Thượng chẳng hạn, nơi khí thế quần chúng rất yếu do phát động kém, Bê biết đồng bào sẽ nghe chị phó chủ tịch một cách kiên nhẫn, đưa ra đôi câu hỏi gọi là, vâng ngay để đi ngủ sớm, và sáng hôm sau ước chừng một nửa số người được gọi đi đấu tranh sẽ lên cơn đau bụng và đau, đắp chiếu nằm rên.
Đây không phải thế. Quần chúng ở đây thực sự đã động. Ý chí giải phóng thấm sâu vào mỗi người dân, làm rung động tim óc họ, đẩy họ xốc tới đánh giặc giữ làng. Rất khó chia ra trong việc làm hằng ngày của người dân đâu là việc công đâu là việc tư. Lửa đốt nhà hôm nay đã đốt thêm những khối căm thù nóng sẵn. Bà con ầm ầm đòi đánh, và ùa ra cùng đánh với du kích. Nhưng họ thấy địch ác mà không thấy - hoặc đã quên - địch yếu. Cái yếu của thằng nói dối bị cùng đường phải gọi pháo bắn vào bù nhìn. Cái yếu của một tiểu đoàn bảo an nằm chết gí giữa gai để ăn đạn của Út Sâm một mình chặn đầu. Cái yếu do sự chán ghét, uất ức của những Huỳnh hay Bính đang cầm cây súng Mỹ... Bê sẽ làm sao đây để vạch cái vết nứt nằm giữa súc gỗ, và lái mũi dao đấu tranh chính trị nạy vào đấy? Làm sao để đồng bào thấy mình đánh nổi một trung đoàn giặc đang càn dữ dội vào cái xã nhỏ này, nếu biết đánh bằng cả hai quả đấm?
Khi Bê đứng dậy, ông Nhâm vừa giơ tay. Ông co chân ngồi xổm lên. Vẫn cái lối ề à nửa giỡn nửa thật khi bàn những việc lớn:
- Chẳng nhắc cũng nhớ, hồi đấu tranh đòi hiệp thương, bà con mình được tụi ác ôn mời ăn các thứ roi, uống nước vôi nước ớt đã đời. Chị phó chủ tịch chắc bây giờ còn no tới cổ. Phần lão đây, mới viết sơ sơ một bài văn kiến nghị, "quốc gia" đã chấm cho đậu tú tài, nghĩa là tái tù hai lượt, đóng thêm mấy con triện nướng đỏ trên lưng cho đủ bằng sắc ấn tín...
Tiếng cười bật lên chung quanh:
- Phải đó bác.> - Thiệt y sì sì vậy.
Ông Nhâm xoắn chòm râu đen, lắc đầu:
- Để khoan, chưa phải đâu. Mới nghe chị Năm kêu đi trực diện, tôi cũng có ù tai chút đỉnh. Nghĩ lui tới nãy giờ mới thấy chị nói đúng, ủy ban nói đúng. Hồi xưa mình tay không, nay mình có súng có chông, mạnh hơn. Thằng Phổ bị mình khử, bọn tiểu yêu khiếp hồn bỏ việc ráo, dân vệ rã hết, quân chính quy mới tới một ngày đã khiêng về hơn trăm đứa. Khác nhiều chớ. Bây giờ địch không ăn được mình, mình chưa thắng được nó, đang cù cưa. Tôi đoán bọn tướng Mỹ tướng ngụy họp đâu ở ga Đồng Mè, bàn thảo vầy nè: "Cái dân Kỳ Bường là cộng sản nòi, gan to hơn cóc, khó trị chớ chẳng chơi. Đánh hao quân lắm. Để ta dụ dân ra hàng, rồi ta nhốt hết vô ấp chiến lược, bọn du kích đói nhăn răng không đánh cũng thua. Diệu kế chơn diệu kế!". Tụi nó cho thằng Rân ngồi tàu bay kêu thương dân rầm trời, khóc được trong loa chắc nó cũng giả khóc rồi.
Mấy người tiếp ngay:
- Bởi vậy mới đừng xuống!
- Là cái kế nó xúc dân đó bác!
Má Bảy vạch cả hai tai ra khỏi khăn trùm đầu. Má cau mày, chưa hiểu ông Nhâm bày mưu thầy mẹo thợ gì, hay lại bàn ra. Ông cứ đủng đỉnh:
- Xì, các chú nói vậy là hữu dõng vô mưu. Biết nó gài bẫy cò ke thì mình bước tránh, mình đẩy nó lọt xuống bẫy chớ. Tôi tính nó đã làm ra màu mè độc lập dân chủ vậy, ta cứ đi, có điều đi sao cho khéo. Trước hết ta cử ít ông già bà lão xuống kiện cái sự đốt nhà giết dân thử nó nói sao. Coi như đi sứ. Nghề đời đánh không nổi mới dụ hàng, mà đang dụ hàng không ai dại gì chém sứ, tuồng tích xưa nay vẫn vậy. Liệu bề nó không đủ sức hốt dân thì còn bao nhiêu chị em xin mời ra quân hết, kéo đại binh xuống tiếp sức. Nó lâm thế bí mới phải kêu thương dân, ta bắt nó nói sao phải làm vậy, hễ nó không chịu thương ta oánh què cẳng. Mất gì mà ngại, cứ đi. Với lại...
Ông Nhâm bỗng cúi đầu, nín lặng mấy giây. Giọng ông trầm xuống:
- Tôi thấy lũ trẻ mới lớn lên giành nhau ra trận, người hy sanh kẻ bị vít 2, tôi thương đứt ruột mà nghĩ cứ tủi cho cái thân già ăn thêm sống rán. Thôi thì cầm súng không nổi cũng còn chút hơi thở đây, tôi xin đi giằng co níu kéo thằng giặc, đỡ tay cho anh chị em du kích được bao nhiêu hay bấy nhiêu... Đảng với Mặt trận kêu gọi ta chia lửa với con cháu, chẳng lẽ bà con mình nỡ làm thinh hay sao?
Mấy lời cuối cùng của ông già ăn ngay nói thẳng kéo bật mọi người trở về với cảnh chiến đấu trong ngày. Má Bảy kéo góc khăn thấm nước mắt. Má thấy Út Sâm băng qua các cánh quân giặc, trở về với tay chân đầy vết gai rạch. Má thấy Tư Sỏi đưa bàn tay vấy bùn và máu bốc nắm cơm, vừa nhai vừa chạy dọc hào. Má phải ra trận, đánh theo kiểu của má. Má phải tiếp sức cho con.
Má nói chậm rãi:
- Tôi dốt đui dốt đen, chẳng biết cãi lý sự với bọn chỉ huy, có điều sợ giặc thì dứt khoát không sợ. Cần trực diện tôi xin đi trước.
Cuộc bàn cãi xoay hẳn sang hướng mới. Trong khi chị Năm và Bê nói nhỏ với nhau, ông Nhâm đứng dậy gọi tên các ông bà già, rủ họ cùng đi. Họ nhận cả. Cũng còn đôi người gượng gạo, nhưng thấy má Bảy đã tình nguyện trước nên họ ngượng miệng không dám từ chối.
Chị Năm đề nghị ông Nhâm làm "đội trưởng xung kích". Ông vê râu, nhìn quanh:
- Ờ, gì chớ cái sự kẹp dù đi kiện tôi cũng đã từng, mà roi vọt lắm phen nó cũng dày da lưng rồi. Cốt nhứt bà con mình đồng lòng thì trận này ăn chắc. Tôi xin ủy ban một điều thôi: ai lén khai báo với giặc về cuộc họp đêm nay thì trước hết bị trời tru đất diệt, sau nữa cho tôi mượn cái đầu. Vậy được chớ?
Bê hỏi ngay:
- Bà con mình thấy sao?
- Đồng ý! Đồng ý!
Bê đột ngột cười xòa giữa lúc không có gì đáng cười cả. Nhưng bà con đều cười theo, hỉ hả. Gỡ được chỗ bí rồi. Mặt trận chính trị sẽ mở, sức ta tăng gấp đôi, Kỳ Bường không thể bị mất. Chắc chắn như vậy, vì Đảng bày như vậy. Mấy ngàn trái tim nóng của bà con vẫn gắn liền với khối óc tỏa sáng của Đảng, trong cái thân thể đầy vết thương là mảnh đất Kỳ Bường.
Có một điều Bê và chị Năm biết rõ nhưng không được phép nói ra để bà con mừng: cuộc đấu tranh có vẻ trái cựa đối với Kỳ Bường này nằm trong đợt tiến công chính trị lớn của toàn tỉnh. Ủy ban tỉnh đồng ý với anh Chín Chuyền, đã châm ngòi cho nó nổ sớm hơn ngày định trước. Ước chừng mười tám vạn đồng bào sẽéo vào các thị xã thị trấn, vây chặt "tỉnh đường" và "quận đường", xô vào đồn giặc, cùng chống càn với Kỳ Bường ở cả những nơi đồng bào Kỳ Bường chưa hề đi đến hoặc nghe tên.
Má đi một mình trên con đường ven sông rắc đầy những lá tươi mới rụng, cành gãy, mảnh tranh, khúc tre. Dưới bóng cây, những hạt xăng bột của bom na pan vãi ra chưa cháy hết nổi sáng xanh lốm đốm như lá mục, xòe lửa xanh khi bị chân chà mạnh. Từng lúc, má hoa mẩu củi than tìm đường vòng tránh một hố bom khuất trăng. Người má nhẹ và ấm. Cái uất ức bó tay khi ngồi trong hầm nghe súng nổ bên ngoài đã tan hẳn khi má được ra trận với các con.
Sắp rẽ về nhà, má bỗng ngồi thụp xuống, dúi mẩu củi vào một gốc chuối. Có thuyền qua sông. Hai, ba, bốn chiếc đò rẽ trăng sóng sánh, chở đầy những bóng đen có tia trắng lóe trên súng. Má men bụi rậm đến gần bực sông, nhô đầu dòm.
- Ai? Khẩu hiệu?
Má hớt hải:
- Ớ ông trùm ông xã, tôiây...
- Má hả má?
Út Sâm hạ nòng súng. Hàm răng cười trắng nhởn trên mặt đen. Lại lọ nồi, hết rửa lại bôi!
- Sao không ngủ chút đã con?
- Bộ đội về chống càn đó má. Coi ngon chưa. Có đủ ông ầm nè, thấp thấp lùn lùn nè. Chắc đánh to lắm. Con không được đi theo, tiếc ghê.
- Thôi ở nhà với má, nghỉ một bữa.
Sâm cười ngặt ngoẹo:
- Má kỳ lắm. Nhà đâu nữa mà ở? Mà má đâu có ở nhà? Mai má đi xung kích, con theo chủ lực xuống sau. Con Ngọ ra nói má xung phong trước hết, thiệt bảnh. Anh Tư coi bộ không ưng...
- Sao vậy?
- Ẳnh nói tụi ác ôn biết ảnh, thù ảnh, sợ tụi nó bắt má làm con tin để buộc ảnh đầu thú. Con hẹn hễ má bị bắt thì con kéo bà con nhào vô níu xé, thả thả hết, bắt bắt hết.
Ngọ từ dưới bãi đi lên, báo tin bộ đội qua sông xong xuôi, đang đi dọc bãi về phía Kỳ Minh. Anh em đi rất êm và tránh xóm để chó khỏi sủa. Má phàn nàn:
- Ông Dõng ác quá, không cho anh em vô xóm nghỉ một lát, bà con mời ăn khuya chén chè tô cháo rồi hãy đi. - Để con nói bác Chín cử má làm chánh trị viên!
Đêm ấy má với Sâm nằm trên bộ ván mọt kê sát đất, bên miệng hầm, trên che tạm mấy cái nong. Đồ đạc trong nhà được giấu rải rác ngoài vườn, còn nguyên cả. Từng luồng khói nóng từ đống tre gỗ cháy ngún theo gió tuôn vào đầy lều. Ngôi nhà còn nhớ chủ, đưa những hơi thở ấm cuối cùng theo chủ trước khi hóa kiếp, để lại đống tro bón ruộng và mớ than nấu cơm. Má nằm nghĩ lan man, tiếc cái nhà giữ non hai chục năm đến nay bị cháy, thương chồng dành dụm làm nhà, rồi nhớ thằng Tùy vắt vẻo trên mái lợp từng tấm lá dừa đánh dày cộp.
Trên ngọn dừa cao nhất, con tắc kè thấy vắng bắt đầu đếm tuổi: "Cắc... kè!". Sâm bật kêu mừng rỡ:
- Nó còn sống má ơi! Tội nghiệp, chẳng ai nhớ nó hết mà nó nhớ mình, thấy mình về nó chào.
Má cười.
- Tao với nó thi đua sống dai, tao còn nhứt định nó còn. Mà nó ưa chọc tao. Đêm nào nó cũng kêu: "Bác già, bác già". Chao, đau lưng gớm đây Út.
Sâm đấm lưng cho má xong, bật ho một hồi:
- Khói khét như quỉ!
- Chửi Mỹ chớ sao lại chửi nhà mình?
- Con tập chửi, để mai chửi Mỹ cho tơi bời khói lửa.
M nằm nghiêng, im một phút rồi hỏi Sâm:
- Con biết thằng Bê tên thiệt là gì không?
Sâm giương mắt:
- Là Bê chớ tên là gì nữa?
- Dốt! Nó là Bái, Biên, hay cái gì đó cũng một vần B, má quên... Má hỏi đây Út. Nghe không?
- Dạ.
Khi sắp nói chuyện "người lớn" với Sâm, má thường mào đầu như vậy. Sâm chợt sợ rúm người. Chết, anh Bê đã nói với má cái chuyện hồi trưa, dưới hầm bí mật... Má bẻ ngón tay rắc rắc mà Sâm tưởng xương mình gãy vụn. Con gái trắc nết nè. Tao nuôi tao dạy bấy lâu mà mày không nói sơ với tao một tiếng nè. Từ rày tao cấm cái này cái nọ... Sâm muốn chồm dậy, chạy biến thật xa. Nhưng má đã thủ thỉ:
- Má coi bộ thằng Tùy còn lâu mới về được. Thôi má không nuôi có bà khác nuôi, cũng mừng cho nó được ở gần Cụ Hồ mà học cái đức thánh hiền của Cụ. Má tính vầy Út à. Thằng Bê mồ côi ba má, tội nghiệp lắm, má muốn nhận nó làm con nuôi. Con thấy sao?
Sâm quẫy một cái không nói. Má thấy lạ. Má nghe Sâm khen Bê luôn, tưởng nghe vầy Sâm vồ vập mới phải chứ. Hay Sâm xin súng đạn gì đó không được rồi giận?
Má nói tha thiết hơn:
- Không phải má nuôi nó để về sau nhờ cậy gì. Có điều hết thảy cán bộ du kích ai cũng có chỗ bà con lui tới, sót lại một mình nó đầu không chằng chân không rễ, nó vun đắp cho cả xã mà rách cái áo cũng phải lui cui ngồi vá lấy, má nghĩ xót ruột quá đi. Thôi thì không có công sanh thành cũng góp một chút dưỡng dục, má sống chẳng mấy năm nữa, má xin với cấp trên lãnh nó làm con nuôi, lo cơm áo cho nó để nó vui bụng mà làm việc nước. Như vậy thằng Tư với con cũng được phước về sau nữa. Hay con chê nó chưa xứng làm anh thì nói thiệt đi.
Sâm lật mình quay lại, quàng tay ôm má, dụi cái trán nóng rực vào cổ má. Sâm lúng búng trong miệng như ngậm cháo:
- Con... con có chê ảnh đâu...
- Coi bộ chưa ưng ý hả?
- Con ưng... Mà không, đừng, khoan đã má, để con ngủ.
- Út à...
- Con buồn ngủ muốn chết. Con ngủ đây má.
Sâm lại trở mình úp thìa với má, thở phì phò. Vì Sâm ngáy cẩn thận quá nên má biết con chưa ngủ, chỉ tránh trả lời. Lớp trẻ bây giờ lắm cái rắc rối má không hiểu được.
Má kéo chăn đắp cổ cho con, trùm thêm chiếc chiếu ra ngoài che sương. Sương mù từ dưới sông tràn lên bắt đầu phủ kín cây vườn. Tiếng lựu đạn và súng nhỏ cũng bắt đầu dậy lên phía Đồng Trầu. Du kích đợi trời đất trắng xóa cả mới đánh vào những nơi giặc đóng.
Bắt dân phải rời làng đi ở các khu tập trung. |
Bị thương. |