ôi gặp Phạm Xuân Ẩn lần đầu tiên vào tháng 7 năm 2001 tại nhà hàng hải sản Song Ngư, nằm trên con phố Sương Nguyệt Anh nhộn nhịp của Sài Gòn. Tôi được người bạn là Giáo sư James Reckner, Giám đốc Trung tâm Việt Nam tại Đại học Công nghệ Texas, mời tới dự bữa tối. Khoảng chừng hai mươi thực khách ngồi quanh một chiếc bàn dài và khá hẹp, vì thế tôi chỉ có thể nói chuyện với người bên phải hoặc người bên trái hoặc vị khách đối diện. Tôi không nói được tiếng Việt, còn hai vị học giả ngồi hai bên tôi cũng chẳng biết tiếng Anh. Chiếc ghế trống duy nhất của bàn tiệc nằm ở phía đối diện tôi.
Khi bắt đầu cảm thấy bữa tối hôm nay sẽ dài lê thê thì tôi nhận thấy mọi người quanh bàn đều đứng dậy để chào một quý ông gầy gò đang bước vào. Tôi đoán chừng ông ta gần bảy mươi tuổi, trông toát lên vẻ khiêm tốn. Tôi chợt nghe tiếng Jim nói: “Xin chào Tướng Ẩn, rất vui khi ông đến dự với chúng tôi”. Một thoáng sau chúng tôi đã ngồi đối diện nhau. Nghe vị tướng đáp lời Jim bằng tiếng Anh, tôi vội giới thiệu mình là giáo sư Đại học California ở Davis. Đôi mắt Phạm Xuân Ẩn ánh lên. “Ồ, ông đến từ California! Tôi từng sống ở đấy và học tại Costa Mesa. Đấy là quãng thời gian tuyệt nhất của đời tôi”.
Trong suốt hai giờ sau đó, ông Ẩn và tôi đã trao đổi rất nhiều chuyện, bắt đầu là khoảng thời gian hai năm của ông ở Trường Orange Coast, học chuyên ngành báo chí; rồi thời gian ông đi xuyên qua lòng nước Mỹ; và tất cả những gì ông đã học được từ người Mỹ cũng như lòng ngưỡng mộ của ông đối với người Mỹ. Ẩn kể với tôi rằng ông từng tới Davis trong thời gian tập sự tại báo Sacramento Bee. Ông kể về lòng tốt của chủ bút Eleanor McClatchy, và còn đề cập tới lần được gặp Thống đốc bang California, ngài Edmund G. “Pat” Brown, khi dự buổi họp báo dành cho biên tập viên các báo của trường đại học ở Sacramento.
Trông Ẩn ngời lên vẻ tự hào khi kể rằng người con trai lớn của ông, Phạm Xuân Hoàng Ân, gọi theo tiếng Anh là Ân Phạm, cũng từng học báo chí tại Đại học North Carolina ở Chapel Hill và mới đây đả tốt nghiệp Trường Luật Đại học Duke.
Ẩn hỏi về công việc nghiên cứu hiện tại của tôi trong khi chỉ ăn chiếu lệ và hút thuốc lá liên tục suốt bữa tối. Lúc bấy giờ, tôi đang viết một cuốn sách về Hòa đàm Paris giữa Henry Kissinger và đối thủ Cộng sản Bắc Việt của ông ta, Lê Đức Thọ, dưới thời Tổng thống Nixon. Ông Ẩn liền đưa ra những phân tích chi tiết và sâu sắc về quá trình đàm phán, qua đó cung cấp cho tôi những thông tin và cách nhìn mới mẻ. Giữa lúc ông nói, tôi chợt nhớ mình từng đọc đâu đó câu chuyện về một ký giả khả kính của tờ Time hóa ra lại làm điệp viên cho Bắc Việt và ngờ ngợ rằng người đang ngồi đối diện mình trong bữa tối chính là nhân vật kia(1).
Buổi tối hôm ấy, Ẩn không nói một lời nào về công việc tình báo của mình mà chỉ nói rất chi tiết về vai trò là một phóng viên cho hãng Reuters và tạp chí Time, ông hào hứng nói về nghề nghiệp của mình và lòng mến phục dành cho rất nhiều người bạn trong làng báo Mỹ, đề cập đến rất nhiều ký giả tên tuổi thời bấy giờ, trong đó có Robert Shaplen, Stanley Karnow, Frances Fitz Gerald, Robert Sam Anson, Frank McCulloch, David Halberstam, Henry Kamm và Neil Sheehan. Ông bảo rằng bạn bè của ông không chỉ có trong làng báo, mà bao gồm cả những người của CIA như Lou Conein, Đại tá Edward Lansdale và cựu giám đốc CIA William Colby, người từng giữ chức Chỉ huy trưởng chi nhánh CIA ở Sài Gòn. Ống còn đề cập tới nhiều chính trị gia và tướng lĩnh của chính quyền Nam Việt Nam, như Tướng Trần Văn Đôn, Đại sứ Bùi Diễm, Tướng Dương Văn Minh, thường được gọi là “Minh Cồ”, là vị tổng thống cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, và cựu Thủ tướng đồng thời là Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, người thường xuyên nhờ ông Ẩn tư vấn về gà chọi và huấn luyện chó.
Người bạn trong bữa tối của tôi dường như biết bất kỳ ai ở bất cứ cương vị nào trong suốt cuộc chiến. Khi chia tay vào tối hôm đó, ông Ẩn đưa tôi tấm danh thiếp, ở một góc có hình chú chó bẹc giê Đức và góc kia có hình con gà chọi, rồi bảo tôi gọi điện lại vào ngày hôm sau để tiếp tục nói chuyện về Hòa đàm Paris. Sau bữa tối, tôi được một người bạn là Lê Khanh, đang làm việc cho Trung tâm Việt Nam tại Đại học Công nghệ Texas và đã cùng gia đình trốn chạy khi Cộng sản chiếm Sài Gòn vào tháng 4 năm 1975, chỉ vài ngày sau khi vợ con ông Ẩn rời Sài Gòn để di tản tới Mỹ, cho biết rằng tôi vừa trải qua ba tiếng đồng hồ nói chuyện với Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn của Quân đội Nhân dân Việt Nam, chủ nhân của bốn Huân chương Quân công và sáu Huân chương Chiến sĩ vẻ vang cùng với danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.
Tôi tò mò muốn biết liệu Lê Khanh có còn cảm giác thù hận đối với con người không chỉ là kẻ thù của ông ta, mà bằng cách sống một cuộc đời giá dối đã dường như phản bội lại rất nhiều người Việt ở miền Nam. Khanh bảo rằng ông không biết ông Ẩn hồi chiến tranh, ông Khanh cũng từng không biết điều gì sẽ đến khi một vài năm về trước, có người bạn của hai người mời đi uống cà phê với ông Ẩn. Thế rồi Khanh đã nhận ra rằng ông Ẩn là con người khiêm nhường và thâm trầm, một người không bao giờ bộc lộ cái mà ông ta gọi là “sự kiêu ngạo của kẻ thắng trận”. Khanh đã sử dụng những từ “thân thiện và cởi mở” và muốn tôi biết rằng ông Ẩn sống “một cuộc đời giản dị”.
Cả hai người đàn ông này đều chịu đựng mất mát trong cuộc chiến. Khanh mất nước vào ngày 30 tháng 4 năm 1975; Ẩn mất người em trai của mình, Phạm Xuân Hòa, trong vụ rơi trực thăng vào năm 1964. Hòa là kỹ sư máy trong không lực miền Nam. Ẩn cũng đã đánh mất giấc mơ về một đất nước Việt Nam thống nhất theo cái cách mà ông mong muốn. Trớ trêu thay, chính Khanh lại là người có thể tự do đi lại khá thường xuyên giữa nhà mình ở Lubbock, Texas, và Thành phố Hồ Chí Minh trong các cuộc viếng thăm bà con họ hàng. Tướng Phạm Xuân Ẩn, Anh hùng của cuộc Cách mạng, lại chưa bao giờ được phép rời khỏi Việt Nam để thăm rất nhiều bạn bè và người thân tại Mỹ. Cả hai người đều hiểu rõ những mất mát của nhau; và tình bạn giữa họ là minh chứng cho sự hòa giải giữa những người Việt ở hai bờ chiến tuyến.
Khi tôi gọi Ẩn vào buổi sáng hôm sau, ông lập tức đề nghị gặp nhau tại Givral. Thời chiến, tiệm cà phê Givral, nằm đối diện với khách sạn Continental và cách không xa tòa nhà Quốc hội, là nơi tụ họp của giới ký giả, thông tín viên, cảnh sát, và quan chức chính phủ - đây là nơi tin đồn phát khởi, được kiểm nghiệm để rồi lan truyền, và là nơi mọi người đến để săn tìm câu chuyện nóng nhất trong ngày. Cỗ máy tin đồn này được gọi là “Đài phát thanh Catinat” theo tên Phố Catinat, nhưng từ sau năm 1954 đã được đổi tên thành đường Tự Do. Sau chiến tranh, đường phố lại được đổi tên thành Đồng Khởi. Xuyên suốt những thay đổi về tên gọi này, Phạm Xuân Ẩn vẫn luôn được mệnh danh là Vị tướng Givral, bởi vì chính nơi đây ông đã có mặt hằng ngày, phân phát thông tin, và hầu như thường xuyên đi cùng King, chú chó bẹc giê Đức to và trung thành của ông, cùng với chiếc xe hơi Renault 4CV màu xanh lá cây đỗ trước cửa tiệm.
Trong hai năm tiếp theo, cho đến ngày ông Ẩn lâm bệnh, tôi và ông thường gặp nhau tại Givral. Một thông lệ hình thành trong các cuộc gặp. Tôi thường đến trước, chọn một chiếc bàn ngay cửa sổ rồi ngồi xem lại các ghi chú và câu hỏi của mình. Ông Ẩn tới bằng chiếc xe gắn máy cũ màu xanh lá cây và đi thẳng đến bàn, trong khi các nhân viên Givral chào đón ông rất nồng ấm. Những giờ tiếp theo, tôi đặt câu hỏi và ghi chép trong khi ông Ẩn giải thích các sắc thái chính trị và lịch sử Việt Nam. Thỉnh thoảng ông đặt thuốc lá xuống, đón lấy sổ tay của tôi và ghi một cái tên hoặc cụm từ giúp tôi nắm được ý của ông rõ hơn. Khi tôi hỏi ông đã mệt chưa, Ẩn thường đề nghị gọi món ăn trưa và tiếp tục trao đổi. Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã nhận ra rằng David Greenway, một người bạn và cựu đồng nghiệp của ông Ẩn, có lý khi đánh giá “ông Ẩn đã làm cho tôi thấy rằng dù gặp Việt Nam nhiều nhưng tôi hiểu biết về đất nước này rất ít”.(2)
Vào năm 2003, sau năm thập kỷ hút thuốc, ông Ẩn mắc bệnh phổi nghiêm trọng. Ông Ẩn cực kỳ mê tín và ông đã hút thuốc Lucky Strikes từ năm 1955, khi những cố vấn Mỹ dạy ông cách rít thuốc và nói rằng cái thương hiệu thuốc lá này sẽ mang đến vận may. “Tôi đã hút thuốc suốt năm mươi hai năm. Giờ đã đến lúc tôi phải trả giá. Nhưng vẫn còn lời chán - tôi chỉ mới bị bệnh phổi trong ba năm rưỡi sau chừng ấy thời gian hút thuốc và chưa bao giờ phải ngồi tù”, ông Ẩn thường giải thích như vậy. Như nhiều người Việt Nam, chuyện tướng số và chiêm tinh đóng vai trò lớn trong cuộc đời của ông Ẩn. Sinh ngày 12 tháng 9 năm 1927, thuộc cung xử nữ, cung thứ sáu trong Hoàng đạo và là cung nữ duy nhất, Ẩn tin rằng trong suốt cuộc đời của mình, ông luôn được bảo vệ bởi nữ thần và vì thế ông cảm thấy mình có bổn phận phải bảo vệ phụ nữ.
Tôi tới Sài Gòn vào ngày ông Ẩn nhập viện. Tin tức trên báo chí địa phương gợi ý rằng ông chỉ còn sống không bao lâu nữa(3). Tôi gọi Phạm Xuân Hoàng Ân và được biết tiên lượng rất xấu. Trước khi rời Sài Gòn, tôi viết cho ông Ẩn một mẩu thư tay, khẳng định rằng tôi vô cùng mong muốn được gặp lại ông tại tiệm Givral. Tôi đùa rằng thời còn làm điệp viên, ông đã thường xuyên đánh lừa thần chết, cho nên giờ cũng chưa phải là lúc đi gặp Diêm Vương như ông từng bảo đâu. Tôi không chắc liệu ông Ẩn có thể đọc được lá thư này hay không.
Vài tháng sau, tôi nhận được tin ông Ẩn đã xuất viện và đang hồi phục. Ông cảm ơn về lá thư của tôi, bảo rằng ông đang chờ cuộc gặp lần tới, và dặn tôi mang giùm ba cuốn sách mà ông thích đọc. Tôi nhanh chóng trở lại Sài Gòn, nhưng do vẫn còn yếu, ông Ẩn đề nghị chúng tôi gặp nhau tại nhà riêng của ông tại số 214 Lý Chính Thắng, nơi trước đây là dinh cơ của một nhà ngoại giao Anh. Giữa những dãy sách báo quý giá, xung quanh là hàng chục chú chim không ngừng líu lo, hai hay ba con gà trống gáy liên hồi và những chú gà chọi vẫn thường xuyên được huấn luyện, một con chim ó, cá cảnh, hai chú chó nhỏ thay thế cho con chó bẹc giê Đức to lớn, chúng tôi ngồi uống loại trà Trung Quốc đặc biệt của ông Ẩn và trò chuyện hàng giờ liền.
Cuốn sách về Hòa đàm Paris của tôi đã xuất bản. Giờ đây tỏi muốn sử dụng câu chuyện của Ẩn như cánh cửa sổ mở vào không gian phức tạp của cuộc chiến. Tôi hỏi Ẩn sao ông chưa bao giờ viết hồi ký. Nhiều năm trước đó, Stanley Karnow đã khuyến khích Ẩn làm vậy, nhưng ông bảo rằng do ông nắm giữ quá nhiều bí mật mà nếu được viết ra có thể làm hại những người còn sống và thân nhân những người đã chết, hoặc ông tin là như vậy. Ông không bao giờ viết về sự nghiệp tình báo của mình, mà luôn khăng khăng nhận rằng mình chỉ là một mắt xích nhỏ trong mạng lưới tình báo khổng lồ của Cộng sản. Có vẻ ông Ẩn coi mình giống như một nhà phân tích CIA ngồi trong văn phòng ở Langley, đọc tài liệu và viết báo cáo. Khi tôi hỏi liệu tôi có thể viết về cuộc đời của ông hay không, Ẩn đã bảo không. Tuy nhiên, các cuộc trò chuyện của chúng tôi vẫn tiếp tục, và tôi càng đặt nhiều câu hỏi về những việc làm của ông trong ngành tình báo, thì ông càng nói với tôi nhiều thứ hơn. Tôi luôn ghi chú cẩn thận và sau đó bắt đầu ghi ấm các cuộc nói chuyện. Ông Ẩn vẫn tiếp tục kể.
Sau đó tôi đã rất may mắn. Nhân dịp kỷ niệm ba mươi năm chiến thắng của Việt Nam trong “kháng chiến chống Mỹ”, Phạm Xuân Ẩn nổi lên như là một anh hùng tại Việt Nam. Hai cuốn sách chính thức về cuộc đời ông được xuất bản. Cuốn Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc đời được trao giải nhất thể loại phi hư cấu tại Việt Nam trong năm ấy.(4)
Nhan đề cuốn sách là một kiểu chơi chữ, bởi trong tiếng Việt, Ẩn có nghĩa là “ẩn náu”, “che giấu” hay “bí mật”, vì thế tên của ông vận đúng vào cuộc đời của ỏng!
Ông Ẩn đưa cho tôi cuốn sách kèm lời đề tặng hài hước “Cuốn sách nhỏ này cho ông biết về một người cách mạng đầy may mắn của Việt Nam bởi vận may luôn quan trọng hơn kỹ năng”. Cuốn sách kể về chiến công tình báo của Ẩn và cung cấp cái nhìn sâu vào tính cách của ông. Rồi tôi trở thành bạn của tác giả cuốn sách, nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải, người đã tạo điều kiện bằng cách sắp xếp để tôi phỏng vấn các thành viên trong mạng lưới tình báo của ông Ẩn. Tuy nhiên, cuốn sách của bà Hải vẫn dựng lên chân dung của một Phạm Xuân Ẩn không làm điều gì sai trái. Giống như George Washington, ông không bao giờ nói dối; và tương tự Abraham Lincoln, ông từ chốn bình dân vươn lên thành vĩ nhân. Một cuốn sách khác do hai nhà báo viết, có nhan đề Phạm Xuân Ẩn: Tướng tình báo chiến lược (5) được dịch ra tiếng Anh và Tây Ban Nha, được nhiều du khách săn tìm tại các quầy sách ở Hà Nội và Sài Gòn. Tôi bắt đầu sử dụng một số chi tiết mới từ hai cuốn sách này để làm cơ sở cho các câu hỏi dành cho ông Ẩn.
Thế rồi ông Ẩn lại nhập viện, lần này ông phải thở máy suốt năm ngày. Theo truyền thống người Việt Nam, vợ ông, bà Thu Nhàn, đã đem nhiều tài liệu, ghi chép, hình ảnh của ông Ẩn và vài thứ khác cho vào một chiếc rương để một khi qua đời, Ẩn sẽ được an táng cùng những bí mật của ông. Lúc ông còn nằm viện, phiên bản tiếng Anh cuốn Phạm Xuân Ẩn: Tướng tình báo chiến lược đã được đăng nhiều kỳ trên một tờ báo Việt Nam và được tải lên mạng internet. Kỳ cuối cùng của loạt bài, có nhan đề “Sự vĩ đại”, đã đưa ra đánh giá chính thức của Đảng về vị thế anh hùng của ông Ẩn: “Nếu có thể rút ra bài học về cuộc đòi của Phạm Xuân Ẩn thì bài học đó chính là lòng yêu nước. Lòng yêu nước của người Việt Nam chưa bao giờ là một bí mật, nhưng tất cả những kẻ xâm lược xưa nay đều không tính đến, không đặt thành yếu tố để so sánh lực lượng. Họ không bao giờ rút ra được bài học, cho nên tất cả bọn họ đều thua. Nếu rút ra được bài học thì họ không còn là kẻ đi xâm lược nữa. Phạm Xuân Ẩn là một nhà tình báo vĩ đại”.
Một lần nữa ông Ẩn lại tránh được cuộc gặp với Diêm Vương. Trở về nhà khi phổi chỉ còn lại 35% công suất, ông trông rất ốm yếu. Tuy nhiên, đầu óc, trí nhớ và khiếu hài hước của Ẩn vẫn sắc lẹm như thường, ông đùa với tôi về mái đầu mới húi kiểu lục quân, nói rằng cần phải cắt như vậy bởi ông không thể đưa tay lên cao để chải đầu được, ông cũng thường phàn nàn về việc bà Thu Nhàn đã làm rối tung tài liệu lên mà bây giờ ông đã quá yếu để sắp xếp lại.
Tôi hỏi ông cảm thấy thế nào về sự nổi tiếng mới đây của ông. “Giờ thì họ đã biết rằng tôi chưa hề làm gì sai trái và tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa. Tôi đã không phản bội họ. Trong thời gian một năm, họ đã cố gắng thay đổi cách nói chuyện của tôi và, trong thời gian dài hơn thế, cách nghĩ của tôi. Họ có thể làm được gì? Họ không thể đưa tôi ra pháp trường. Họ bảo rằng họ không thích cách nói chuyện của tôi và rằng tôi rất khác biệt. Thậm chí tới ngày hôm nay, họ vẫn chưa biết tôi nắm được bao nhiêu thông tin và tôi biết tới đâu. Tuy nhiên, tôi đã chứng tỏ lòng trung thành đối với họ, nên bây giờ người ta đã có thể hiểu về tôi. Tôi đã dám rời Mỹ để hồi hương, và đây là bài học cho lớp trẻ. Tôi được coi là tấm gương cho nhiều người trẻ về tình yêu nước”.
Bình ôxy luôn ở kế bên, và sau hai giờ trò chuyện, Ẩn bảo ông muốn nằm để thở ôxy. Ông mời tôi xem thư phòng của ông. Tôi bắt gặp bản gốc năm 1943 của cuốn Sổ tay Địa lý Đông Dương, do Cơ quan tình báo Hải quân Anh thực hiện, mà ông Ẩn đã sử dụng để giúp đỡ nhiều gia đình (những kẻ thù huynh đệ của ông) chạy trốn vào tháng 4 năm 1975 bằng cách chỉ cho họ các luồng nước êm và các tuyến hải hành.(6) Có một bản tạp chí New York Times số ra ngày 1 tháng 12 năm 1963, sau thời điểm Tổng thống John F. Kennedy bị ám sát, tập trung vào chuyên đề những thách thức đặt ra cho tân Tổng thống Mỹ, ông Lyndon Baines Johnson. Một tấm hình ở góc phải bên dưới chụp cảnh ba người mặc quân phục và một nhà báo Việt Nam tháp tùng vừa hút thuốc vừa ghi chép. Dòng chú thích ghi, “Một trong những hành động đầu tiên của Tổng thống Johnson là tái cam kết chính sách của Mỹ về giúp đỡ cuộc chiến của Nam Việt Nam chống lại du kích Cộng sản. Trong ảnh, một cố vấn quân sự Mỹ và một sĩ quan Nam Việt Nam đang xem xét khẩu súng của (du kích) Việt Cộng vừa thu giữ được”. Phóng viên chiến trường trẻ tuổi David Halberstam đã gửi cho ông Ẩn bài báo này, với dòng ghi chú bên dưới, “Liệu Phạm Xuân Ẩn có phải là mối rắc rối lớn?”
Tôi lần đọc những dòng đề tặng trong các cuốn sách của ông Ẩn.
“Gửi Phạm Xuân Ẩn - Người bạn của tôi, người đã cống hiến một cách đầy phẩm hạnh và xuất sắc cho nghề báo và cho sự nghiệp của đất nước ông - lời chào trân trọng nhất”, Neil Sheehan viết.
“Dành tặng bạn Ẩn vô cùng thân mến, người đã hiểu rõ rằng các chính phủ đến rồi đi còn tình bạn thì trường tồn. Bạn là một người thầy lớn, một người bạn vĩ đại luôn ở trong trái tim tôi. Với tình yêu và tất cả niềm vui đã lại tìm thấy bạn sau tất cả những năm tháng này”, Laura Palmer.
“Tặng Phạm Xuân Ẩn - Một người bạn thực sự của những ngày đầy bất trắc thời chiến tranh mà chúng ta cùng trải qua. Xin gửi lời chào thân thiết nhất”, Gerald Hickey.
“Gửi Phạm Xuân Ẩn, một nhà yêu nước quả cảm và một người bạn, người thầy vĩ đại, lòng tri ân chân thành”, Nayan Chanda viết.
“Với Phạm Xuân Ẩn, hiện tại sau rốt đã bắt kịp quá khứ! Rất nhiều ký ức để sẻ chia và gìn giữ - nhưng trên tất cả là một tình bạn lâu bền”, Robert Shaplen.
“Gửi tới Phạm Xuân Ẩn, người anh em thân thiết của tôi, người trong rất nhiều năm đã giúp tôi hiểu về Việt Nam, lòi chào ấm áp”, Stanley Karnow.
Những lời đề tặng trên hai cuốn niên giám trường học năm 1958 và 1959 tại Trường Orange Coast của Ẩn cũng thú vị không kém.
“Ẩn - tôi rất vui được quen bạn. Tôi biết rằng bạn sẽ trở nên rất quan trọng khi trở về nước - bạn rất am hiểu nghề báo và triết học. Bạn sẽ luôn ở trong tâm trí của tôi”, Lee Meyer.
“Tạm biệt Ẩn - thật tuyệt khi được làm quen và cùng học chung với bạn trong năm qua. Chúc bạn đạt được sớ nguyện trong thế giới này - có lẽ chúng ta sẽ còn ngày tái ngộ - khi đã trở thành những phóng viên nổi tiếng”, Rosann Rhodes.
Và tôi quyết định thử thêm một lần cuối cùng nữa. Tôi khẩn khoản thuyết phục rằng ông cần để cho một nhà sử học như tôi viết câu chuyện về cuộc đời ông, chứ không chỉ được viết bởi những nhà báo tại Việt Nam. Tôi đã đi nước cờ quyết định bằng cách nói rằng sẽ là thích hợp nếu để cho một giáo sư sống ở California, tiểu bang mà ông Ẩn từng có những kỷ niệm đẹp đẽ, viết về cuộc đời ông với tư cách là một điệp viên chiến lược trong suốt cuộc chiến, về sự nghiệp báo chí của ông, về những năm tháng ông sống ở Mỹ, về tình bạn của ông - câu chuyện về chiến tranh, hàn gắn và về hòa bình. Vốn biết rõ rằng ông sẽ không bao giờ đồng ý tiết lộ những bí mật tình báo mà ông hằng giấu kín, tôi đã không nhấn mạnh khía cạnh này của câu chuyện.
Phạm Xuân Ẩn nhìn thẳng vào mắt tôi rồi nói, “OK”, và ông bảo rằng ông rất tôn trọng những cuốn sách trước đây của tôi cũng như hy vọng rằng, thông qua câu chuyện của ông, lớp trẻ người Mỹ có thể hiểu về cuộc chiến, về lòng ái quốc, và sự ngưỡng mộ của ông đối với nhân dân Mỹ. Ông đồng ý hợp tác với chỉ một điều kiện, đó là bảo lưu quyền được nói: “Điều này không phải để viết vào sách bởi nó có thể làm tổn thương con cháu của người đó, nhưng tôi vẫn kể để ông thấy được toàn bộ bức tranh, vậy xin đừng bao giờ kể câu chuyện đó với ai hoặc nhấc đến tên người ấy”. Cho tới ngày cuối cùng chúng tôi ở cạnh nhau, Ẩn vẫn rất lo lắng rằng một vài điều ông nói có thể gây ra hậu quả tồi tệ không phải đối với ông, mà đối với người khác. Trong mọi trường hợp, tôi luôn tôn trọng yêu cầu của ông.
Ông cũng bảo rằng ông không muốn đọc bản thảo trước khi sách xuất bản, và dẫn câu thành ngữ Việt Nam “Văn mình, vợ người” để minh họa. Có nghĩa là người ta hay tự coi văn của mình luôn là hay nhất, còn vợ người khác thì luôn tốt đẹp hơn vợ mình. Người ta luôn mưu cầu những thứ mà họ đang thiếu. Ẩn cho biết nếu đọc bản thảo của tôi, ông sẽ bắt gặp nhiều chỗ không thích, nhưng khi đã quyết định không tự viết hồi ký, thì ông cũng sẽ không thể ngồi rồi phán xét những điều mà người chấp bút tiểu sử cho mình đúc kết.
Ngay tức thì, tôi thấy mình cần phải chạy đua với thời gian. Ông Ẩn đã rất yếu và hay nói về cái chết. “Tôi sống thế này là quá dài rồi” là câu cửa miệng của ông, thường đi kèm một nét cười trên gương mặt. Bây giờ, sau khi đã có sự ủy thác chính thức, tôi quyết định tới thăm thường xuyên hơn, bởi biết rằng ông có thể ra đi bất cứ lúc nào. Tôi cho rằng do biết được ngày sau cuối đang tới gần mà Ẩn càng trở nên cởi mở hơn, ông cung cấp cho tôi các tài liệu thời chiến, hàng chục tấm ảnh và thư tín cá nhàn, cho tôi tiếp cận các thành viên trong mạng lưới của ông, rồi bạn bè của ông, và, quan trọng nhất, ông đã cho tôi xem tận đáy chiếc tủ tài liệu của gia đình - một chiếc tủ sắt cũ và rỉ sét lưu giữ hàng chục tài liệu ẩm mốc.
Cuối năm 2005, Phạm Xuân Ẩn có hai quyết định nhằm chứng tỏ tư cách của tôi là người viết hồi ký chính thức cho ông. Lúc ấy, Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh bắt đầu sản xuất bộ phim tài liệu mười tập về cuộc đời ông. Viết kịch bản cho bộ phim là nhà báo Nguyễn Thị Ngọc Hải, tác giả cuốn hồi ký đoạt giải. Tôi được phỏng vấn cho chương trình đó, và ông Ẩn đã yêu cầu đoàn làm phim ghi hình kéo dài một giờ buổi làm việc giữa tôi với một người Việt Nam viết hồi ký cho ông, Hoàng Hải Vân, nhà báo đã viết Phạm Xuân Ẩn: Tướng tình báo chiến lược. Để dàn cảnh, nhà làm phim sắp xếp để tôi đi xe hơi từ khách sạn tới nhà ông Ẩn, và việc ghi hình bắt đầu khi ông Ẩn đón tôi ở cổng trước.
Tối hôm đó, tôi đi ăn với đoàn làm phim. Hải Vân và tôi trao đổi các câu chuyện về ông Ẩn, dù thế tôi e rằng cả hai đều không để lộ hết các lá bài. Tôi đã có nhiều cuộc trò chuyện với bà Lê Phong Lan, đạo diễn của loạt phim, người rất tò mò về quãng thời gian ông Ẩn sống ở Mỹ. về sau tôi đã hỏi Ẩn tại sao ông lại yêu cầu để tôi xuất hiện trong bộ phim. Ông khẽ đưa mắt nhìn tôi đầy chế giễu với ngụ ý là làm sao mà tôi không hiểu được chứ! Ông biết rằng tôi đã tới các kho lưu trữ để tìm những tài liệu mới về cuộc đời của ông; ông cũng biết chuyện tôi đã phỏng vấn hàng chục cựu đồng nghiệp và bạn bè của ông. Tôi đã tạo dựng được một sự hiểu biết độc lập về ông vượt ra ngoài khuôn khổ những sự cho phép ở đất nước của ông. Đấy là tất cả những điều mà ông muốn ở giai đoạn sau cuối của cuộc đời.
Quyết định thứ hai có tính riêng tư hơn, góp phần quan trọng vào cuốn sách của tôi. Ông Ẩn hỏi mượn chiếc máy ghi âm nhỏ của tôi để thu lời từ biệt của ông gửi tới một số người bạn cũ tại Mỹ. Ông đã quá yếu, không thể cầm bút hoặc gõ bàn phím được, nên muốn dùng cách này để nói lời cảm ơn và từ biệt, ông cũng nhờ tôi chép lại ba thông điệp dài này (mà về sau đã trở thành những sử liệu bằng lời có thể kiểm chứng được) và bảo rằng tôi có thể sử dụng bất cứ điều gì ông nói để làm nền tảng cho cuốn sách, ngoại trừ điều mà ông đã dặn trong một buổi làm việc, đó là có những đoạn chỉ để tham khảo. Nhưng nếu người trong cuộc cho phép, thì tôi có thể sử dụng những tư liệu đó. Ông Ẩn cũng nhờ tôi chuyển trả các thư tín cá nhân do gia đình người Mỹ đầu tiên gửi cho ông thuở thập niên 1950, trong đó cho thấy sự hào phóng và thiện chí của người dân Mỹ. Ẩn và gia đình Brandes đã cho phép tôi sử dụng các lá thư này vào trong cuốn sách.
TƯƠNG TỰ NHIỀU NGƯỜI TRẺ TUỔI tham gia phong trào cách mạng Việt Minh đánh đuổi thực dân Pháp, Phạm Xuân Ẩn có tầm nhìn hướng tới độc lập dân tộc và công bằng xã hội. Ông chiến đấu vì tự do và chống lại đói nghèo; ông làm gián điệp không phải để kiếm tiền hay danh vọng cho cá nhân, mà tất cả đều vì người dân xứ sở của mình. Ông không hề muốn trở thành điệp viên. Đó là bổn phận quốc gia của ông, và mặc dù ông nhận lãnh sứ mệnh này một cách nghiêm túc, thì công việc này ít mang lại cho ông niềm vui thú. Những giấc mơ cách mạng của ông rốt cuộc có vẻ ngây thơ và đầy lý tưởng, nhưng tôi tin rằng động lực cho cuộc sống của ông chính là những mục tiêu cao cả nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam.
Đảng Cộng sản chiêu mộ Ẩn và biến ông thành điệp viên mang bí số X6, một mắt xích đơn tuyến trong lưới tình báo H.63 tại Củ Chi, được biết tới là “Tổ điệp báo anh hùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam”. Đảng hướng Ẩn vào nghề báo để tạo vỏ bọc, quyên tiền để ông đi Mỹ, và khéo léo tạo ra một lý lịch giả để bảo vệ vỏ bọc của ông. Hồ sơ đảng ghi tên ông là Trần Văn Trung để bảo vệ bí mật. Ẩn bảo với tôi rằng đây là định mệnh của ông và con người ta không thể chống lại định mệnh ấy. Thời trẻ, ông đã đọc Voltaire. “Chớ để tâm tới đớn đau và khoái lạc”, ông nói. “Lúc bấy giờ tôi mới mười bảy, mười tám tuổi. Tôi làm theo tất cả những gì mà họ hướng dẫn”.
Phạm Xuân Ẩn trở thành điệp viên trong bối cảnh các lãnh đạo Đảng Cộng sản nhận thấy rằng người Mỹ đang trong quá trình thay thế thực dân Pháp ở Việt Nam. Một lần nữa người Việt Nam không được phép tự định đoạt tương lai của mình. Không để Việt Nam rơi vào tay “Cộng sản” được coi là vấn đề then chốt đối với lợi ích an ninh nước Mỹ. Đấy là chiến tranh lạnh, sự cấm vận, học thuyết domino, chứ chẳng liên quan gì tới lợi ích người Việt Nam cả. Điều đó sẽ dẫn đến chết chóc và hủy diệt.
Sứ mệnh của ông Ẩn trong vai trò một điệp viên là cung cấp các báo cáo tình báo chiến lược về kế hoạch chiến tranh của Mỹ và sau đó gửi vào “rừng” cho ban chỉ huy. Là một nhà phân tích tình báo, ông lấy hình mẫu cho mình là điệp viên CIA Sherman Kent, tác giả cuốn Tình báo chiến lược phục vụ chính sách toàn cầu của Mỹ, tài liệu được coi là kinh điển của tình báo chiến lược.(7) Ông Ẩn nghiên cứu về Kent và học được những bài học tình báo đầu tiên từ đại tá huyền thoại Edward Lansdale cùng các cộng sự bí mật của ông này, những người đến Việt Nam vào năm 1954. Trên cơ sở những đầu mối sơ khởi ấy, ông Ẩn đã lập nên một danh sách nguồn tin có thể nói là tốt nhất và phong phú nhất tại Sài Gòn, và nhờ đó đã cung cấp cho Hà Nội thứ mà họ cần nhất - những đánh giá toàn diện về chiến thuật và các kế hoạch chiến sự của Mỹ. Vào giai đoạn người Mỹ mới xây dựng lực lượng ở Việt Nam, ông Ẩn được coi là điệp viên giá trị nhất trong tất cả những người được cài vào miền Nam bởi ông đã tạo được một vỏ bọc gần như không thể xuyên thủng. Các báo cáo của ông chính xác đến mức Tướng Giáp đã nói đùa, “Giờ thì chúng ta đã có mặt trong phòng tác chiến của Mỹ”.(8)
Phạm Xuân Ẩn là người đã giúp cho các nhà báo Mỹ tại Việt Nam hiểu được sự phức tạp của chính trị Việt Nam, và ông cũng được các chính trị gia, tư lệnh quân đội và quan chức tình báo người Việt - ở hai phía chiến tuyến - đánh giá cao bởi ông có thể phân tích về Mỹ cho người Việt Nam. Trong giai đoạn 1965 - 1975, tên của ông luôn được Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự của Mỹ tại Việt Nam (MACV) cho vào danh sách phóng viên đưa tin trực tiếp, ông không bao giờ phải ăn cắp tài liệu tối mật bởi ông luôn được các nguồn tin của mình cung cấp tài liệu mật để phân tích cho họ bối cảnh toàn diện của các vấn đề chính trị và quân sự.
Có lẽ nguồn tin mang tính tổ chức tốt nhất đối với ông trong những tháng năm làm tình báo là đến từ Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo (CIO) của chính quyền Nam Việt Nam, hoạt động theo hình mẫu CIA của Mỹ. Ông Ẩn là cố vấn thành lập CIO và luôn duy trì mối quan hệ gần gũi với những người bạn của mình ưong tổ chức này. “Họ coi tôi là đồng nghiệp và là một người bạn, khi cần thứ gì thì tôi đề nghị họ cung cấp”, Ẩn kể. Có vẻ như không tình báo viên chống Cộng người Việt nào có thể nhìn xuyên được vỏ bọc của Ẩn. Ông đã qua mặt tất cả, cả người Mỹ lẫn Việt Nam. “Chúng tôi thường cùng ăn trưa ở Brodard. Tôi chẳng bao giờ nghi ngờ điều gì cả”, Bùi Diễm, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ, nhớ lại.
Thật trớ trêu, sau khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam không còn chia cắt nữa, có một vài người trong cơ quan công an Việt Nam lại cho rằng quan hệ giữa Ẩn với người Mỹ và tình báo Nam Việt Nam vẫn còn quá gần gũi. Có lẽ cho rằng người anh hùng của họ đã tồn tại được lâu như vậy là nhờ ông làm việc cho tất cả các bên, tức là ông hoàn toàn có thể là một điệp viên ba mang, ông Ẩn cũng làm cho tình hình thêm rắc rối khi luôn nói tốt về rất nhiều người bạn trong CIA và CIO.
Giá trị của Ẩn không chỉ là những thông tin mà ông có được, mà còn là những đánh giá về các thông tin ấy. Trong lĩnh vực tình báo, có một thuật ngữ gọi là xử lý thông tin - đó là quá trình xử lý, đánh giá toàn diện các thông tin nhằm giúp “khách hàng” hay “người dùng” có thể dựa vào đó mà đưa ra các quyết sách.(9) Ẩn là một nhà phân tích sắc sảo và ngay từ đầu đã thể hiện khả năng diễn dịch những kế hoạch quân sự rối rắm thành những báo cáo dễ hiểu để chuyển cho thượng cấp. Trong hoạt động, Ẩn hiểu rằng chỉ cần một tích tắc sai lầm của bản thân cũng dẫn tới hậu quả là ông sẽ bị bắt hoặc bị giết. “Biết nói thế nào về tình trạng sống mà suốt ngày phải luôn chuẩn bị sẵn sàng cho cái chết”, là cách mà Ẩn mô tả về những năm tháng hoạt động điệp báo của mình(10). Điệp vụ của ông Ẩn bắt đầu vào một ngày cụ thể nào đó, nhưng sứ mệnh ấy chỉ kết thúc khi đất nước thống nhất hoặc lúc ông bị bắt. Một điệp viên xuất sắc của CIA và là bạn Ẩn, Lou Conein, phải ngả mũ trước ông vì “đã kiên trì trong chừng ấy năm, luôn duy trì sự tự chủ và không bao giờ mắc sai lầm”. Thái độ của Conein là “sự ngưỡng mộ của một sĩ quan tình báo chuyên nghiệp đối với một người khác có nhiệm vụ tương tự. Bạn không thể không khâm phục một người rất giỏi trong công việc của anh ta.”(11)
Điều làm cho cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn trở nên khó tin đó là rõ ràng ông thích sống với vỏ bọc của mình; làm phóng viên vì nền báo chí tự do là một giấc mơ đã thành hiện thực trong tầm nhìn về cách mạng của ông. Trong vòng hai mươi năm, Ẩn sống một cuộc sống giả tạo mà ông muốn nó trở thành hiện thực - làm phóng viên trong một đất nước Việt Nam thống nhất. Ông khâm phục và tôn trọng những người Mỹ ông gặp ở Việt Nam cũng như trong thời gian ông ở Mỹ. Ông chỉ đơn giản nghĩ rằng họ không được phép can dự vào đất nước của ông. “Bạn bè là tài sản quý báu trong lòng ông ấy”, Laura Palmer viết.(12)
Thoạt tiên, điều khó nhất đối với tôi khi viết về cuộc đời Ẩn chính là việc hiểu được những tình bạn này. Để sống còn, Ẩn buộc phải dối lừa hoặc đơn giản là không tiết lộ sứ mệnh của ông với những người bạn thân nhất, nhưng khi biết được Ẩn là một điệp viên Cộng sản, hầu như chẳng ai thù ghét ông. Một con người như thế nào mà có thể duy trì được những tình bạn bền lâu dựa trên nền tảng giả dối, và khi sự giả dối bị bóc trần, vẫn hiếm có người nào cảm thấy mình bị phản bội? Chỉ có rất ít bạn bè từng có cảm giác rằng mình đã bị ông Ẩn lợi dụng như một nguồn tin để phục vụ cho các báo cáo tình báo chính trị gửi ra Hà Nội.
Ẩn tin rằng ông không bao giờ, về mặt cá nhân, có hành động phản bội nào đối với người Mỹ. Cho đến cuối đời, Ẩn vẫn khẳng định rằng những việc làm của ông không hề gây ra tổn thất về cá nhân cũng như nghề nghiệp đối với bất kỳ người bạn Mỹ nào. Ngược lại, phần lớn họ đều được hưởng lợi từ sự giúp đỡ của ông, và đến năm 1970 (nếu không muốn nói là sớm hơn), hầu như tất cả các bạn Mỹ của Ẩn đều bắt đầu nhìn về cuộc chiến giống như cách nhìn của ông Ẩn. Cứ cho rằng Phạm Xuân Ẩn trên thực tế đã không phản bội bạn bè; và cứ cho rằng những người bạn Mỹ này đã thông cảm với những hiểu biết mang tính nền tảng của ông về cuộc chiến, thì hầu hết bạn ông đều không có lý do gì để thất vọng khi nhiều năm sau đó họ biết rằng Ẩn là một điệp viên. Tôi luôn quan tâm tới việc một sứ mệnh tối mật như của ông Ẩn đã tạo ra những xung khắc về mặt đạo đức như thế nào trong con người của điệp viên này. Ẩn luôn sống với nỗi sợ hãi thường trực và mối tự vấn lương tâm. về việc lợi dụng bạn bè vào mục đích tình báo. Ẩn đã giải quyết những thế kẹt này như thế nào là một phần trong bức màn bí ẩn thực sự của cuộc đời ông.
Tuy nhiên, khi tìm hiểu cuộc đời của nhà tình báo bậc thầy này, cần phải xem xét dưới góc độ của thực tế là có nhiều người khác - cả Mỹ lẫn Việt - đã phải lãnh chịu hậu quả từ các hoạt động tình báo của Cộng sản. Các thành viên của lưới tình báo H.63 đã “tiêu diệt nhiều lính Mỹ và ngụy, phả hủy nhiều xe tăng, thiết giáp và máy bay chiến đấu của kẻ thù”.(13) Việc đánh giá các tác động của những hoạt động tình báo cụ thể là rất khó khăn, nhưng nếu quả thực Ẩn là điệp viên vĩ đại nhất của Cộng sản trong cuộc chiến tranh đó và nếu các lời khen ngợi về chiến công “anh hùng” của mạng lưới tình báo này là đúng, thì những hành động của ông đã mang đến tổn thất và chết chóc cho nhiều người, chủ yếu là gián tiếp.
Chiến tranh kết thúc đã mang đến cho ông Ẩn một nỗi cô đơn tột cùng. Liên lạc với bạn bè ở Mỹ bị cắt đứt và không thể tiếp tục làm báo, thỉnh thoảng ông Ẩn khoác lên mình bộ quân phục cấp tướng và tham dự các cuộc họp chi bộ hằng tháng. “Chi bộ càng ngày càng ít người vì một số bạn bè của tôi qua đời, nhưng hằng tháng tôi vẫn dự họp đều đặn và thú nhận những chuyện đại khái như 'tuần này tôi có tiếp Giáo sư Larry Berman, và chúng tôi đã nói chuyện về cuộc đua vào Nhà Đỏ hoặc những thứ tương tự'“, ông Ẩn cười. Khi tôi hỏi liệu người ta có thực sự quan tâm việc ông kể về các cuộc gặp gỡ của chúng tôi hay không, ông Ẩn đáp, “ông thấy đấy, những điều tôi kể thì họ đã biết rõ rồi vì bên an ninh nắm mọi thứ. Họ có cách của họ. Việc tự kiểm chẳng qua là cách để họ thứ xem tôi có trung thành và thành thật hay không, thế nên tốt nhất là kể lại những gì họ đã biết. Bên cạnh đó, ai cũng biết tôi thẳng tính, và họ hiểu tôi có cảm giác như thế nào về tất cả những chuyện này. Tôi già rồi, chẳng thể thay đổi được nữa còn họ thì không đổi thay do sợ hãi, nhưng sau mỗi năm thì tình hĩnh cũng đỡ hơn. Có thể sau năm mươi năm nữa thì tình hình sẽ ổn”.
Suốt đời mình, Ẩn vẫn luôn là người có thiện cảm với Mỹ, và thật may mắn là ông sống đủ lâu để chứng kiến một chương mới trong quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam. Theo lời mời của Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Raymond Burghardt và Tổng lãnh sự Emi Lynn Yamauchi, Phạm Xuân Ẩn cùng nhiều quan chức đã lên thăm tàu USS Vandegrift vào tháng 11 năm 2003 trong lần đầu tiên một chiến hạm hải quân Mỹ cập cảng tại Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc năm 1975. Một trong những món quà đáng giá của Ẩn là tấm hình do Lãnh sự quán Mỹ gửi tặng, trong đó chụp cảnh ông cùng Tổng lãnh sự Yamauchi, Hạm trưởng Richard Rogers và Hoàng Ẩn đứng trên chiến hạm Vandegrift. Ẩn kể với tôi hôm ấy ông rất tự hào - rằng ông đã sống đủ lâu để chứng kiến một sự kiện mang tính biểu tượng cho tiến trình hòa giải và hợp tác giữa Mỹ và Việt Nam. “Tôi đã có thể thanh thản nhắm mất. Tôi đã phụng sự cho đất nước, cho nhân dân, cho sự thống nhất”, ông nói. Sau này Hoàng Ẩn kể lại với tôi, “Cháu rất vui khi ba cháu đã có được trải nghiệm ấy. Điều đó cho thấy tiến trình bình thường hóa đang diễn ra tốt đẹp, và điều đó rất có ý nghĩa đối với ba cháu”.
Vào ngày hôm đó, Ẩn khoác thường phục, và người duy nhất trong đoàn đại biểu Việt Nam nhận ra ông là một vị đại tá, ông này tiến lại gần và hỏi bằng tiếng Việt, “Xin lỗi, ông là Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn phải không?” ông Ẩn ngước nhìn và đáp, “Đúng rồi”. Viên đại tá nói, “Rất vui được gặp ông”, rồi trong lúc ông Ẩn đang đứng giữa rất nhiều quan chức cấp cao của Mỹ, ông này đã đùa, “Ông là tướng phe nào?”.
Không chút do dự, ông Ẩn đáp, “Của cả hai phe!”. Viên đại tá có vẻ khó chịu. “Chỉ là đùa thôi”, Ẩn nói. Kể với tôi chuyện này, ông Ẩn kết luận, “Ồng thấy đấy, đó là lý do khiến họ không bao giờ để tôi xuất ngoại; họ vẫn chưa hiểu con người của tôi”.
CHÚ THÍCH
(1) Ví dụ về các bài báo này gồm có Stanley Karnow, “Vietnamese Journalist's Divided Allegiance: After Nine Long Years a Double Agent Explains the Mystery of His Actions”, báo San Francisco Chronicle, 30.5.1990; Morley Safer, “Spying for Hanoi”, New York Times Magazine, 11.3.1990; Robert D. McFaddden, “The Reporter Was a Spy from Hanoi: Life and Legacy of a Paradox”, báo New York Times, 28.4.1997; Douglas Pike, “Mỹ Friend An”, trong sách The Vietnam Experience, War in the Shadows (Newton, MA: Boston Publishing, 1988); Laurence Zuckerman, “The Secret Life of Phạm Xuân Ẩn”, tạp chí Columbia Journalism Review, tháng 5 và 6.1982, trang 7-8.
(2) H. D. S. Greenway, “Shadow of a Distant War”, báo Boston Globe, 30.4.2000. Xem thèm H. D. s. Greenway, “A Glimpse of the Boxes Within Boxes of Vietnam”, Báo Boston Globe, 5.1.1990.
(3) http://vnexpress.net/Vietnam/Xa-hoi/2003/06/3B9C8E01/Thieu tuong tinh Phạm Xuân Ẩn lam trong benh.
(4) Nguyễn Thị Ngọc Hải, Phạm Xuân Ẩn: Tên người như cuộc đời (Hà Nội: NXB Công An Nhân Dân, 2002).
(5) Hoàng Hải Vân và Tấn Tú, Phạm Xuân Ẩn: A General of the Secret Service (Hà Nội: NXB Thế Giới, 2003). Ấn phấm bằng tiếng Anh, được dịch từ loạt bài Phạm Xuân Ẩn: Tướng tình báo chiến lược đăng trên Báo Thanh Niên từ ngày 7-10 đến 28-11-2002. Ở phần ghi nguồn, chúng tôi (ND) ghi chú theo tên tiếng Anh.
(6) Sau này Ẩn đã kể với tôi: “Tôi có nhiều người bạn mà nếu họ ở lại thì sẽ gặp rắc rối thực sự. Tôi không thể ngăn họ ra đi bởi điều đó chẳng có ý nghĩa gì, nên tôi hướng dẫn cho họ đi theo hải trình an toàn nhất để ra ngoài biển khơi và được các tàu lớn đón. Nhiều người không bao giờ thực hiện được chuyến đi, nhưng chiến tranh đã kết thúc và tôi cũng không có hướng dẫn nào mới”.
(7) Sherman Kent, Strategic Intelligence for American World Policy, tái bản (Princeton, NJ: NXB Princeton University Press, 1966).
(8) A General of the Secret Service, trang 80.
(9) Ernest Volkman, Warriors of the Night: Spies, Soldiers, and American Intelligence (New York: NXB Morrow, 1985), trang 15.
(10) Phạm Vũ, “Phạm Xuân Ẩn - Những huyền thoại để lại” báo Tuổi Trẻ, 2-10-2006, trang 3. Nhiều lần ông Ẩn cũng nói với tôi như thế.
(11) Bài phỏng vấn chưa được xuất bản do Sheehan thực hiện với Conein, Tài liệu của Sheehan, 22.9.1976, Hộc 62, Tập 9.
(12) Laura Palmer, “Mystery Is the Precinct where I Found Peace” trong sách War Tom: Stories of War from the Women Reporters Who Covered Vietnam (New York: NXB Random House, 2002), ưang 269.
(13) A General of the Secret Service, trang 131.