“Hoảng rồi!” một đêm, bác vĩ cầm tuyên bố vậy. “Ấy đấy, người da trắng đâm hoảng nên cuống quít đếm đầu tất cả mọi người trong cái cuộc đều cha dân số này. Họ sợ trong đám họ, dân nhọ đã đông hơn dân da trắng”, bác vĩ cầm nói.
Kunta nói Bel kể là đã đọc trong báo thấy tin ở bang Vơjinia, theo điều tra dân số, người da trắng chỉ nhiều hơn người da đen có mấy nghìn thôi.
“Người da tắng sợ cánh nhọ tự do hơn sợ bọn ta”, ông già làm vườn chêm vào.
“Tui nghe nói, riêng ở Vơjinia đã có gần gần sáu vạn nhọ tự do”, bác vĩ cầm nói: “còn bao nhiêu nhọ nô lệ thì không thấy nói. Dưng mà bang này chưa phải là nhều nhất đâu nhá. Phải là dững bang ở mạn dưới, đất đai màu mỡ nhất, mùa màng tốt tươi nhất, có tàu xuống chở hoa màu trên sông lạch đi các chợ, với lại...”.
“Phải, dững nơi í, cứ hai nhọ mới có một da tắng!” ông lão làm vườn ngắt lời. “Ở tuốt dưới đồng bằng ban Nuizana rồi ở vùng Yazu bang Mitxixipi, nơi chuyên tồng mía í, và ở tuốt dưới cái vành đai đen ở bang Anabama, Nam Canina và Jojiơ, nơi chuyên tồng lúa và chàm í, nói cho mà biết nhá, ở dững cái đồn điền to tướng nằm khuất nẻo dưới í, có đủ các loại nhọ mà chẳng có bị đếm bao giờ hết!”.
“Một số đồn điền to đến nỗi phải chia làm nhiều đồn điền nhỏ hơn giao cho xúbadăng trông coi”, bác vĩ cầm nói. “Mà các mexừ chủ các đồn điền lớn í phần đông là dững chạng sư, dững nhà chính chị và doanh nghiệp to phe sống ở thành phố, và dững người giàu sang quyền quí í chẳng cần lấy phần gì ở đồn điền, có dễ chỉ trừ dững khi họ rầm rập kéo ra hàng đoàn xe ngựa xênh xang đầy dững bạn hữu về chơi nhân dịp lễ Tạ ơn hay lễ Giáng sinh, hoặc nữa là để cắm trại hè, ăn uống ngoài trời”.
“Dưng mà chú biết không”, ông lão làm vườn kêu lên “dững người da tắng giàu có ở thành phố í nại chính nà cái tầng nớp có nhiều người nên tiếng chống chế độ nông nô”.
Bác vĩ cầm ngắt lời. “Dào! Cái í chả có nghĩa gì sất! Bao giờ cũng có một số ông lớn, da trắng mốn xóa bỏ chế độ nô lệ. Xì, chế độ nô lệ đã bị đặt ra ngoài vòng pháp luật ở bang Vơjinia này mười năm rồi, nhưng mà luật ví chả lệ, các người thấy đấy, chúng ta vẫn là nô lệ còn họ thì cứ đưa sang thêm hàng tàu đầy nhọ”.
“Thế dững nhọ ấy bị đem đi đâu cả?” Kunta hỏi. “Một số lái xe tui quen bỉu là chủ họ đi nhiều chuyến rõ lâu mà hàng mấy ngày liền chả thấy một cái mặt da đen nào khác". «Có ối vùng cả quận không có nấy một đồn điền nhớn và cơ hồ chẳng thấy một bóng nhọ nào cả», ông già làm vườn nói. « Chỉ dặt những trại nhỏ đầy sỏi đá, bán mười năm xu một mẫu cho đám da trắng nghèo kiết nõ đít đến độ phải ăn đất, ăn cát. Và chẳng khá khấm hơn họ bao nhiêu, nà dững người có chút ruộng không tốt hơn mấy tí và một dúm nô lệ».
«Tui nghe nói có một nơi không phải chỉ có từng dúm nhọ thôi đâu, đó là miền Tây Ấn», bác vĩ cầm nói và quay sang Kunta. «Chú mày biết ở đâu không? Ở bên kia biển, giống như quê chú mày í». Kunta lắc đầu.
« Mốn sao thì sao », bác vĩ cầm nói tiếp, « tui nghe nói ở đấy một ông chủ có tới cả nghìn nhọ để trồng và chặt cái giống cây làm đường, làm rượu rum. Người ta kể mấy tui hàng đoàn tàu, giống như cái tàu chở chú mày tới đây í, thường dừng ở Tây Ấn cho bọn nhọ Châu Phi ở lại đấy một thời gian, vỗ béo chúng sau cái chặng đường dài đã làm chúng ốm o đói khát gần chết. Vỗ béo chúng, rồi mang chúng tới đây để bán với giá hời hơn dững nhọ có sức làm việc. Chí ít cũng là dững cái tui nghe nói».
Không bao giờ Kunta khỏi kinh ngạc về việc bác vĩ cầm và ông già làm vườn tỏ tường đến thế về những điều họ chưa từng thấy và những nơi họ chưa từng đến, vì anh nhớ rõ ràng là đã từng nghe cả hai nói rằng họ chẳng bao giờ ra khỏi Vơjinia và Bắc Carolina. Anh đã từng đi chu du nhiều hơn họ biết mấy – không những suốt chặng đường dài từ Châu Phi tới đây, mà cả bao lần đánh xe cho ông chủ đi tới đi lui khắp bang này – thế mà họ vẫn thông tỏ hơn anh nhiều, đến nỗi sau chừng ấy năm chuyện trò với họ, anh vẫn thấy ra nhiều điều mà trước đây anh chưa từng hay biết.
Thực tình, Kunta không băn khoăn lắm khi phát hiện thấy mình kém hiểu biết đến thế, vì đã có bác vĩ cầm và ông lão làm vườn giúp cho anh đỡ u mê đi; song anh vẫn cảm thấy bối rối sâu sắc khi vỡ lẽ ra, qua bao năm, rằng anh vẫn còn thông tỏ mọi chuyện hơn mức người nô lệ trung bình. Qua những điều anh có thể quan sát được, phần lớn người da đen thậm chí hoàn toàn không biết mình ở đâu, chưa nói gì đến mình là ai.
«Tui cược với mình là một nửa số nhọ ở Vơjinia chưa bao giờ ra khỏi đồn điền của chủ». Bel nói vậy, khi anh nêu vấn đề ấy với chị. «Và họ cũng chưa nghe nhắc đến vấn đề nào khác ngoài Richmơnd, Friđirichbơg và miền Bắc, có lẽ thế, mà cũng chả biết những vùng í ở đâu nữa. Người da trắng cốt giữ cho dân nhọ ngu tối không biết nơi mình ở là đâu, bởi vì họ rất lo dân nhọ nổi dậy hoặc chạy trốn».
Kunta chưa kịp định thần lại khỏi nỗi ngạc nhiên khi nghe thấy một điều sâu sắc như vậy thốt ra từ miệng Bel chứ không phải từ bác vĩ cầm hay ông lão làm vườn, thì chị đã nói tiếp: «Mình có tính chuyện trốn chạy lần nữa nếu gặp dịp không?».
Câu hỏi đó làm cho Kunta ngớ ra và hồi lâu, anh không trả lời gì. Rồi, cuối cùng, anh nói: «À, bao lâu nay, tui không có nghĩ gì đến chuyện í».
«Biết bao nhiêu lần, tui ngẫm đến cơ man là chuyện mà chắc chẳng ai ngờ tui màng tới», Bel nói: «Ví như đôi khi tui tưởng tượng mình được tự do, như tui nghe nói nhiều người ở miền Bắc đã được thế». Chị ướm nhìn Kunta. «Bất kể mexừ tốt đến đâu, tui cảm thấy nếu như mình với tui trẻ hơn thế này, thì dám chắc tui sẵn sàng rời bỏ đây đi ngay đêm nay». Trong khi Kunta ngồi ngây ra đó, sửng sốt, chị bình thản nói: «Xem chừng tui đâm quá lớn tuổi rồi và bi giờ sinh nhát sợ».
Như thể Bel đã đọc được ý nghĩ của anh lúc đó về bản thân mình, và điều đó giáng vào đầu anh như một trái đấm. Anh đã quá lớn tuổi, không còn sức để chạy trốn nữa và quá rã rời rồi. Và khiếp nhược nữa. Tất cả những đau đớn và hãi hùng của những ngày, đêm chạy dài khủng khiếp, bỗng trở lại đôi bàn chân phồng rộp, phổi như vỡ tung ra, đôi bàn tay rướm máu, gai góc xé toạc mình mẩy, tiếng sủa của bày chó truy đuổi, nhe nanh gầm gừ, tiếng súng nổ, nhát roi quất nhói buốt, lưỡi rìu bổ xuống. Bất giác Kunta ngụp vào một nỗi ngao ngán mù mịt. Biết rằng chính mình đã vô tình gây nên nỗi đó, đồng thời cũng biết rằng có nói thêm, thậm chí có phân trần này nọ, lại càng tổ nặng nề hơn, Bel chỉ lẳng lặng đứng dậy, về giường ngủ.
Cuối cùng, khi anh nhận ra chị đã đi khỏi, Kunta day dứt cảm thấy rằng trước đây anh đã hiểu lầm chị theo ý nghĩ chủ quan của mình. Và anh xót xa nghĩ mình đã đánh giá thấp Bel cùng những người da đen khác một cách tàn tệ biết bao.
Tuy không bao giờ để lộ ra, chỉ trừ đối với những người thân yêu – mà đôi khi, cả với những người này cũng không – nhưng, chẳng khác gì Kunta, họ vẫn cảm thấy rõ và căm ghét sự áp bức đè nặng lên cuộc đời họ. Cuối cùng, anh đã nhận ra điều đó. Anh ước gì mình có thể tìm ra cách nào để nói cho chị rõ anh ân hận biết bao, anh thông cảm biết bao nỗi đau của chị, anh xiết mấy biết ơn tình yêu của chị, anh cảm thấy mãnh liệt biết chừng nào mối ràng buộc giữa hai người đang ngày một sâu sắc thêm trong anh. Lặng lẽ, anh đứng dậy, vào buồng ngủ, cởi quần áo, lên giường ôm lấy chị và đôi bên cùng nhau ân ái một cách cuồng nhiệt đến tuyệt vọng.