Giữa đoạn đường từ West Egg đi New York, đường xe hơi bỗng ríu lại với đường sắt, chạy sát cạnh nó một phần tư dặm như muốn lẩn tránh một vùng đất thê lương. Cả một vùng thung lũng này bị chìm ngập dưới một lớp bụi dày xám như tro, trông chẳng khác nào một trang trại quái đản, nơi tro mọc lên như lúa mì, thành gò, thành đống, thành những vườn tược kì quái, nơi tro mang hình những ngôi nhà, những ống khói lò sưởi và cả làn khói toả ra từ những ống khói ấy, và cuối cùng với một cố gắng vượt bậc, nó mang hình những con người xám ngoét lờ mờ di động hoặc chỉ chực khuỵu ngã trong một bầu không khí mù mịt. Thỉnh thoảng, một đoàn tàu với những toa xe xám xịt trườn trên một con đường vô hình, phát ra một tiếng rít rùng rợn rồi dừng lại. Ngay lập tức, những con người xám ngoét kia tay cầm những chiếc xẻng chì bâu đến nhung nhúc như đàn kiến và làm bốc lên một đám mây dày đặc che kín các hoạt động mờ ám của họ.
Nhưng bên trên mảnh đất xám nhờ nhờ và những đám bụi bác thếch lềnh bềnh trôi đi không dứt trên mặt đất ấy, nếu định thần nhìn một lúc, ta sẽ nhận ra hai con mắt của bác sĩ T. J. Eckleburg. Đó là một cặp mắt xanh lơ khổng lồ, con ngươi cao đến một mét. Hai con mắt của bác sĩ T. J. Eckleburg không nằm trên một bộ mặt nào cả, mà chúng nhìn mọi người qua một cặp kính vàng kếch sù đặt trên mỗi cái mũi khuyết. Hẳn là hai con mắt ấy đã được một ông lang mắt thích đùa nào đó đặt ở đây để quảng cáo cho phòng chữa bệnh của ông ta ở quận Queens, nhưng sau đó ông bác sĩ Eckleburg đã rơi vào cảnh mù loà vĩnh viễn hay đã bỏ quên cặp mắt ấy và chuyển đi nơi khác rồi. Nhưng hai con mắt ông, đã bị phai nhạt đôi chút vì dãi dầu mưa nắng và lâu ngày không được một
nước sơn, vẫn đăm chiêu nhìn xuống bãi đổ tro hoả táng mênh mông này.
Ở về một mé thung lũng tro có một mặt sông ngầu bẩn. Khi chiếc cầu cất bắt qua sông được nâng lên để thuyền bè qua lại, hành khách đi trên các đoàn tàu đỗ bên sông chờ qua cầu có thể ngắm cảnh vật sầu thảm này tới chừng nửa giờ. Tàu hoả bao giờ cũng đỗ lại ở đấy ít nhất một phút, và chính trong dịp đó, tôi đã gặp người tình của Tom Buchanan lần đầu tiên. Ở đâu Tom có người quen là ở đó người ta kháo nhau về chuyện người tình của Tom. Bạn bè anh rất khó chịu thấy anh dẫn tình nhân đến các quán ăn đông khách rồi để mặc ả ngồi một chỗ, ra chuyện trò với bất cứ người quen nào. Tuy tò mò muốn biết mặt ả nhưng tôi tuyệt nhiên không có ý muốn gặp, thế mà rút cuộc vẫn gặp. Buổi chiều hôm ấy, tôi đáp tàu đi New York cùng với Tom. Khi tàu đỗ lại cạnh mấy gò bụi tro, Tom đứng dậy, nắm lấy khuỷu tay tôi, ép tôi xuống tàu. Anh nằng nặc đòi:
– Xuống thôi. Tôi muốn anh gặp bà bạn gái của tôi.
Tôi chắc Tom đã uống khá nhiều rượu trong bữa trưa vì anh ép buộc tôi với vẻ gần như hung bạo. Hẳn anh ta hợm hĩnh cho rằng không có việc nào khác đáng làm hơn đối với tôi trong một buổi chiều chủ nhật.
Tôi theo chân Tom bước qua một cái hàng rào thấp quét vôi trắng chạy dọc theo đường sắt rồi đi ngược con đường cái dưới cặp mắt nhìn chằm chằm của bác sĩ Eckleburg. Nhìn khắp vùng chỉ thấy có mỗi một dãy nhà nhỏ xây bằng gạch vàng nằm sát rìa vùng đất hoang, nó như một “Phố chính” thu nhỏ của một tỉnh lị ở liền ngay cạnh cõi hư không. Dãy nhà có ba cửa hiệu, một hiệu đề bảng cho thuê, một hiệu là một quán ăn mở cửa suốt đêm có một con đường mòn bụi lầm dẫn đến. Cửa hiệu thứ ba là hiệu sửa chữa xe hơi, biển đề: “Sửa chữa – GEORGE B.WILSON – Mua bán xe hơi”. Tôi theo Tom vào trong hiệu.
Trong nhà nghèo nàn và xơ xác, chỉ thấy có mỗi một chiếc xe Ford đã nát hết cả, bụi phủ dày, nằm bẹp ở một góc nhà tối tăm. Tôi đang nghĩ thầm rằng cái cửa hiệu không ra hồn cửa hiệu này chắc chỉ là một cái màn che đậy bên ngoài, còn những gian phòng lộng lẫy và thơ mộng chắc được giấu kín đáo ở tầng trên thì đích thân người chủ hiệu xuất hiện ở khung cửa một phòng giấy, chùi tay vào một mảnh giẻ. Đó là một người đàn ông nhu nhược, nước da xanh rớt, tóc vàng và có đôi ba nét điển trai. Thấy chúng tôi, một ánh hi vọng ẩm ướt loé lên trong đôi mắt xanh nhạt của ông ta.
Tom vui vẻ vỗ vỗ vai người chủ hiệu:
– Thế nào, ông bạn Wilson, làm ăn ra sao?
– Không có gì phải phàn nàn, – Wilson đáp nhưng giọng nói không có lấy một chút tự tin. – Bao giờ ông mới để lại cho tôi chiếc xe ấy?
– Tuần sau. Tôi đang cho sửa. – Sửa chậm quá, ông ạ.
– Không chậm đâu, – giọng Tom lạnh lùng. – Mà nếu ông thấy chậm, để tôi bán cho người khác vậy.
– Tôi không có ý nói thế, – Wilson vội giải thích, – tôi chỉ muốn nói là…
Giọng ông ta nhỏ dần đi, còn Tom thì đảo mắt nhìn vào phía trong, vẻ nóng ruột. Sau đó tôi nghe thấy tiếng chân bước xuống cầu thang, và một lúc sau một người phụ nữ dáng hơi đẫy che khuất ánh sáng hắt từ phòng giấy ra. Bà ta trạc ba mươi nhăm tuổi, hơi béo, nhưng mũm mĩm đa tình như thường thấy ở một số phụ nữ. Bà ta mặc một chiếc áo kếp màu xanh thẫm chấm hoa, khuôn mặt tuyệt nhiên không có nét gì gọi là đẹp, nhưng có thể nhận ra ngay sức sống hừng hực
ở người bà ta, nó như làm cho các dây thần kinh trong người bà ta lúc nào cũng nóng rực. Bà ta mỉm miệng cười từ tốn, đi ngang qua mặt chồng tưởng đâu đó chỉ là một cái bóng rồi đến bắt tay Tom. Sau đó bà ta liếm môi, và không quay mặt lại, bảo chồng bằng một giọng ẽo ợt thô lỗ:
– Lấy cho mấy cái ghế nào, để ngồi chứ.
– Có ngay, có ngay, – Wilson vội vã nghe lời. Ông ta đi về phía phòng giấy nhỏ và tan biến ngay vào với màu tường xi măng. Một lớp bụi trơ mốc thếch phủ lên bộ quần áo sẫm và mớ tóc nhạt của ông ta như nó phủ lên tất cả mọi thứ ở đây, chỉ trừ có vợ của ông. Bà vợ tiến sát lại người Tom.
– Anh muốn gặp em, – Tom nói như ra lệnh. – Em đi ngay chuyến tàu tới nhé. – Vâng.
– Anh sẽ chờ bên quầy báo ở tầng dưới nhà ga.
Bà ta gật đầu và nhích ra xa vừa lúc George Wilson ở phòng giấy bước ra với hai cái ghế.
Chúng tôi đợi bà ta ngoài đường, ở một chỗ khuất. Mấy hôm nữa là đến ngày Quốc khánh mồng Bốn tháng Bảy, một đứa trẻ con Ý khẳng khiu, da tái mét, đang đi treo một dây pháo dọc đường sắt.
– Chỗ này khiếp nhỉ! – Tom cau mày nhìn bác sĩ Eckleburg. – Kinh khủng.
– Được sổng đi là tốt cho mụ đấy.
– Chồng bà ta không có ý kiến gì à?
– Wilson ấy à? Hắn tưởng vợ đi thăm em gái ở New York. Hắn đần độn đến nỗi không nhận ra mình tồn tại ở trên đời nữa.
Thế là tôi và Tom Buchanan với người tình của anh cùng đi tàu lên New York – nói cho đúng hơn thì không hẳn đi cùng vì bà vợ Wilson kín đáo ngồi riêng ở một toa khác. Tom đã chịu chiếu cố đến ý kiến của những người dân East Egg có thể đi cùng chuyến tàu.
Bà ta đã thay áo, mặc một chiếc áo mút-xơ-lin hoa nâu. Chiếc áo căng trên cặp mông khá đồ sộ khi Tom đỡ bà ta xuống sân ga New York. Tại quầy báo, bà ta
mua một tờ “Chuyện đô thành” và một tờ tạp chí điện ảnh rồi vào cửa hàng tạp phẩm ở nhà ga mua một hộp kem thoa mặt và một lọ nước hoa nhỏ. Ra ngoài ga, bà ta chê bốn chiếc taxi, đến chiếc thứ năm mới ưng. Chiếc xe sơn màu sim, ghế đệm màu xám nhạt, đưa chúng tôi ra khỏi khu nhà ga về phía ánh nắng chói chang. Nhưng xe vừa mới lăn bánh bà ta đã nhoai người lên, đập tay vào tấm kính chắn đằng trước, giọng hối hả:
– Em muốn mua một con trong bầy chó kia. Em muốn nuôi một con. Có một con chó trong nhà thật là tuyệt.
Xe lùi lại và dừng bánh trước mặt một ông già tóc bạc phơ, trông giống John D. Rockefeller (1) đến kì cục. Trong cái giỏ treo trước ngực ông cụ lúc nhúc khoảng một chục con chó con vừa mới đẻ, không rõ thuộc giống nào.
– Giống chó nào đấy? – Bà vợ Wilson hăm hở hỏi khi cụ già bán chó đến cạnh cửa xe.
– Đủ mọi giống. Quý bà thích giống nào?
– Tôi muốn mua một con béc-giê. Chắc cụ không có?
Ông cụ nhìn vào trong giỏ với con mắt ngờ vực, thọc tay vào trong nắm gáy lôi ra một con chân đạp giãy giụa.
– Không phải là chó béc-giê. – Tom nói.
– Dạ, đúng vậy, nó không phải là giống béc-giê, – ông cụ nói với giọng thất vọng.
– Nó thuộc giống Airedale nhiều hơn, – Ông cụ đưa bàn tay vuốt lưng con vật trông giống như một tấm khăn mặt nâu, – Quý ngài nhìn lông nó đây này. Lông thế mới là lông chứ! Giống chó này không bao giờ bị cảm lạnh để làm quý ngài phải vất vả vì nó.
Bà vợ Wilson hào hứng:
– Nó trông dễ thương đấy chứ. Giá bao nhiêu hả cụ?
– Con này ấy à? – Ông cụ nhìn con chó với con mắt cảm phục. – Con này, xin bà trả cho mười đôla.
Con vật đổi chủ và cuộn mình nằm gọn trong lòng bà vợ Wilson. Tổ tiên hoặc họ hàng nhà nó thế nào cũng có con thuộc giống Airedale, tuy chân nó trắng đến lạ. Bà vợ Wilson sung sướng vuốt ve bộ lông, chiếc áo khoác ngoài chống mọi thời tiết của con chó. Bà ta hỏi ra chiều tế nhị:
– Nó là trai hay gái đấy?
– Con chó này ấy à? À, nó là trai.
– Nó là một con chó cái, – giọng Tom dứt khoát. – Đây, tiền trả cho cụ đây, cầm lấy mà đi mua mười con khác.
Xe chúng tôi chạy bon bon về phía đại lộ Năm, ấm áp và êm dịu, gần như một nơi thôn dã trong buổi chiều chủ nhật mùa hè này. Chắc tôi sẽ không ngạc nhiên nếu thấy một bầy cừu trắng hiện ra ở góc phố.
– Đỗ lại một tí, – tôi nói. – Tôi xin phép chia tay ở đây.
– Không được, – Tom vội ngắt lời tôi. – Anh không lại chơi chỗ chúng tôi thì Myrtle sẽ mếch lòng lắm đấy. Có đúng không, Myrtle?
– Ông quá bộ đến chơi chỗ chúng tôi đi. – Myrtle Wilson khẩn nài. – Tôi sẽ gọi dây nói cho Catherine, cô em gái tôi, bảo nó đến nữa. Nó được những người thuộc giới sành sỏi đánh giá là rất đẹp.
– Thôi được, tôi xin đến, nhưng…
Chúng tôi đi tiếp, lại xuyên qua Công viên về khu Tây. Đến phố 158, chiếc xe dừng lại trước một dãy nhà nằm giữa những dãy nhà khác giống hệt nhau khiến nó trông như một khoanh bánh cắt ra từ một chiếc bánh trắng dài. Nhìn xung quanh với con mắt của một bà hoàng khi trở lại vương quốc mình, bà vợ Wilson ôm lấy con chó và mấy thứ đồ vừa mới mua, vênh váo bước vào nhà.
– Tôi sẽ cho gọi vợ chồng McKee lên, – bà Wilson nói trong lúc chúng tôi đi cầu thang máy. – Và tất nhiên phải gọi dây nói cho cả cô em tôi nữa.
Căn hộ nhỏ nằm ở tầng trên cùng, gồm một phòng khách nhỏ, một phòng ăn nhỏ, một phòng ngủ nhỏ và một buồng tắm. Trong phòng khách, một bộ xa-lông bọc đệm quá to so với nó được kê choán đến tận cửa thành ra đi lại trong phòng cứ luôn luôn vấp phải những cảnh phụ nữ đung đưa trên những cái đu trong khu vườn Versailles. Trên tường treo có mỗi một bức ảnh phóng to quá cỡ, trông như ảnh một con gà mái đậu trên một tảng đá mờ mờ. Nếu lùi được ra xe nhìn thì mới thấy con gà mái trở thành một cái mũ, và tảng đá là khuôn mặt một bà già béo phị, toét miệng cười nhìn xuống gian phòng. Nhiều số báo “Chuyện đô thành” cũ nằm ngổn ngang trên bàn cùng với một cuốn “Simon gọi Peter” và một vài tạp chí khổ nhỏ ở Broadway chuyên đăng những chuyện tai tiếng. Bà Wilson trước hết lo đến con chó của mình. Thằng nhỏ trông thang máy làu bàu đi kiếm một cái hộp độn đầy rơm, một ít sữa, và tự nó đem về thêm một hộp bánh bích quy, loại bánh cho chó ăn, to tướng và cứng như đá. Một chiếc bánh nằm lờ đờ chờ cho tan suốt cả buổi chiều trong đĩa sữa. Trong khi đó Tom mở khóa lấy ở một ngăn kéo bàn giấy ra một chai whisky.
Cả đời, tôi chỉ bị say có hai lần, lần thứ hai là vào chiều hôm ấy. Vì thế mọi chuyện diễn ra ở đấy, tôi thấy lờ mờ như được phủ một làn sương mù, tuy rằng cho đến tận quá tám giờ tối gian phòng vẫn còn chói chang ánh nắng. Ngồi trên lòng Tom, bà Wilson gọi điện thoại cho nhiều người. Sau đó hết thuốc lá, tôi xuống nhà đi mua tại hiệu thuốc ở góc phố. Khi tôi trở lại, họ đã biến đi đâu cả đôi. Tôi kín đáo ngồi ở phòng khách, đọc một chương trong cuốn “Simon gọi Peter”. Không biết văn chương trong cuốn sách này viết lộn xộn thế nào hay rượu whisky làm méo mó hết mọi sự, mà tôi đọc chẳng hiểu một chữ nào hết.
Đúng lúc Tom và Myrtle trở lại (sau cốc rượu đầu, bà vợ Wilson và tôi thân mật
gọi nhau bằng tên riêng) thì khách khứa vừa vặn kéo đến ngoài cửa.
Cô em, Catherine, là một cô gái khoảng ba mươi tuổi, người dong dỏng, vẻ dạn dĩ, mái tóc hung cắt ngắn cuộn lại thành búp dày và chắc, da đánh phấn màu trắng ngà. Lông mày được tỉa đi rồi kẻ lại thành một đường gọn hơn, nhưng cố gắng của tự nhiên để khôi phục lại đường vạch cũ đem lại một vẻ chao mờ trên nét mặt cô. Mỗi bước cô ta đi là vang lên không ngớt những tiếng kêu lách cách của không biết bao nhiêu vòng tay bằng đất nung xô đi xô lại trên cánh tay cô. Catherine đi đứng với vẻ vội vã tự nhiên của người chủ nhà và nhìn các đồ đạc trong phòng với con mắt bà chủ, khiến tôi không biết có phải cô sống ở đây hay không. Nhưng khi tôi hỏi thì cô cười khanh khách măi, nhắc lại to câu hỏi của tôi và trả lời là cô sống với một người bạn gái ở khách sạn.
Ông McKee ở phòng dưới là một người ẻo lả, nước da tai tái. Ông ta vừa mới cạo mặt xong vì trên mặt còn sót lại một vệt bọt xà phòng trắng. Ông chào từng người trong phòng một cách rất cung kính. Ông cho tôi biết ông làm “công tác nghệ thuật”, sau đó tôi hiểu ra ông làm nghề thợ ảnh và là tác giả của bức ảnh mờ mờ ảo ảo chụp bà mẹ Myrtle Wilson đang tồn tại như một cái bóng phảng phất trên tường. Vợ ông là một người đàn bà the thé, uể oải, đỏm dáng và kinh tởm. Bà ta kiêu hãnh kể với tôi chồng bà đã chụp ảnh bà một trăm hai mươi bảy lần kể từ ngày lấy nhau.
Myrtle Wilson đã thay quần áo. Bây giờ bà ta mặc một kiểu áo rất cầu kì may bằng một thứ sa màu kem kêu sột soạt mỗi khi bà ta lướt thướt chiếc áo đi lại trong phòng. Chịu ảnh hưởng của chiếc áo, cá tính Myrtle cũng đã thay đổi. Sức sống hừng hực lồ lộ lúc ở hiệu sửa chữa ôtô đã chuyển thành một vẻ kênh kiệu rõ rệt. Giọng cười, cử chỉ, lời ăn tiếng nói của Myrtle mỗi lúc một vênh váo hơn và con người bà ta càng nở to ra thì gian phòng càng co nhỏ lại xung quanh bà ta cho đến khi dường như bà ta quay xung quanh một cái trục kêu kẽo kẹt om sòm trong bầu không khí mù mịt khói.
Myrtle Wilson kể với cô em gái, giọng the thé, kiểu cách:
– Cô này, bọn chúng nó hầu như đứa nào cũng chỉ muốn lừa bịp mình. Chúng nó chỉ nghĩ đến tiền. Tuần trước, tôi có nhờ một con mẹ đến đây xem cái chân của tôi, khi nó đưa giấy tính tiền, tưởng đâu nó đã cắt ruột thừa cho tôi không bằng.
Bà McKee hỏi:
– Con mẹ ấy tên là gì?
– Tên nó là Eberhardt. Nó đi các nhà khám chân cho mọi người.
– Tôi thích cái áo của chị lắm, – bà McKee nhận xét. – Trông nó đẹp ghê.
Myrtle Wilson khinh khỉnh rướn hai hàng lông mày, bác bỏ lời khen:
– Cũ rích rồi. Chỉ khi nào không thiết để ý đến xống áo, tôi mới mặc đến nó.
– Nhưng chị mặc trông có dáng lắm, tôi nói thực đấy. Chester mà vớ được chị
trong chiếc áo này, tôi chắc anh ấy sẽ sáng tác được một cái gì đó ra trò.
Tất cả chúng tôi yên lặng nhìn bà Wilson. Bà ta vén một món tóc rủ xuống mắt, ngoái cổ lại đằng sau nhìn chúng tôi với một nụ cười rực rỡ. Ông McKee ngoẹo đầu sang một bên chằm chằm nhìn bà ta rồi chầm chậm đưa đi đưa lại bàn tay trước mặt mình một lúc:
– Tôi phải đổi ánh sáng. Tôi muốn làm nổi hình khối của nét mặt và sẽ cố ghi lại tất cả mái tóc phía sau.
McKee vợ vội kêu lên:
– Ấy chớ! Đừng đụng đến ánh sáng. Tôi thấy…
McKee chồng “suỵt” một cái và tất cả chúng tôi lại nhìn vào nhân vật. Vừa vặn lúc đó, Tom ngáp to thành tiếng, đứng dậy bảo:
– Ông bà McKee uống một chút gì chứ? Myrtle, em cho đem thêm đá lên, cả nước suối nữa, kẻo mọi người díp mắt cả bây giờ.
– Em đã bảo thằng nhỏ đi lấy đá rồi đấy, – Myrtle lại rướn hai hàng lông mày, tỏ ra bực tức với thói lười nhác của hạng người hèn hạ, – Bọn này cứ phải ốp chúng suốt mới được việc.
Bà ta nhìn tôi và cười vô cớ. Rồi bà ta sà xuống ôm con chó, say sưa hôn hít nó, đoạn lượt thượt kéo lê chiếc áo vào gian bếp như thể trong đó có một chục đầu bếp đang đứng chờ lệnh.
Ông McKee khoe:
– Tôi đã đem về được vài bức kha khá ở Long Island đấy.
– Có hai bức chúng tôi đã đóng khung ở dưới nhà.
– Hai bức gì? – Tom hỏi.
– À, hai bức ảnh khảo cứu ấy mà. Một bức tôi đặt tên là “Mũi Montauk – Chim hải âu”. Bức kia tôi đặt tên là “Mũi Montauk – Biển”.
Cô Catherine ngồi xuống cạnh tôi trên chiếc đi-văng, hỏi chuyện:
– Ông cũng ở Long Island à?
– Tôi ở West Egg.
– West Egg à? Tôi đã đến đấy dự dạ hội cách đây một tháng. Tại nhà một người tên là Gatsby. Ông có biết ông ấy không?
– Tôi ở ngay cạnh nhà ông ấy.
– Này ông, nghe đâu người ta bảo rằng ông ấy là cháu hay anh em họ gì đó của Hoàng đế Áo Wilhelm. Tiền của ông ta ở đó mà ra cả.
– Thực à?
Cô ta gật đầu:
– Tôi đâm sợ ông ấy. Chẳng dám để ông ấy dính dáng gì đến mình.
Những lời mách bảo lí thú này về người láng giềng của tôi bị gián đoạn vì McKee
vợ bất thần chỉ tay vào Catherine.
– Chester ơi, tôi thấy mình có thể sáng tác được một cái gì đó với cô ấy. – Bà ta the thé, nhưng McKee chồng chỉ gật đầu cho qua chuyện rồi lại quay sang Tom:
– Tôi mong được ai giới thiệu để có dịp sáng tác thêm nữa ở Long Island. Chỉ cần có ai giúp tôi buổi đầu thôi.
– Nhờ Myrtle ấy, – Tom cười phì một tiếng khi bà vợ Wilson bê khay vào. – Cô ấy sẽ viết cho ông một cái thư giới thiệu, phải không Myrtle?
– Cái gì? – Bà ta ngơ ngác.
– Em viết thư giới thiệu McKee với ông chồng em để ông ta chụp vài bức ảnh khảo cứu về chồng em. – Môi Tom mấy máy trong khi anh tìm chữ. – “George Wilson tại trạm bơm xăng” hay một cái gì đại loại như thế.
Catherine ngả người sát tôi, thì thầm vào tai tôi:
– Cả hai người đều không chịu nổi kẻ mà họ đã lấy làm vợ làm chồng.
– Thật không?
– Không chịu đựng được nhau mà, – cô nhìn Myrtle rồi nhìn sang Tom. – Tôi thì tôi cho rằng việc gì phải sống với nhau khi đã không chịu đựng được nhau? Ở vào địa vị họ thì tôi xin li dị quách cho xong, rồi hai bên lấy nhau.
– Thế bà chị cô cũng không ưa chồng à?
Câu trả lời thật bất ngờ. Nghe lỏm được câu hỏi, Myrtle đáp lại bằng những lời thô bạo và tục tĩu.
– Ông thấy chưa, – Catherine đắc thắng reo lên. Sau cô lại hạ giọng. – Thực ra, chính bà vợ đằng anh ấy làm cách trở hai bên. Bà ấy theo đạo Thiên chúa mà người Thiên chúa giáo thì không được phép li dị.
Daisy không phải là người Thiên chúa giáo. Tôi hơi khó chịu trước lối bịa đặt dựng đứng ấy. Catherine nói tiếp:
– Khi nào hai người lấy được nhau, họ sẽ về sống ở miền Tây cho đến khi chuyện này qua đi.
– Sang châu Âu thì kín đáo hơn.
– Ôi chao ông thích châu Âu hả, – cô ta reo lên kinh ngạc. – Tôi vừa mới ở Monte Carlo về.
– Thế à.
– Vừa mới về năm ngoái. Tôi đi cùng với một cô bạn sang đó.
– Cô ở đấy có lâu không?
– Không, chỉ đến Monte Carlo rồi về ngay. Bọn tôi đi qua đường Marseille. Khi đi, chúng tôi đem theo hơn một nghìn hai trăm đôla, nhưng chúng tôi bị moi hết sạch tại các phòng riêng. Phải nói với ông là chúng tôi bị một mẻ lao đao mới về được. Lạy Chúa, sao mà tôi ghét cái thành phố ấy đến thế.
Bầu trời lúc ráng chiều hoe lên giây lát qua khung cửa sổ như màu mật ong
biêng biếc xanh của Địa Trung Hải, rồi giọng nói của McKee vợ kéo tôi trở lại gian phòng.
– Suýt nữa thì tôi cũng phạm sai lầm, – giọng bà ta sôi nổi. – Tẹo tèo teo nữa thì tôi phải lấy một đứa không ra gì, hắn cứ theo đuổi tôi suốt bao nhiêu năm trời. Tôi biết hắn là kẻ hèn kém so với tôi. Mọi người không ngớt lời bảo tôi: “Lucille, gã ấy không xứng với cô đâu”. Nhưng nếu tôi không gặp Chester thì thế nào hắn cũng chiếm được tôi.
– Đúng rồi, nhưng tôi bảo này, – Myrtle Wilson gật gù. – Ít ra chị đã không lấy hắn.
– Thì đã hẳn.
– Còn tôi, tôi đã lấy hắn, – Myrtle nói, giọng mập mờ. – Và đó là chỗ khác nhau giữa trường hợp tôi và trường hợp chị.
Catherine hỏi:
– Chị Myrtle, vì cớ gì mà chị lấy? Có ai bắt chị lấy đâu?
– Tôi lấy hắn vì tưởng hắn là người lịch sự. Tôi tưởng hắn cũng thuộc loại con nhà này nọ, chứ biết đâu hắn liếm gót giày tôi không đáng.
– Chả có một thời chị yêu hắn như điên là gì. – Catherine nói.
– Yêu hắn như điên! – Myrtle kêu lên, vẻ không tin. – Ai bảo là tôi yêu hắn như điên. Đối với hắn, tôi chẳng bao giờ yêu hơn yêu… cái người này.
Bà ta bỗng nhiên trỏ vào tôi và mọi người nhìn tôi với con mắt chê trách. Tôi cố thể hiện qua nét mặt là tôi không mong chờ một tình cảm nào cả ở bà ta.
– Điên gì? Tôi chỉ có điên lúc tôi lấy hắn thôi. Lấy xong tôi biết ngay là mình nhầm. Hắn đã mượn ở đâu một bộ đồ kẻng để mặc hôm cưới, thế mà hắn chẳng bảo tôi lấy một câu. Người chủ bộ đồ đến đòi đúng vào hôm hắn vắng nhà. Tôi nói: “Ô, thế bộ quần áo là của ông sao? Tôi chưa được nghe nói bao giờ cả”. Nhưng tôi trả nó cho ông ta rồi lăn ra giường khóc hết nước mắt suốt buổi chiều.
Catherine lại quay sang nói với tôi:
– Đúng là chị ấy phải chia tay với hắn thôi. Họ đã sống trên nóc cái gara ấy suốt mười một năm trời, và anh Tom là người tình đầu tiên của chị ấy từ trước đến nay.
Chai whisky – chai thứ hai – bây giờ liên tục chuyển từ tay người nọ sang tay người kia, chỉ trừ có Catherine. Cô này bảo rằng “chẳng cần gì cũng vui rồi”. Tom bấm chuông gọi người gác cổng lên sai đi mua bánh mì kẹp thịt, loại bánh được quảng cáo rất nhiều, tự nó cũng đủ thay cho một bữa ăn đầy đủ. Tôi muốn bỏ ra về để có thể dạo bước về mạn công viên ở phía đông trong ánh hoàng hôn êm dịu, nhưng mỗi lần tôi định đi thì lại bị mắc vào một vấn đề tranh cãi gay
gắt, nó như những sợi dây kéo giật tôi trở lại chiếc ghế đang ngồi. Tuy nhiên, dãy cửa sổ với ánh đèn vàng của mấy gian buồng chúng tôi ở trên cao hẳn cũng chứa đựng một phần bí mật của nhân loại đối với con mắt của người khách tình cờ đi qua dưới đường phố đang tối dần. Tôi thấy được cả người khách đó đang ngước mắt nhìn lên dò hỏi. Tôi như vừa ở bên trong vừa ở bên ngoài, vừa ngỡ ngàng sung sướng, vừa ngán ngẩm trước vẻ đa dạng không cùng của cuộc sống.
Myrtle kéo ghế lại sát cạnh tôi và đột nhiên hơi thở nóng hổi của bà ta phả sang tôi câu chuyện về cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa bà ta với Tom.
– Trên tàu, những chỗ trống cuối cùng bao giờ cũng là hai chỗ ngồi đối diện nhau. Hôm ấy tôi đi New York thăm em gái tôi, định ngủ lại đêm với nó. Anh ấy mặc com-lê, đi giày da bóng. Tôi không bứt nổi con mắt khỏi anh ấy, nhưng mỗi lần anh ấy nhìn tôi thì tôi lại giả vờ nhìn tờ quảng cáo ở phía trên đầu anh ấy. Khi xuống ga, anh ấy đi cạnh tôi, ngực áo sơ mi trắng của anh ấy ép sát vào cánh tay tôi. Thấy thế tôi doạ gọi cảnh sát nhưng anh ấy biết là tôi không dám. Tôi bối rối đến nỗi khi bước lên taxi cùng với anh ấy, tôi hầu như không nhận ra là không phải mình lên xe điện ngầm. Lúc nào tôi cũng chỉ nghĩ: ”Đời người là mấy, đời người là mấy”.
Myrtle quay sang bà McKee và gian phòng vang đầy tiếng cười giả tạo của bà ta.
– Chị McKee thân mến, tôi sẽ biếu chị chiếc áo này khi tôi không dùng đến nó nữa. Ngày mai, tôi phải mua một chiếc khác. Tôi phải kê thành một bản những thứ cần phải mua. Một máy xoa bóp này, một máy uốn tóc này, một cái vòng cổ cho con chó, một đĩa gạt tàn nho nhỏ xinh xinh có nút bấm bật lò xo và một vòng hoa có dải băng đen để đặt lên mộ mẹ tôi suốt mùa hè. Tôi phải kê ra thành một bảng để khỏi quên tất cả những gì cần mua.
Đã chín giờ tối – hầu như ngay sau đó tôi xem đồng hồ và thấy đã mười giờ rồi. Ông McKee đã ngủ thiếp trong một chiếc ghế bành, hai bàn tay nắm chặt đặt trên bụng y như bức ảnh chụp một con người năng động. Tôi rút mùi soa lau vết bọt xà phòng trên má ông, nó đã làm tôi bứt rứt suốt cả buổi chiều.
Con chó nhỏ ngồi trên mặt bàn, đôi mắt nhắm tịt nhìn qua làn khói, thỉnh thoảng rên rỉ yếu ớt. Những bóng người biến đi rồi lại hiện ra, bàn bạc với nhau đi đâu đó rồi lạc mất nhau, tìm kiếm nhau và gặp lại nhau cách đó vài ba bước. Khoảng gần nửa đêm, Tom Buchanan và bà Wilson đứng đối diện với nhau, tranh cãi gay gắt xem bà Wilson có quyền gọi tên Daisy không.
– Daisy! Daisy! Daisy! – Myrtle Wilson hét lên – Tôi mà đã muốn nói thì tôi cứ nói! Daisy! Dai…
Bằng một động tác gọn và chính xác, Tom Buchanan xoè tay đánh chảy máu mũi
người tình của mình.
Sau đó là những chiếc khăn mặt thấm mấu vứt trên sàn buồng tắm, những tiếng phụ nữ rầy la, và vượt lên trên những âm thanh hỗn độn là một tiếng kêu rên đau đớn dài, đứt quãng. Ông McKee đang ngủ gà ngủ gật giật mình tỉnh dậy, quáng mắt bước về phía cửa. Đi được nửa chừng, ông ngoái cổ lại nhìn cảnh tượng: vợ ông và Catherine, tay cầm đồ cứu thương, hết va chỗ này lại vấp chỗ kia giữa những đồ đạc ngổn ngang, miệng vừa rầy la vừa an ủi, và hình người tuyệt vọng nằm trên đi văng, máu chảy ròng ròng, đang cố rải một tờ báo “Chuyện đô thành” lên những cảnh vườn Versailles trên tấm thảm. Với lấy chiếc mũ móc trên đế đèn treo, tôi bước theo ông ta.
Trong buồng thang máy đang cọt kẹt hạ xuống, ông ta bảo tôi:
– Hôm nào mời ông đến ăn trưa.
– Đến đâu?
– Đâu cũng được.
– Nhấc tay ra khỏi cần máy, ông kia. – Người coi thang máy quát.
– Xin lỗi, – ông McKee đàng hoàng đáp lại. – Tôi không để ý là tay tôi sờ phải nó.
– Được thôi, – tôi nhận lời. – Tôi sẵn lòng.
…Tôi đứng cạnh giường ông ta, còn ông ta thì đang ngồi giữa đống khăn trải giường, người mặc quần áo lót, tay cầm một cái cặp giấy to tướng.
– “Người đẹp và Con thú”… “Cô đơn”… “Con ngựa kéo già”… “Cầu Brooklyn”… Sau đó tôi nằm thiu thiu ngủ ở tầng dưới lạnh giá của nhà ga Pennsylvania, nhìn chằm chằm vào tờ Tribune buổi sáng, chờ chuyến tàu bốn giờ.
Chú thích:
(1) Nhà đại tư bản Mỹ, vua dầu lửa.