nh Đấu đã trở về ngay tối hôm ấy và chú Chín đi thoát. Bởi vì hôm qua, sau khi thả trâu, tôi luồn vô lùm trâm bầu thì, nhặt được một nhánh trâm bầu tươi để lại trên đệm cỏ. Tôi vui mừng quá. Nhánh trâm bầu đó đã kín đáo báo cho tôi biết hai người đã rời khỏi đây một cách an toàn. Chiều hôm ấy, tôi khoái chí hát nghêu ngao, và tôi cầm cả nhánh trâm bầu về để báo cho Biếc mà cùng mừng với tôi.
Tôi có ngờ đâu, ngay lúc đó một tai họa dang đợi tôi ở nhà. Mọi sự tưởng đã trót lọt, không dè chiều đó, con Len ra chòi xét coi khạp gạo thấy số gạo của chúng tôi hụt đi một cách đáng ngờ. Khi tôi đưa trâu về tới chòi thì con Len đã gọi thằng Hoành ra. Thấy tôi về, thằng Hoành kêu:
- Ê, thằng kia lại tao biểu!
Tôi mới từ lưng trâu thót xuống, tên Hoành đã nhảy tới xách tai tôi:
- Đ. mẹ, tụi bây lấy gạo nấu cơm cho ai ăn?
Tôi liếc nhìn em Biếc và Thắm bấy giờ đứng nép sợ hãi bên chòi. Tôi tin chắc là chưa có em nào khai ra, nên trả lời tên Hoành:
- Tụi tôi có nấu cho ai ăn đâu!
- Tại sao còn ba bốn bữa nữa mới hết tháng mà số gạo đong cho ba đứa bây đã hết trọi rồi hả?
- Gạo mà hụt như vậy là tại tôi, tại tôi ăn bữa nào cũng đói, nên mấy đứa nó nấu rấn thêm...
Tôi đã lựa được một câu trả lời rất có lý. Tên Hoành buông tai tôi ra, nhưng dúi mạnh tôi ngã xuống đất, giọng hầm hè bực tức:
- Đ. mẹ, mày nói tao chưa tin đâu. Được rồi, tao sẽ ra chòm trâm bầu liền bây giờ. Tao mà gặp Chín Khẩn ngoài đó thì tao bắn mày!
Tôi lẳng lặng ngồi dậy, nghĩ bụng: "Cho mày kiếm, kiếm mãn đời mày cũng không có!" Tên Hoành nói xong dắt thêm mấy tên biệt kích đi ngay, mặc dù lúc đó trời đã sụp tốt. Em Biếc rất lo lắng, vì em không biết chú Chín đã rời khỏi lùm trâm bầu chưa. Tôi liền nói cho em biết là chú Chín đã đi rồi, tui nó có đi kiếm cũng mất công thôi. Tôi đưa nhánh trâm bầu cho Biếc coi và nói thêm:
- Nhánh trâm bầu này lá đã héo chắc chắn là anh Đấu đã đưa chú Chín hồi hôm. Tụi nó có rượt theo cũng không kịp, với lại tụi nó có biết hai người đi lối nào mà rượt?
Em Biếc yên tâm mò ra rẫy bới một ít khoai môn về luộc ăn, vì gạo chúng tôi còn lại một ít đều đã bị con Len vét ráo. Con Len nói từ đây đến cuối tháng sẽ bỏ cho chúng tôi nhịn đói. Chúng tôi ngồi thu lu trong chòi ăn những củ khoai môn luộc trộm. Biếc nhường cho tôi tới ba củ trong số năm củ. Chúng tôi ăn khoai xong, lăn ra ổ rơm nằm. Tôi bắt chước anh Đấu lén ra giồng thuốc, hái mấy lá thuốc héo về vấn hút. Dạo này tôi hút thuốc đã biết ngon mới chết chớ. Em Biếc cứ rầy rà tôi về vụ hút thuốc, bảo rằng tôi còn nhỏ mà bày đặt hút làm chi. Tôi chỉ cười mà vẫn hút chớ không chừa được.
Tôi nằm phì phào chưa hết nửa điếu thuốc thì thằng Hoành về. Nghe tiếng chân giầy của bọn chúng, tôi nhổm dậy, dụi tắt thuốc. Lát sau tên Hoành sục vào chòi, kéo áo lôi tôi ra:
- Ê, tao kiếm gặp chỗ Chín Khẩn ngoài lùm trâm bầu rồi!
- Chỗ nào tôi đâu có biết?
- Tại sao ở ngoài đó có chỗ cỏ bị rạp xuống hả? Phải thằng Đấu đem dấu Chín Khẩn nơi đó rồi kêu mầy đem cơm nước ra cho Chín Khẩn không?
Thiệt tôi cũng không ngờ bọn tên Hoành tìm ra vuông cỏ mà tôi đã dọn cho chú Chín nằm. Hắn nói trúng phong phóc hết, nhưng tôi biết tất cả cũng đều là do hắn đoán ra rồi truy tôi chớ không nắm được bằng cớ gì hết. Tôi vẫn nói:
- Tôi không biết chỗ ông nói là chỗ nào, chớ mọi bữa thả trâu tụi tôi cũng hay vô đó nằm chơi. Chắc là ông ngó thấy chỗ mấy đứa tôi nằm rồi đó!
- Nằm chơi gì ở tận trong hốc. Đ.m., thằng nhỏ này nói láo. Nhất định nó có dính vô vụ cứu Chín Khẩn, tụi bây cứ lôi đầu nó ra bắn bỏ cho tao!
Tên Hoành la lên, và một tên khác đẩy tôi ra sân chòi, chĩa thẳng mũi súng cạc-bin vô ngực tôi và bắt đầu đếm:
- Một, khai ra mau!
- Đ.m., tao mà đếm tới ba là mầy rồi mạng nghe mày nhỏ!
Trong khi đợi tên biệt kích đếm tới ba, tôi tự hỏi không lẽ nó bắn tôi thiệt, lẽ nào tôi lại chết trong buổi chạng vạng này. Nhưng tôi cũng hết sức hồi hộp, vì đối với bọn biệt kích, chúng nó có thể giết chết một mạng người không cần phải tính toán lâu. Em Biếc và Thắm sợ quá thét lên. Tôi cương quyết không hé miệng, bởi tôi nghĩ nói ra một việc đã xong hết cả rồi thì nói để làm gì, nói để chúng không bắn tôi chết ngay nhưng rồi sẽ tra tấn đánh đập tôi dai dẳng rốt cuộc cũng đến chết mà thôi.
Tên biệt kích đếm tới ba. Tôi đứng trơ trơ. Hắn bóp cò nghe cái "rốp". Tôi giựt mình, rồi khi biết rõ là hắn chưa cho đạn nhảy lên lòng lửa, tôi buồn cười quá nhoẻn cười. Tên biệt kích ngó thấy, hăm he:
- Đ.m., cười hả mầy, cười tao bắn thiệt cho mầy coi!
Nói là nói vậy chớ hắn cũng không bắn thiệt tôi. Hắn lên đạn hẳn hòi, rồi bóp cò hẳn hòi,nhưng phát súng chỉ nổ "đoàng" sát mang tai tôi. Thấy tôi vẫn đứng êm ru, tên biệt kích bất lực báo cáo với tên Hoành:
- Thằng nhỏ này quá gan, bắn sát bên tai mà nó cứ nín thinh!
Tên Hoành chạy tới thoi vô mặt tôi, lên gối và đá tôi. Tôi té xuống. Hắn dẫm đạp lên người tôi, hỏi dồn như kẻ say máu:
- Mày khai không, mày khai không?
- Tôi có biết gì đâu mà khai?
Hắn bước trở vô chòi, rút soạt cái lưỡi hái dắt trên mái chòi xuống, chạy ra kề lưỡi hái quấu vô mặt tôi.
Em Biếc và Thắm bụm mặt khóc hu hu. Tôi bị cái lưỡi hái quấu, máu chảy đầy mặt. Rồi tôi thấy nóc chòi vụt chao nghiêng, tựa như cái mui ghe bị lắc. Bóng em Biếc và Thắm cũng chao theo. Tôi không còn biết gì nữa.
Tôi ngất đi không biết bao lâu, lúc tỉnh lai thấy mình nằm trên ổ rơm, có em Biếc và Thắm ngồi bên cạnh. Hai em mừng rỡ thấy tôi mở mắt ra. Tôi thì thấy ngực đau lói. Biếc lấy áo của em, thấm nước, lau mặt cho tôi. Cái áo em dính đầy máu tôi. Tôi biết là tôi bất tỉnh không phải vì nhát lưỡi hái mà chính là vì những cái đạp của tên Hoành. Tôi hỏi:
- Tụi nó đi
- Đi rồi, anh xỉu thì tụi nó bỏ đi!
Biếc đáp lời tôi, nước mắt chảy ràn lụa. Tôi nghiến răng:
- Đừng khóc, anh không có sao đâu, anh sẽ giết chết nó!
Biếc vội bụm miệng tôi lại:
- Anh nói lớn, nó nghe thì chết!
Rửa sạch máu me trên mặt tôi, Biếc lấy chiếc áo vải xiêm dài tay xỏ mặc cho tôi. Bấy giò tôi mới khóc. Tôi khóc không vì đau đớn mà vì cảm động thấy Biếc thương tôi lo cho tôi quá. Với lại khi Biếc vừa mặc cho tôi chiếc áo do chính má tôi may, tự nhiên tôi nghĩ sao má tôi, hay chị Hòa tôi, cô tôi, hay em Biếc em Thắm đây đối với tôi trìu mến thương yêu dường ấy, còn cớ sao Biện Tư bọn thằng Hoành lại đối với tôi ác độc dường ấy.
Suốt đêm tôi không ngủ được, thỉnh thoảng lại thấy lói đau ở ngực. Còn vết thương do cái lưỡi hái thằng Hoành cứa nơi mặt cứ ri rỉ chảy máu, đau rát hết sức.
Biếc ngồi bên lau, chậm máu cho tôi tới khuya. Biết ngày mai thế nào em ấy cũng phải thay tôi đi chăn trâu, nên tôi nói: - Biếc đi ngủ đi, đưa cái áo đây tôi lau.
Nói mãi Biếc mới chịu đi ngủ. Tôi nằm, lát lát đưa cái áo Biếc lên thấm máu. Mỗi lần thấm máu ở mặt mình, cơn uất ức lại trào lên nghẹn ngang cổ họng. Tôi phải đè xuống, nén xuống, mà nghĩ rằng phải cố đè nén như anh Đấu đã từng đè nén uất ức một hai năm giữa nhà Biện Tư. Gần đây tôi hơi biết cái đó là cần, chớ không thể thí mạng mình ngay được. Cho nên ban nãy, khi thằng Hoành đánh đá, tôi ráng chịu. Tôi chịu đựng rất khó khăn vì cái ý định chống trả lại cứ trào lên, trào lên. Ban nãy, mấy lượt tôi đã tính đánh lại thằng Hoành, rồi thây kệ tới đâu thì tới nhưng sự thiệt nếu tôi hành động như vậy chắc là tôi đã chết. Tụi thằng Hoành có thể giết chết tôi mà không có tội vạ gì.
Nằm trong đêm tối với những vết thương đau nhức ê ẩm, tôi uất ức căm thù nhưng tôi cũng thấy bằng lòng và sung sướng vì mình đã làm tròn phần việc anh Đấu giao. Dẫu tôi có bị đánh đập thế này thì chú Chín và anh Đấu cũng đã thoát rồi. Đó là điều an ủi, điều phấn khơi nhất cho tôi. Lẽ dĩ nhiên là tôi cũng thấy mình sơ sót. (Phải chi tôi rà vuốt, dựng dậy chỗ vuông cỏ bị rạp ấy. Phải chi tôi chú ý hơn về việc nhà Biện Tư có thể sẽ coi lại số gạo trong khạp).
Em Biếc thức dậy rất sớm. Tưởng tôi đã ngủ, em rón rén đến rờ rẫm coi tôi có sao không. Tôi nằm im, để bàn tay em đặt lên ngực, để bàn tay em lướt lên mặt. Tôi nghe thấy cả tiếng trái tim hồi hộp đập nhịp trong lồng ngực nhỏ bé của em nữa kia. Nhưng tôi vẫn nằm im giả vờ như ngủ, vì tôi đang có được cái cảm giác êm ái dịu dàng nó làm cho quên hết ê ẩm đau nhức. Lâu sau tôi mới cựa mình. Biếc khẽ cất tiếng hỏi:
- Anh Quyết, anh Quyết, anh coi còn đau nhiều lắm không?
- Không đau lắm đâu. Chỉ sợ cái lưỡi hái sét 1 làm độc...
- Để em rửa nước muối cho khỏi làm độc. Em sẽ đi hái lá thuốc dòi vắt cho anh uống, bắt cua nướng cho anh ăn!
- Uống lá thuốc dòi chi vậy?
- Thứ đó uống hết tức ngực, má em nói người ta bị ho lao uống cũng hết... Lấy lá cây thuốc dòi giã nát, vắt nước, cho đường vô. Mình không có đường thì kiếm khúc mía...
Phải nói là ít có đứa con gái nào mới chín mười tuổi mà lại có nhiều sáng kiến giỏi dắn như Biếc. Mỗi lần Biếc đề ra món ăn hoặc thứ thuốc chi đó, em đều bảo: "Thấy má em làm, nghe má em nói". Nghĩa là hầu hết sự hiểu biết của em đều bắt nguồn từ mẹ. Mới biết người mẹ quan trọng đến là dường nào. ấy vậy mà cả tôi lẫn Biếc đều chẳng còn mẹ nữa. Tôi nằm đau liệt đến cả chục hôm mới trở dậy được.
Suốt trong thời gian đó, hai chị em Biếc rất cực. Biếc vừa lo chăm sóc tôi, vừa lo tưới rẫy, vừa thay tôi đi chăn trâu. Em ấy làm công việc quần quật nhưng săn sóc tôi rất chu đáo. Thuốc thang cũng là do em chạy chữa cho tôi. Chẳng có gì ngoài thuốc dòi, gừng, muối và cua đồng.
Trưa nào em cũng bắt tôi phải uống hết một chén nước thuốc dòi vắt với mía. Tôi nghĩ rằng chính nhờ thứ thuốc đó mà tôi khỏi tức ngực, và cũng nhờ cua đồng mà tôi mau hết ê ẩm thân mình.
Tôi khỏe lại dần và đi chăn trâu được có ba bốn bữa thì vào một buổi sáng sớm, Biện Tư cho người ra gọi tôi vô nhà lớn. Hẳn bảo tôi đem theo cả quần áo để đi có công chuyện ít bữa. Khi tôi vô tới nhà thì thấy Biện Tư và một người đàn ông lạ mặt đang đợi tôi. Biện Tư bảo với người kia:
- Đây thằng nhỏ này đây!
Rồi Biện Tư nói với tôi:
- Cậu Bảy Vàng đây là em ruột của tao. Nhà cậu Bảy ở trên Xà-bang cần có người lên tiếp hái cà-phê chừng năm ba bữa nửa tháng. Mày đi theo cậu Bảy lên đó nghe!
Tôi chưa kịp nói sao thì người đàn ông tên là Bảy Vàng bước tới vui vẻ vỗ vai tôi:
- Thằng em mày xuống nhà tao phụ hái cà-phê ít bữa rồi về. Nếu thằng em mày làm ăn khá, tao sẽ nói với anh Tư tao cho trừ nợ, cho thằng em mày về luôn khỏi ở coi trâu nữa!
Rồi không đợi tôi nghĩ tới nghĩ lui, hắn xăng xở chụp cái nón nỉ đen lên đầu: - Thôi, đi cho sớm, không thôi lỡ cỡ xe đò nó chạy mất. Ra đó mình kiếm hủ tiếu ăn rồi lên xe là vừa!
Thiệt chẳng khác chi cái hôm Biện Tư bắt tôi từ nhà cô Tám tôi đem về đây. Chỉ khác là Bảy Vàng không bắt như kiểu Biện Tư. Hắn hứa hẹn tôi ngay từ đầu, hứa hẹn một cách ngọt ngào và xởi lởi. Tôi những tưởng cũng đi ít bữa thiệt, nên đi phứt cho rồi. Lần này ra đi, tôi cũng mặc mỗi cái áo vải xiêm má tôi may, với cái quần cụt để lộ đôi chân cao kều mốc thếch.
Để đem cho được tôi về tới Xà-bang, Bảy Vàng không quên những lời hứa vặt. Ngay khi ra tới chợ Phước- Kiển, hẳn liền dẫn tôi vô tiệm nước kêu hai tô hủ tiếu. Một cho hắn, một tô cho tôi. Thú thật đó là lần đầu tiên trong đời, tôi mới biết thế nào là hủ tiếu. Tự nhỏ tới lớn tôi có ăn hủ tiếu bao giờ đâu. ở cái xứ Phước-lai khỉ ho cò gáy của tôi đâu có tiệm nước bán hủ tiếu. Tôi chỉ được ăn bánh canh tôm, bánh canh cá do má tôi nấu. Món hủ tiếu, theo tôi nó cũng tờ tợ như món bánh canh, nhưng nước xúp coi mòi ngọt dữ. Tôi ăn hủ tiếu thấy ngon quá là ngon. Chắc cũng có phần do lâu nay ở ngoài chòi tôi chỉ ăn rặt mắm nục và khô cá lù đù. Tôi nghĩ thương cho em Biếc em Thắm. Cảnh chợ Phước Kiển cũng đã đủ làm cho tôi ngơ ngác. Người đi chợ buôn bán đông quá là đông. Xe đò chở khách đậu một dãy năm bảy chiếc sơn màu xanh đỏ, lát lát lại bóp còi nghe bin bin.
Ở tiệm nước ra, Bảy Vàng dẫn tôi đến bên một chiếc xe xanh. Hắn nhảy lên chỗ gần tay lái, nói gì với người sốp- phơ rồi chỉ cho tôi lên ngồi ở băng kế đó. Tôi thấy Bảy Vàng oai vệ móc túi lấy kiếng mát 2 đeo vô, đình huỳnh ngồi luôn bên cạnh người sốp-phơ không cần phải mua vé chi cả. Còn tôi, lần đầu tiên ngồi xe hơi, tôi hết sức lóng cóng ngượng nghịu. Tôi có cảm tưởng hành khách ngồi xung quanh ai cũng để ý dòm tôi, và dường như ai cũng biết tôi hổi giờ ở ruộng chưa hề đi xe vậy.
Chuyến xe đò chạy lên Bà-rịa. Tôi ngó thấy phố xá Bà-rịa mà ngớp. Xe đậu tại Bà-rịa một chút rồi chạy về tới Xà-bang vào lối mười giờ. Bảy Vàng ghé tạt vô nhà người quen ở chợ Xà-bang lấy chiếc xe mô-tô hắn gửi ởỉ đó rồi chở tôi về nhà hắn ở cách chợ chừng năm cây số. Cái cảnh ở Xà-bang là cái cảnh xứ đất đỏ hực, đỏ từ đường đi tới tường vách, nhà, cửa, đỏ áo quần người và cả những con chó chạy quanh cũng nhuộm đỏ bụi đường.
Xà bang bạt ngàn rừng cây cao su, rừng cây cà phê chia thành lô thẳng tắp, mịt mù. Nổi bật lên trên cái nền xanh ngắt của cây lá là mấy nóc biệt thự đỏ chói của chủ sở người Pháp và cạnh đó là mái nhà tôn xám xạm của cu ly cạo mủ.
Nhà của Bảy Vàng ở quá khỏi khu vực đồn điền một đỗi, cũng thuộc Xà-bang - Ngãi-giao, cái làng tiếp giáp với rừng Hắc-dịch nơi tôi từng nghe nói có nhiều sóc của người Châu Ro. Ngôi nhà Bảy Vàng nằm dưới chân một triền đồi đất đỏ. Từ xa ngó cơ ngơi nhà hắn loáng thoáng hiện ra như một cái trại. Ngôi nhà lợp ngói, nhưng vách là vách ván, chung quanh nhà có hàng rào cắm bằng những cây rừng lớn hơn bắp chân.
Chiếc mô-tô Bảy Vàng chở tôi vừa chạy tới cổng thì cánh cổng gỗ cũng vừa mở ra. Bảy Vàng cho xe vọt vào luôn. Tôi ngó ngoái lại, thấy người mở cổng đứng nép bên là một ông già nhỏ thó đang co ro như dấu người vào một cái áo bành tô màu cứt ngựa cũ rách. Và khi tôi quay nhìn tới trưóc thì thấy một người đàn bà yểu điệu đi ra. Người đàn bà nầy dáng dong dỏng, chân mày cạo sắc lẻm, mặc cái áo ni-lông ngắn tay để hở ngực.
Trông mụ sắc sảo như người ở ngoài chợ. Mụ nói với Bảy Vàng bằng một giọng uốn éo tôi chưa hề nghe thấy:
- Vậy mà tưởng bữa nay mình còn gặp con nào ở trên chớ. Ủa, mình chở thằng nhỏ nào về nữa đó?
- Nó ở trên anh Tư cho xuống phụ tiếp công việc. Lát nữa, để chỉ cho nó xuống Hai. Ông Hai ổng già yếu quá không còn coi nổi bốn mươi mốt con bò đâu!
--------------------------------
Rỉ.
2 Kính dâm