Về đến phủ Luân hồi, Ty chủ xem xét hồ sơ ký lục về cô ta, rồi nói cô này là kẻ chết oan, không thể đầu thai chuyển kiếp, chỉ có thể ngụ nơi Uổng Tử Thành. Cô ta thình lình khóc nấc lên, đột nhiên tôi cũng mềm lòng, bèn hỏi Ty chủ tôi có thể nhường cô ấy đi đầu thai không? Ty chủ nổi cơn giận dữ, mắng tôi một trận, la hét đến nỗi cả người tôi run lên, cô ta cũng khiếp sợ không dám khóc nữa. Tôi chán chường ủ rũ đưa cô ấy đến Uổng Tử Thành báo danh, suốt trên đường một câu tôi cũng không buồn nói. Đến Uổng Tử Thành rồi, tôi để cô ta đi vào, cô ấy gật đầu, tiến bước vào thành. Tôi đưa mắt trông theo cô ấy đi xa dần, lúc này, cô hồi đầu lại nhìn tôi, còn cất lên một câu: “Cám ơn anh”. Hình bóng cô nàng dần dần mất hẳn tại cửa thành, chỉ còn tôi đứng tại nơi ấy mà ngẩn ngơ khờ dại.
Thời gian từng ngày một trôi qua, tôi cảm thấy quái lạ là tôi vẫn còn nhớ đến cô ta. Thế là thỉnh thoảng tôi lại tìm dịp chạy đến Uổng Tử Thành, lén lút nhìn trộm cô nàng. Tôi phát hiện ra rằng cô ấy thường hay vội vội vàng vàng chạy đến Vọng Hương Đài từ rất sớm, tại nơi ấy ngồi đó trọn cả ngày, sau cùng khóc lóc rồi bỏ đi. Chẳng biết vì sao, mỗi lần nhìn thấy nàng ta khóc, tôi cũng muốn khóc…
Ngày xuân lặng lẽ qua đi, hoa dương tàn rụng đã hóa làm tuyết trắng bay khắp trời. Lúc chim én quay về, chân trời bầu bạn cùng ánh ráng chiều rực rỡ, kẻ rời xa thì đã tan biến nơi tròng mắt trong như nước, nghỉ mới đến mà từ lâu đã khắc dấu nơi tim. Giữa lúc sơ ý, có một nỗi tâm tình ngấm ngầm khuấy động mà lại giống như trước đó cứ quanh quẩn trong lòng, ấy là chưa từng theo chim én trời Nam quay trở lại.
Tiết Thanh Minh năm đó, tôi tìm thấy phần mộ của cô nàng. Đằng trước một nắm đất vàng, rượu nhạt một chung, trái cây ba thứ, hai người khóc nức nở, một người lớn và một trẻ em. Tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn hai người ấy, một nỗi thương tâm và mất mát trước giờ chưa từng có đang vương vấn mãi trong lòng. Tôi ở lại nơi ấy rất lâu, suốt đến đêm khuya. Uống xong cốc rượu trần gian, rượu xấu đắng chát, trong lòng lại không cảm nhận ra mùi vị là gì. Có một lần, tôi vô ý hỏi đại ca Bạch Vô Thường, người chết oan làm thế nào mới có thể được đầu thai. Anh ta nói cần có nhân quả. Tôi hỏi nhân quả là cái gì. Anh nói rằng nhân quả thật ra cũng chỉ là cái giá phải trả, nếu như có người đem cơ hội đầu thai nhường cho một người không có cơ hội, như thế thì người ấy có thể được đầu thai. Anh còn nói, cơ hội đó đến thằng ngốc cũng không vui lòng nhường lại cho kẻ khác.
Tháng ngày lại trôi qua lâu lắm, Ty chủ Luân hồi cho gọi tôi đến, nói rằng tôi đã đủ năm trăm năm tu luyện, rồi hỏi tôi có chọn lựa gì chăng. Tôi nói tôi ước mong được đi đầu thai, Ngài hỏi tôi muốn đi nơi nào, tôi nói tôi vui lòng nhường cho cô ta đi đầu thai. Ty chủ giương to mắt mà nhìn tôi, Bạch Vô Thường càng sửng sốt đến buông lưỡi xuống tận mặt đất. Ty chủ cho tôi biết, nếu như tôi từ bỏ năm trăm năm đạo hạnh, sẽ phải trở lại làm một tên quỷ tốt như trước. Tôi nói: “Con vui lòng như thế.” Nói xong, tôi lẳng lặng rời bước. Khi ấy trong lòng tôi rất bình thản, tựa hồ như đều chẳng có việc gì xảy ra…
Tôi lại trở thành một tên quỷ tốt, vẫn là phụ trách việc tuần tra, mỗi ngày tôi đều đến đầu cầu Nại Hà, đi trông ngóng. Tôi tin rằng, một ngày nào đó, tôi lại có thể nhìn thấy cô ta…
Ngày tháng lại trôi qua, ngày này sang ngày khác. Tôi tại bên cầu canh giữ, một ngày lại một ngày. Những ngày ấy đã nhiều đến nỗi tôi không còn đếm được nữa.
Ty chủ Luân hồi lại cho gọi tôi đến, bảo rằng tôi đã canh giữ nơi địa ngục thêm năm trăm năm rồi, có thể chọn lựa con đường cho chính mình từ giờ trở đi. Nghe Ty chủ nói xong, mà tôi ngỡ ngàng, lại là năm trăm năm rồi! Trong năm trăm năm này, ngày ngày tôi đều canh giữ tại bên cầu, nhưng làm sao mà suốt thời gian ấy tôi chẳng hề trông thấy cô ta quay lại chứ… Ty chủ nhìn thấy tôi với bộ dạng thần trí chẳng yên, bèn thở dài ngao ngán. Trong cơn bối rối bàng hoàng, tôi lại bước đến bên cầu Nại Hà. Tại bên cầu này, tôi đã chờ đợi năm trăm năm. Năm trăm năm biển thắm hóa nương dâu, đến đất đá trơ trơ cũng rêu xanh phủ kín. Tôi lại không chờ được đến lúc cô ta quay lại… Sau đó, Bạch Vô Thường cho tôi biết, nếu mà ai chuyển kiếp đầu thai, Trời mới biết kẻ đó sẽ biến thành hình dạng thế nào, là nữ hay là nam.
Ngay lúc ấy, tôi đột nhiên phát hiện sao mình ngu quá, ngốc quá. Vì sao mà có sự an bài như thế. Mắt tôi vào khoảnh khắc đó mờ nhòe lệ thắm… Trong tối tăm thăm thẳm, một hồn quỷ khóc lóc thảm thê.
Lần này thì tôi chẳng biết tôi phải mong chờ gì nữa… Chuyện quá khứ tất cả đã qua rồi, như ngấn lệ trong cơn mộng đêm qua, sáng nay đã không cách chi tìm kiếm. Tâm tư vào mộng vô cùng tận, mơ hồ xa vọng vang vang như trống vỗ, động rung thế giới nứt tan. Tỉnh mộng rồi lại chỉ còn sót những mảnh tàn vụn không làm sao chắp nối, như văn tự thời xưa cổ, chẳng biết đâu mà nói. Thế nhưng những tiếng thầm thì ấy phảng phất nơi ký ức ai đâu, lại giống như ánh chớp bừng sáng, bức xé đêm không vô tận biển tâm đầu. Không biết mộng mơ đến cái gì, cũng chẳng mong muốn đuổi theo mây trôi trong giấc mộng. Tôi biết rằng, chẳng phải đau lòng, tự nhiên sẽ không rơi lệ. Lã lướt tơ đàn, nhẹ cất tiếng ca; mà đừng hát khúc sầu thương, chuyện buồn đau trong cõi hồng trần, đã quá nhiều. Tiện tay cầm bút, lấp đầy câu chữ; khó mà viết mãi chuyện cười, niềm hoan lạc nơi đời nhân thế, ai người biết? Và tôi giống như hoa dại trong sương gió, chẳng hay sẽ vì ai mà bừng nở; tựa như cỏ hoang cô độc chốn đồng không, chả biết sẽ vì ai mà xanh lá.
Tôi lại lần nữa buông trôi nguyện ước được đầu thai, tôi sợ lại nhìn thấy trần gian sâu thẳm đó cuốn hút tôi… lo sợ lại nhìn thấy nụ cười xinh xắn khiến tôi chẳng thể nào quên… Ty chủ Luân hồi thở dài bảo rằng Quỷ mà vướng víu tội nghiệt trần ai giống tôi như thế thì làm sao thành thần tiên được. Tôi lại như cũ mà ngồi bên cầu Nại Hà, làm một tên quỷ tốt, để đợi để chờ một người e rằng không còn tồn tại nữa.
Lại lần nữa ngồi ở đầu cầu, tôi nhìn theo các hồn quỷ lướt ngang qua, trên mặt họ dường như đều viết lên một câu chuyện, bên trong tròng mắt trống rỗng của họ, hình như đang kể lể về một thời điểm từng trải nào đó trong dĩ vãng. Nhìn thấy sự mê man bối rối của họ, tôi mừng cho mình vẫn còn tri giác, rồi tôi dần dần hiểu được, thế gian đã gây cho mọi người biết bao là thắc mắc, mà câu trả lời cần phải tìm kiếm nơi đâu chứ? Địa ngục chăng? Tôi không nghĩ vậy, bởi vì trong lòng tôi, cũng có quá nhiều quá nhiều nghi vấn.
Lại lần nữa tôi quay về những tháng ngày không hoan lạc, không hy vọng, không ưu sầu, tháng ngày của một hồn quỷ. Thuận tay lướt gảy tơ đàn, một bản trường ca tùy hứng, ai mà lường trước tiếng đàn chất chứa oán hờn, đỗ quyên máu lệ, người mong quay về. Tuổi trẻ đâu đã nhận biết mùi vị buồn rầu, phổ làm chi lời ca mới sầu quá đỗi… Ai biết được trong tơ đàn hỗn loạn còn hai chữ tâm sâu nặng, trọn đời sầu thương! Dây tơ theo tiếng lòng rung, giận thay ngón đàn khó như ý, chỉ làm được nửa bài mà lời ca chẳng trọn, một khúc đàn buồn.
Ngàn năm chìm nổi, trong bể óc chỉ góp nhặt vô số điều vụn vặt không tròn. Nhìn lại xưa kia, vật còn đó mà người đã khác rõ ràng thay. Tràn trề hy vọng chắp nối được bao điều vụn vặt trong ký ức, ai hay rằng lại biến thành một chiếc thuyền hoang không chở người mà tự sang ngang.
Thời gian tiếp nối từng ngày một qua đi, tôi ngày này sang ngày khác đi lại bên cầu, cho dù tôi đã không còn mong chờ nữa, nhưng tôi mỗi lần lúc đi ngang đều chẳng thể cầm lòng mà vọng nhìn sang, xem xem từ bên cầu ấy phải chăng có bóng hình tôi không thể quên được. Mỗi lần như thế, tôi đều thầm cảm thấy mình ngu quá, trong bụng tự mắng mình mấy câu. Thế nhưng, chỉ cần đi qua đây, tôi đều làm chuyện ngu đần ấy. Thậm chí tôi còn điên khùng tới mức chạy ra Uổng Tử Thành, muốn nhìn xem là phải chăng còn có hồn quỷ nào đó đang trên Vọng Hương Đài khóc lóc. Trong những ngày sau đó, tôi bắt đầu có chút hối hận, hối hận vì sao vào lúc cô ấy rời khỏi mà chẳng đến nói với cô một câu cuối cùng; hối hận vì sao vào lúc cô ấy ra đi phải lén lút dấu mặt mà không nhìn cô lần cuối; hối hận vì sao vào lúc cô ấy ly khai…
May thay thế gian còn ký ức, ghi nhớ được những sắc mầu đẹp tươi trên thế giới; thương cho thế gian còn ký ức, ghi nhớ được những mầu tối đen xám nơi thế giới. Phép thuật thời gian đem những mầu sắc và mầu đen trắng chồng chất vào nhau, xé nát nó đi, vẫy tung nó đi… lưu lại khắp trời giấy vụn bay lả tả. Hãy để tôi đuổi theo, để tôi chắp ráp lại… để quên đi tất cả, để không được lãng quên gì cả, để quên hết tất cả những gì chưa quên được.
Trong mưa xuân đóa hoa hé nở, rồi theo gió thu tơi tả rơi bay, cánh hoa nhẹ múa, để sau cùng dưới ánh nắng đẹp tươi mà hát lên bản tình ca lưu luyến chẳng lìa xa. Những cánh hoa chẳng tự nguyện chia lìa kia ơi, chỉ như tim tôi mà tan tác hóa thành bùn. Chúa thiên nhiên ơi, Người cho gió xuân dìu dịu đánh thức phách hồn hoa, vì sao lại để mưa thu vô tình vùi chôn đời hoa chứ? Lẽ nào tất cả những gì trên thế gian đều phải có đầu có cuối…
Buổi chia tay bao giờ cũng quá vội vàng, vẫy lại vẫy tay, bên trời áng mây như cũ. Khách đi qua vội vã, giữa lúc vô ý bỗng nhiên quay đầu mới biết mới hay. Mà lúc này sớm đã vào khúc cuối người tan, tiếng vỗ tay màn hạ ngân vọng bên tai, trên sân khấu lại chỉ còn một mình cô độc với mùa thu lặng lẽ.
Buổi chia tay bao giờ cũng quá vội vàng, vẫy lại vẫy tay, trông tựa muốn đi mà vẫn còn ở lại. Trong tiếng gió thu người cất bước đi xa, nếp gấp tà áo váy đã từng phơ phất ở bên mình, quanh quẩn bên tai những lời êm ái dịu dàng của chiếc dây diều ấy, để mặc cánh diều bay mỗi lúc một xa. Sợi dây sớm đã đứt đoạn, chiếc diều từ lâu không biết đã nơi đâu. Tôi lại chưa biết tất cả đã hết rồi, cứ như cũ mà nắm chặt sợi dây đứt đoạn đó, cứ đợi cứ chờ quay lại, quay về.
Buổi chia tay bao giờ cũng quá vội vàng, vẫy lại vẫy tay, vẫn mơ hồ nhớ được hơi em thở, vẫn thường xuyên hoài niệm tóc em dài, vẫn tình cờ tìm kiếm bóng hình em… Chờ đến lúc gió thu lại đến, tôi chẳng biết tất cả những điều này phải chăng cũng sẽ giống như hoa tàn bị mưa vùi dập bị gió cuốn đi, điêu tàn, mai một, không còn lại chút gì vết tích.
Khó gặp nhau, dễ chia lìa, tựa như hoa tuyết trên lầu ngọc…
Rất lâu sau đó, rất lâu, lâu lắm…
Hôm ấy, tôi trông thấy Địa Tạng Vương Bồ Tát. Địa Tạng Vương Bồ Tát là vị thần tối cao nơi Địa ngục, cũng là đấng thiện lương ôn hòa nhất. Ngài dùng huệ nhãn nhìn một cái là thấu hiểu sự hoang mang, do dự, âu sầu chất chứa cả ngàn năm trong lòng tôi; ngài rất kinh ngạc về tôi, một hồn quỷ mà sao cũng có tâm sự như thế. Ngài thở dài bảo: “Chúng sinh nơi bể khổ, quay đầu lại là đến bờ”. Nhưng tôi trước giờ có nghe mà không hiểu lời ngài. Tôi bèn đem hết tất cả những chất chứa trong lòng mình kể ra cho Bồ tát nghe. Bồ tát hỏi tôi: “Cái gì là duyên.” Tôi trả lời không được. Bồ tát lại hỏi: “Cái gì là tình.” Tôi hoàn toàn không biết. Cuối cùng Bồ tát hỏi tôi: “Ngươi có nguyện vọng gì không?”
Tôi cũng không thể kiềm chế mình được nữa, khóc nức nở nước mắt tràn lan cầu xin Bồ tát cho tôi một lần làm người, cầu xin Bồ tát cho tôi và cô ấy được kết một đoạn trần duyên. Bồ tát chấp thuận, đồng ý dùng một ngàn năm tu tập của tôi đổi lấy một lần luân hồi làm người cùng kiếp với cô ta. Cuối cùng, Bồ tát bảo tôi rằng: “Vạn sự tùy duyên, đừng cố chấp.” Tôi như hiểu như không bèn gật đầu.
Hôm ấy, sau cùng tôi đã chuyển kiếp để làm người.
Nhà tôi là gia tộc giàu sang quyền thế trong vùng, tôi vừa được sinh ra đã là cậu ấm.
Dần dần, tôi lớn lên, yêu thích một cô gái hàng xóm. Gia đình cô là người làm thuê cho gia đình tôi. Từ bé cô ấy đã giúp việc trong nhà tôi, thời thơ ấu chúng tôi cùng nhau nô đùa, nhưng lớn lên rồi lại dần dần xa cách. Nhưng tôi phát hiện, tôi càng ngày càng yêu thích cô ta. Hơn nữa, tôi nghĩ, cô ta cũng phải ưa thích tôi chứ!
Năm cô mười tám tuổi, cha mẹ tôi chịu hết nổi lời thỉnh cầu của tôi, mới quay sang gia đình cô ta đề nghị kết thông gia, gia đình cô đương nhiên bằng lòng.
Hôm ấy tại nhà cô, gặp cô ngoài cửa, lòng tôi ngập tràn vui sướng và muốn nói cùng cô đôi lời, ai ngờ, tôi nhìn thấy trong đôi mắt cô lại để lộ ra sự căm ghét vô cùng. Tim tôi bỗng nhiên đông cứng lại, tôi ôm tâm trạng bất an mà quay về nhà, âm ỷ cảm giác sắp xảy ra chuyện gì đó. Quả nhiên, vào hôm làm lễ đón dâu, cô ấy cùng một chàng trai láng giềng bỏ nhà trốn mất. Cha tôi nổi trận lôi đình, sai cả bọn gia đinh đuổi theo, tôi cũng ruột gan rối bời mà chạy theo.
Chẳng lâu sau đã đuổi kịp hai người ấy, tôi kinh ngạc, bàng hoàng, sợ sệt, không biết phải nói gì, chỉ có ngớ ngẩn ngó nhìn cô, cứ nhìn cô. Cô ta cũng nhìn tôi, trong đôi tròng mắt trong suốt ấy xoay vòng nỗi hận thù chực đem tôi ra mà cắn nuốt. Ngay lúc biết bao xúc cảm lẫn lộn, tim tôi một cơn co thắt “cô ấy thù tôi!!” Trước mắt tôi một mầu đen tối… Chờ đến lúc tôi tỉnh lại, mấy người gia đinh cho tôi biết cô ta và chàng trai hàng xóm dọc đường chạy trốn, cuối cùng sánh đôi nhảy xuống sườn núi tự sát rồi… Tôi nghe nói tin này, thế giới tất cả đều không còn tồn tại nữa, thời gian không gian đều nát tan thành tro bụi… Người thương ngày trước chỉ để lại một đường nét xám mờ.
Tinh thể quá khứ trong tay tôi đã biến thành nét vẽ rời rạc trên đất cát, bị dòng triều vũ trụ vỗ nát tan, từng chút từng chút một, rồi hóa làm cơn gió. Gió đi về đâu? Bạn không vui lòng mang tôi đi, nhưng ít ra bạn mang tim tôi đi chứ, xin đừng bỏ tôi lại một mình, ở tận cùng thế giới mà kêu gào, kêu la không dứt. Đêm đen gần sắp đến, cuộc sống cũng mất dần, vì sao đôi lòng hẹn ước bên nhau lại không cách nào tháo gút, vì sao hai chữ tâm sâu nặng lại không cách nào chồng chất lên nhau!?
Chờ đến lúc tôi tỉnh lại lần nữa, tôi phát giác mình đã ở bên cầu Nại Hà, Bạch Vô Thường đứng bên cạnh tôi. Chờ cho tôi hồi phục tinh thần, Bạch Vô Thường cho tôi biết, tôi hôn mê sau đó không lâu, thì than ôi mất mạng rồi… Nghỉ còn cho tôi biết, cô gái tự sát vì tình đó chính là người mà năm xưa tôi khổ đau chờ đợi, hiện giờ đã đến Uổng Tử Thành.
Trong đầu tôi rối loạn, toàn bộ ký ức vỡ nát mà dâng khắp trong tim trong dạ, tôi không biết phải làm sao… Bạch Vô Thường đưa tôi đến chỗ Địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ tát mỉm cười không nói.
Tôi chịu hết nổi bèn hỏi Bồ tát: “Vì sao cô ấy ghét tôi?”
Bồ tát nói, đây là nhân quả. Tôi hỏi, cái gì là nhân quả.
Bồ tát nói: “Có duyên chính là nhân quả. Ngươi từng cho cô ta một lần luân hồi, cô ta nửa đời phục dịch ngươi, đây chính là nhân quả. Ngươi cho cô ta một duyên đầu thai, là bởi vì cô ta do ngươi mà chết oan. Cô ta gây ra cái chết cho ngươi, thì cô ta phải hoàn trả ngươi một duyên đầu thai. Người ta thường nói rằng "Đời trước kiếp sau”, thật ra không có trước sau, đời trước là đây, đời này cũng là đây. Có đến thì có đi, từ đầu đến cuối lại chẳng có gì sanh mà cũng chẳng có gì chết.”
Tôi cảm thấy toàn bộ tất cả những điều này đều là một sự hiểu lầm, vào một thời khắc khác nhau, gặp gỡ một người khác nhau, xảy ra một chuyện khác nhau. Dường như có thể thấy được một kết quả có thể đoán trước, nhưng việc đời nào phải thế đâu, là tôi sai rồi. Đã lỡ rồi thời gian một ngàn năm. Đã mất rồi hai quãng đời người phải nên hạnh phúc. Tôi trong khoảnh khắc ấy lĩnh hội được ý nghĩa luân hồi, sở dĩ mà người ta luân hồi, là vì có vô số sự sai lầm, biết bao điều hối tiếc, quá nhiều sự mong mỏi, biết bao điều mất mát, muốn đến kiếp vị lai để đền bù để lấy lại. Nhưng lại càng luân hồi không bao giờ dứt, rồi khi rơi vào trần thế đình trệ ấy thì người ta lại không thể nào nhớ được những việc đã qua trong kiếp trước để làm sự chỉ dẫn cho hành động trong kiếp này?! Luân hồi là kinh điển Phật môn, để chúng sinh lầm lạc nơi bể khổ hiểu được mà quay đầu thấy bến, nhưng con người cố chấp thì làm sao lại có thể hiểu được tâm ý của Phật, nên cứ chui đầu vào thế gian tạo ra những điều hối tiếc.
Ít nhất, tôi không hối tiếc.
Cuối cùng, tôi hiểu được tâm ý của Bồ tát chỉ điểm tôi, nhưng tôi vẫn không đáp ứng lời Bồ tát, tôi cũng không sẵn lòng để nghiền ngẫm lời của Bồ tát. Bởi vì tôi từng cảm nhận được hạnh phúc, từng cảm nhận được buồn thương, trải qua khoái lạc, trải qua đau lòng. Từng có cơn mộng ngàn năm bất diệt, từng có mối duyên kiếp trước đời này, có tất cả những điều ấy, tôi đã quá đầy đủ rồi.
Sau cùng tôi vẫn buông bỏ sự luân hồi hoặc tu hành kế tiếp, tôi vĩnh viễn vui lòng với sự sinh hoạt trong ảo mộng ngàn năm đã tiếp diễn ấy của tôi, vĩnh viễn làm một tên quỷ tốt cô độc ngồi bên cầu Nại Hà.
Bởi vì, tôi tin rằng một ngày nào đó, tôi có thể gặp lại cô nàng, người ấy vĩnh viễn chẳng đổi thay…