hai nằm viện hai tuần rồi trở ra thành một thằng tập tễnh.
Lúc nó nằm trong viện, hầu như ngày nào tôi, Eik, và Porm cũng đến thăm. Chúng tôi mang kẹo tới và cả bọn khoái trá ngồi chén. Có lúc, mấy đứa buôn chuyện to đến mức y ta phải vào phòng bảo khe khẽ cái mồm. Những ngày đầu Chai vẫn còn tâm trạng để vui vẻ với chúng tôi, nhưng từ khi biết mình không còn có thể đi lại bình thường được nữa, nó ngày càng khổ sở, có lúc còn gào lên chửi bới, nhưng cũng có lúc nằm bất động không nói một lời, như thể trong phòng chỉ có một mình nó. Chúng tôi biết từ lâu rằng Chai luôn muốn trở thành một người lính như bố mình, nhưng những gì xảy ra đã làm tan nát giấc mơ ấy, tan nát mọi thứ mãi mãi.
Dẫu vậy, có người còn thất vọng và đau lòng trước bước ngoặt éo le của số phận hơn cả bản thân Chai, đó là mẹ nó. Bà cứ than khóc không ngừng và cuối cùng thì chúng tôi cũng đã chán ngấy việc cố an ủi bà.
Trong thời gian đó, mải bận với ba đứa kia, tôi không gặp Jom thường xuyên nữa. Chúng tôi không đi bộ cùng nhau vào sẩm tối, cũng không còn tới quán cóc nghe “Chai thời gian”. Cứ như thể tất cả đã bị ném bỏ vào một cái hộp cũ.
Thế rồi, một tối, tôi thấy Jom sánh vai bên một nam sinh lớp mười hai trên con đường quen mà chúng tôi thường dạo bước. Khó mà nói rõ khi ấy tôi cảm thấy thế nào. Một cảm xúc pha trộn giữa khinh thường, cay đắng và đau lòng dâng lên mỗi lần tôi nghĩ đến chuyện ấy. Tôi ít nói chuyện với Jom hơn. Kể cả khi chị ráng bắt chuyện với tôi trong lớp nhạc, tôi cũng kiệm lời nhất có thể.
Porm nhận ra thay đổi ấy trước bất kì ai.
“Cậu với Jom làm sao thế?” Porm điềm nhiên hỏi khi thấy tôi ì ạch kéo hộp đàn vĩ cầm đến chỗ nó với Chai, hai đứa đang ngồi vắt vẻo trên ghế đá bên sân bóng xem Eik luyện tập.
“Chả làm sao cả,” tôi vừa đáp vừa ngồi phịch xuống tràng cỏ nhưng ánh mắt không khỏi đảo về phía tòa nhà nơi Jom đang bước xuống bậc thềm, chú Mean cầm hộp đàn và cặp sách đi ngay sát sau lưng.
“Đừng như con lừa thế.” Porm vừa nói vừa huých khuỷu tay vào sườn Chai. “Chai, mình lêu lêu con là béo kia đi.”
“Để mình yên.” Chai khó chịu quay đi nhìn chỗ khác.
“Cái gì đấy!” Porm gắt lên. “Này, các cậu làm sao thế hả? Bị táo bón hết cả lũ hả? Đứng đấy mình thụi cho một phát.”
“Ra chỗ khác mà lên cơn đi được không?” Chai bực mình đứng lên.
“Không, cậu biến thì có.” Porm sưng sỉa. “Mình ở đây trước cơ mà. Cậu có quyền gì mà đuổi mình đi hả?”
“Cái ghế này là của cậu từ lúc nào đấy?” Chai không chịu thôi.
“Hai đưa thôi đi được không?” Tôi ngán ngẩm lắc đầu. “Cãi nhau như trẻ ranh. Bao giờ hai cậu mới lớn lên được đây?”
“Tức là hẹn hò với con gái như cậu ấy hả?” Chai xỉa xói. “Thế sao cậu còn quay lại chơi với bọn trẻ con này làm gì? Thảo nào mà bà chị ấy đá cậu.”
“Thằng điên này...!” Tôi nhảy chồm lên, nhưng Chai đã nhanh nhẹn kéo cái chân đau đi..
“Béo,” Porm khẽ gọi. Tôi quay phắt lại, đã sẵn sàng cho nó ăn đấm, nhưng khi nhìn thấy nét mặt nó, tôi chỉ biết im lặng ngồi xuống.
“Nghe mấy câu này này,” con bé nói.
“Tình yêu không cho gì ngoài chính nó và không lấy gì ngoài chính nó.
Tình yêu không chiếm đoạt và cũng không bao giờ bị chiếm đoạt;
Bởi tình yêu là đủ cho tình yêu.”
“Là sao?” Tôi bối rối trợn mắt nhìn nó.
“Khalil Gibran,” Porm trả lời, nét mặt trang nghiêm.
“Thì sao? Liên quan gì đến mình?” Tôi cục cằn hỏi, lòng đầy khó chịu.
“Có thể chẳng liên quan gì.” Porm chậm rãi đáp. “Nhưng không chừng nó sẽ giúp cậu hiểu một số thứ hơn.’
“Mình không hứng thú với cái đống thơ thẩn rẻ tiền của cậu.” Tôi túm lấy cặp sách và hộp đàn. “Nếu cậu cứ ăn nói linh tinh như thế, có ngày mình đá cho bay mông.”
“Rồi có ngày cậu sẽ hiểu!” Porm hét với theo tôi. Giọng nó nghe như thủy tinh vỡ. Tôi cúi đầu rảo bước biến thật nhanh khỏi đó, tự nhủ rằng tình cảm của tôi giành cho Jom không giống như Porm nói. Chỉ là tôi không muốn chia sẻ chị ấy với ai và không muốn kẻ khác xâm phạm vào thứ từng thuộc về hai chúng tôi.
Tôi nằm nghiêng nhìn đăm đăm vào chiếc đồng hồ cát đặt trên đầu giường. Chậm rãi, không ngừng nghỉ, những hạt cát chảy xuống như những giọt nước mắt thời gian. Một bản nhạc jazz cũ ngân vang từ cái máy nghe nhạc cầm tay bố tặng mấy năm trước. Tôi còn nhớ hai anh em đã phấn khích nhường nào khi bố mang cái máy về nhà. Trông nó như chiếc cặp táp nhỏ, đen bóng và có mùi mới tinh. Bố đặt nó lên bàn, mở ra, cắm điện, chọn một cái đĩa trong túi giấy rồi lắp vào. Bố vặn mấy cái nút thì đĩa bắt đầu quay. Trong lúc đó, chúng tôi quây quanh cái kì quan ấy mà nín thở chờ tiếng nhạc. Tôi nhớ mang máng bài hát đầu tiên là “Hãy nhớ rằng anh yêu em” của Ken Dodd hoặc một bài của Johny Mathis, ca sĩ nhạc nhẹ mà mẹ rất thích.
Hàng năm trời, cái máy đó nằm ngoài tầm với của lũ trẻ con chúng tôi. Mẹ cất nó tít trong tủ đồ của bà và mỗi khi rảnh rỗi lại mang ra bật như thể đó là một chương trình vô tuyến hay phát thanh riêng.
Tôi và Ning thường ca cẩm sau lưng mẹ về tính ki bo của bà, nhưng bố rời đi rồi, mẹ để máy nghe nhạc trong phòng khách và không bao giờ đụng đến nó nữa, cũng không la mắng khi hai đứa bật nhiều đến mòn cả máy. Cuối cùng, khi mẹ vác chiếc đài stereo từ nhà bà ngoại về, cái máy con này được chuyển lên phòng tôi cư ngụ cho tới tận bây giờ.
Có tiếng gõ cửa và giọng Ning vang lên. “Anh Nat, em vào được không?” Tôi rời mắt khỏi đồng hồ cát, ra mở cửa. “Sao chưa ngủ?” tôi hỏi khi nó bước vào phòng.
“Em chẳng buồn ngủ,” Ning đến bên cửa sổ lơ đãng nhìn vào bóng đêm bên ngoài.
“Lại lây bệnh của mẹ rồi,” tôi vừa trêu con bé vừa khép cửa rồi tới đứng cạnh nó.
“Chẳng biết nữa.” Ning lắc đầu. “Nhưng em không nghĩ thế.”
“Có chuyện gì à?” Tôi tì tay lên khung cửa, nghi ngại nhìn em gái. Ning nổi tiếng là nhắm mắt cái là ngủ ngay. Một khi nó buồn ngủ, nó mặc kệ mọi thứ xung quanh. Tôi còn nhớ có năm vào đêm Wachirarwut, nó tựa vai bố ngủ suốt lễ hội, nhưng vừa về đến nhà thì nó thức giấc làm ỏm tỏi lên, đòi đi chơi hội lại.
“Anh có để ý thấy mẹ có gì lạ không, Nat?” Ning hỏi mà không quay lại nhìn tôi.
“Không,” tôi lắc đầu. “Sao thế?”
“Dạo này tối nào mẹ cũng về nhà muộn.” Ning quay sang tôi. Đôi mắt nó chất chứa ưu tư muộn phiền. “Đến giờ này mẹ còn chưa về.”
“Chắc mẹ đang lo công việc gì đấy thôi,” tôi an ủi nó và tự thấy bản thân dạo này ít quan tâm tới mẹ và Ning: về đến nhà là tôi chui vào phòng đóng cửa một mình.
“Nhưng em nghĩ là mẹ thay đổi,” Ning nói như tự lầm bầm với chính mình. “Mẹ ăn mặc gọn gàng hơn. Mẹ cũng có nhiều quần áo mới, lại còn tối nào cũng có xe hơi đưa về.”
“Ái chà, xem ai trinh sát tốt chưa kìa!” Tối khẽ vò mái tóc xoăn của nó. Chẳng ai hiểu vì sao tóc nó lại xoăn như vậy, nhưng bố mẹ từng tranh cãi về chuyện này khi mẹ cố là thẳng tóc nó còn bố nhất quyết không chịu. Khi bố vui vẻ, ông sẽ chải tóc con bé cho tới khi tóc nó xù tung như cây chổi của Chú hề Bozo, rồi Ning sẽ đi đi lại lại, nhảy tưng tưng hoặc liếc xẹo mắt trong khi mẹ chán chường ngó đi chỗ khác.
“Em không biết.” Ning lùi lại. “Có thể chẳng có chuyện gì cả.”
“Thế này đi,” tôi đến bên máy nghe nhạc thay đĩa, nhìn Ning trong lúc cân nhắc. “Bọn mình xuống dưới nhà cùng đợi mẹ về.”
Ning liếc nhìn đồng hồ để bàn đặt bên giường rồi chậm rãi gật đầu.
Ti vi đã hết chương trình từ lâu mà mẹ vẫn chưa về. Tôi ngáp dài, ngả người nằm xuống ghế mây và với cái gối nhỏ kê đầu. Trong lúc đó, Ning ngồi đọc sách trên sàn, nhưng mắt nó vẫn liên tục hướng ra cửa.
“Đang đọc gì đấy?” tôi hỏi vu vơ.
“Cuốn Người mẹ của Maxim Gorky,” nó đáp rồi giơ cuốn sách lên cho tôi nhìn.
“Nghe nhạc không? Anh đi lấy máy nghe nhạc cho.”
“Thôi,” nó đáp. “Em muốn yên tĩnh hơn.”
“Ning,” tôi khẽ gọi nó. Nó ngơ ngác quay lại nhìn tôi. “Anh nhớ bố.”
“Em cũng thế,” nó gập sách lại để xuống sàn. “Bố mà ở đây đêm nay thì tốt bao nhiêu.”
Bên ngoài, gió thổi mạnh khiến cửa sổ cứ kẽo kẹt liên hồi. Tiếng côn trùng đêm vỗ cánh mơ hồ vẳng lại từ xa, thoảng cùng hương đất ẩm và mùi cỏ khô.
Tôi nhớ lại một đêm hồi chúng tôi còn sống trong căn nhà cũ bên sông. Mẹ vừa cãi nhau với bố và bỏ nhà đi được mấy tiếng. Khi đêm xuống, ba bố con tôi nằm thao thức trong màn. Chúng tôi lắng tai nghe tiếng lá khô lạo xạo rồi lại nhìn nhau thất vọng khi nhận ra không phải bước chân mẹ về. Khi một con thằn lằn mắt đỏ rực bò lên xà nhà trên đỉnh màn kêu “Tắc! Tắc!”, bố quàng tay ôm chặt hai đứa. “Bố,” tôi khẽ gọi, trong khi mắt vẫn nhắm nghiền. “Mẹ đi đâu thế bố?” Bố lặng đi một lúc, rồi trả lời, giọng nửa đùa nửa thật: “Mẹ đi gặp người yêu mới rồi.” “Con không chịu đâu!” Ning bực bội. “Con sẽ lấy gậy đánh vào đầu ông người yêu mới.” “Con cũng thế,” tôi vội vàng hùa theo. “Con sẽ bắn chết ông ta.” “Đừng vội vàng,” bố nói. “Mình phải có kế hoạch cẩn thận. Bố sẽ để một cái vỏ chuối ngoài cửa. Khi ông ta trượt vỏ chuối ngã, thùng nước mình treo trên cửa sẽ rơi trúng đầu ông ta. Khi đó con có thể chạy đi kiếm gậy, Ning, còn Nat thì chạy đi mua súng.” “Cả chó nữa!” Ning phấn khích. “Chúng ta sẽ xùy chó cắn ông ta.” Hai anh em quên khuấy luôn con thằn lằn mắt đỏ và những lo lắng trong lúc đợi mẹ về, mải mê hứng thú lập kế hoạch trừ khử gã người yêu mới của mẹ thế nào cho tới khi ngủ thiếp đi. Sáng hôm sau tỉnh dậy, đã thấy bố mẹ ngồi đợi bên bàn ăn sáng. “Người yêu mới của mẹ đâu?” Tôi hỏi mẹ. “Con sẽ tự tay đánh chết ông ta,” Ning hăng hái tuyên bố. Biết ngay chuyện gì đã xảy ra, mẹ lập tức gây sự với bố. Hai người lại mắng chửi nhau đến tím cả mặt và đĩa bát lại bay đi các hướng. Lần này bố là người lao ra khỏi nhà mất mấy ngày không về, bỏ lại tôi và Ning ôm nhau sợ rúm mỗi lần con thằn lằn mắt đỏ rực trèo lên xà nhà buông ra những tiếng ghê người.
Điện thoại đột ngột đổ chuông, phá vỡ bầu tĩnh mịch. Cả hai chúng tôi giật mình lao đến bên nó.
“A lô?” Ning sốt sắng. “Mẹ đấy ạ?”
“Mẹ, con Nat đây.” Tôi giằng lấy ống nghe.
“Đêm nay mẹ không về nhà đâu Nat,” giọng mẹ nghèn nghẹt. “Chúng mày làm gì mà giờ này chưa ngủ? Mai không dậy đi học được bây giờ.”
“Mẹ?” tôi nuốt nước bọt. “Mẹ đang ở đâu đấy?”
Ning vội vã áp tai vào ống nghe.
Mẹ im lặng một hồi, rồi đáp khẽ: “Mẹ đang ở nhà bác Amorn. Hai đứa đừng lo.”
Tôi còn định nói tiếp thì mẹ đã dập máy. Những tiếng bíp bíp nghe như tiếng cười mỉa mai. Tôi uể oải đặt ống nghe xuống.
Ning lặng nhìn tôi rồi tóm lấy quyển sách chạy lên gác không nói một lời.
Chương 8
ôi vẫn nhớ ngôi nhà cũ bên sông. Đó là một ngôi nhà gỗ hai tầng sơn màu lục sẫm, mái ngói bằng, ba chái. Một dải họa tiết được đục theo đường viền mái, và khi ánh mặt trời chiếu qua các họa tiết, nó tạo thành những bóng nắng nghiêng nghiêng trên giường hay sàn nhà. Mái nhà được lợp những viên ngói kiểu cũ. Hai anh em tôi thích nhặt những mảnh ngói vỡ liệng xuống sông. Nếu vẩy cổ tay chuẩn xác, mảnh ngói sẽ chỉ chạm sượt qua mặt nước rồi lại nẩy thêm một đoạn khá xa.
Sàn nhà lát những tấm gỗ lớn, được mẹ lau chùi nhiều nên láng bóng. Thỉnh thoảng, mẹ mua dầu hỏa về rồi bảo tôi và Ning thoa khắp sàn. Như thế sàn không chỉ bóng lộn mà còn trừ được những con côn trùng nhỏ sống trong các khe gỗ.
Còn một thứ nữa tôi vẫn còn nhớ rất rõ là những bậc thang, chúng cao tới nỗi tôi với Ning phải trèo từng bậc một, và đã có lần Ning bị ngã lộn cổ từ trên cầu thang xuống, phải băng đầu mấy ngày liền.
Sau nhà có một con mương nhỏ nông choèn. Mấy con cá lon mây với đôi mắt lồi và bộ vây ngắn vẫy vùng trong bùn lầy bên bờ. Vào mùa mưa, những con thuyền nhỏ có thể chèo qua đó. Thỉnh thoảng cũng có cả thuyền bán than hay nước mắm. Những lúc ấy, bùn từ dưới đáy sủi lên trên mặt nước, làm cả con mương đen sì bốc mùi nồng nặc.
Tôi và Ning thích nhất là dùng vợt cá có tay cầm dài để chụp cá nhái. Anh em tôi chỉ bắt mấy con to đuôi đỏ, cho vào bát rồi ngắm nhìn chúng lanh lẹ bơi vòng quanh, nhưng chẳng được mấy chốc thì chúng lao đầu như điên vào thành bát cho đến khi miệng nứt toác ra. Chẳng ai biết tại sao chúng lại làm thế. Có thể cố tìm đường thoát, hoặc cố chống cự, hoặc chúng đang phát điên lên vì bị giam hãm trong một cái bát chật chội.
Có đôi lần tôi thấy con songkrarn. Đó là những con giun đỏ nom giống sợi chỉ bò thành từng bầy như những đoàn thương lái dọc theo dòng nước vào mùa khô. Thoạt nhìn trông chúng giống con rắn, hoặc những con trăn huyền bí trong một câu chuyện cổ. Nếu ta ném thứ gì đó vào chúng, chúng lập tức tán loạn như ong vỡ tổ, nhưng ngay sau đó nhanh chóng tụ lại tiếp tục cuộc hành trình bất tận.
Có một loài gắn liền với căn nhà, đó là thằn lằn. Tôi chưa bào giờ đếm xem có bao nhiêu con, nhưng tôi biết là rất nhiều, con sau to hơn con trước, và tất cả đều xấu xí, đáng sợ không thể tả nổi. Chắc chúng dọn tới đây từ lúc nhà mới xây. Ban đêm chúng lần mần bò khắp quanh tường và trên trần nhà, ban ngày thì nấp sau các cột và cửa sổ. Chỉ một cái vẫy đuôi hay tiếng kêu rùng rợn của chúng đã đủ làm hai anh em tôi run bắn lên vì sợ và gặp ác mộng.
Bởi bọn thằn lằn là những tên phản diện hung ác nên người hùng của chúng tôi, hoặc có thể gọi nhà vô địch của chúng tôi thời ấy, là Già Jan. Già Jan chèo thuyền kiếm sống. Già quấn một cái xà rông cũ quanh hông và vắt chiếc khăn ca rô qua vai hoặc buộc quanh đầu khi chèo thuyền. Tôi chưa bao giờ thấy Già mặc áo. Nhưng những hình xăm đủ kiểu trên bộ ngực răn reo và đôi bắp tay đã nhão khiến Già trông thật cổ xưa. Khi không có khách, Già Jan thường neo thuyền ngồi nghỉ trên căn chòi bên bến đỗ. Có lúc Già uống rượu gạo và nhấm quả me, có lúc Già lơ đãng nhìn dòng nước, lúc khác lại ngêu ngao những khúc dân ca về tình yêu và mất mát.
Già Jan không đi đâu mà thiếu cây ba toong bịt thiếc của mình. Người ta kể rằng thời trai trẻ Già đã đập vỡ đầu không biết bao nhiêu kẻ, nhưng mà vào thời điểm mà tôi đang nhớ tới thì Già chỉ dùng nó để bước cho vững những lúc say túy lúy, dọa đám chó sủa dọc đường và, quan trọng nhất, Già thường dùng nó làm vũ khí diệt lũ thằn lằn.
Già Jan rất thân với bố. Già hay qua chuyện phiếm với bố và ra về cùng những con thằn lằn xấu số. Phương thức mà Già sử dụng để kết liễu lũ thằn lằn khiến bọn trẻ chúng tôi vô cùng hứng thú. Mỗi khi tia thấy con nào, Già liền gắn mẩu thuốc lá lên đầu cán phất trần và chọc con thằn lằn cho tới lúc nó điên tiết quay lại ngoạm mẩu thuốc. Một khắc sau, con vật say lử đử không còn bám nổi vào trần, rơi bịch xuống sàn. Đó là lúc tôi và Ning hét váng lên chạy ra nấp sau lưng bố mẹ. Còn Già Jan thì buông phất trần, tóm lấy cây gậy, ấn cái đầu gậy bịt thiếc lên cổ con thằn lằn và buộc một dải lá chuối ướt thành chiếc thòng lọng thít chặt quanh cổ nó rồi treo nó ra ngoài hiên, mặc nó giãy giụa cho tới tàn hơi. Còn Già quay vào nhà uống rượu với bố như không có chuyện gì xảy ra. Đến lúc về, Già túm lấy con thằn lằn, lôi nó khỏi hiên ném xuống dòng sông. Có những khi cao hứng, Già dùng gậy nện con thằn lằn cho tới khi máu bắn tung tóe và tôi sẽ có nhiệm vụ ghê tởm là lau cho sạch vết máu sau khi Già kéo xác con vật khỏi đó.
Già Jan chết đuối trong một đêm mưa nặng hạt. Thuyền của Già đâm vào một cái ca nô ở giữa sông. Mấy ngày sau, người ta thấy thi thể của Già dạt vào bậc thềm của tu viện phía Nam. Nhà tôi tới phụ một tay trong đám tang. Mẹ nói đó chính là nghiệp Già phải gánh vì đã chồng chất không biết bao nhiêu thằn lằn cho Hà bá, nhưng bố thì bảo cả đời Già gắn với sông nước nên âu cũng là sinh nghề tử nghiệp. Tôi chẳng biết ai đúng ai sai, nhưng có một điều chắc chắn là, khi Già Jan không còn nữa, lũ thằn lằn vốn đã ít đi một thời gian giờ trở lại hùng mạnh và không ai còn đủ can đảm loại bỏ chúng nữa.
Tôi xuống xe buýt ở bến cuối rồi thả bước trên cái cầu gỗ ọp ẹp, đi về phía bến thuyền. Đã nhiều năm rồi tôi không quay trở lại đây dù lúc nào tôi cũng nghĩ về nơi này. Ngôi nhà cũ nơi gia đình chúng tôi từng sinh sống đã bị phá dỡ từ lâu. Nhiều thứ đã đổi thay theo thời gian. Không còn những dãy hàng quán lụp xụp, không còn quán của ông người Tàu bán ổi dầm, có bàn tay vàng vọt như tay người chết, mất hết cả móng tay; không còn cả bác Daeng đun bếp bằng củi ướt khói mù mịt và rán chuối trên chiếc chảo lớn xèo xèo cả ngày. Bây giờ chỗ này đều là những cửa hàng mới tinh, một cửa hàng sửa xe ba bánh inh tai tiếng thử động cơ, và một hàng bánh buồn tẻ. Tôi e rằng mình đã bị tách rời hoàn tòa khỏi quá khứ.
Tôi ngồi xuống chòi nghỉ bên bến thuyền nhìn nước sông sóng sánh đập vào sườn những con thuyền đuôi dài đang nối nhau cập bờ. Tất cả những cây lamphu bên rìa nước đã bị đốn bỏ. Đám đom đóm hẳn phải cảm thấy lẻ loi lắm, và buổi tối của bọn trẻ ngày nay bởi thế mà cũng buồn tẻ hơn. Tôi rời ánh mắt khỏi bờ sông nhìn về cái nơi từng sừng sững một ngôi nhà gỗ mái bằng màu lục sẫm và thấy khó lòng mường tượng lại nó trong tâm trí. May sao, cây me tây vẫn tỏa bóng ở đó dù trông nó giờ già cỗi và rệu rã đi nhiều.
Cây me tây nhắc tôi nhớ đến Ning và một cậu con lai tên Johnny. Bố Johnny là người da trắng tóc vàng cao lớn. Tôi không biết chú là người nước nào, vì trong mắt chúng tôi thời đó tất cả người da trắng trông đều na ná nhau. Mẹ Johnny là người Philippin, nói tiếng Thái bập bõm. Khi họ chuyển đến sống kế bên nhà tôi, Johnny chừng năm tuổi rưỡi. Nó còn có một đứa em gái bé tí rất hay khóc nhè. Johnny không nói được tiếng Thái, nhng nó cũng cố gắng kết bạn được với Ning. Hai đứa nó cùng chơi, cười đùa vui vẻ với nhau, trong khi cô em gái nhỏ của Johnny luôn lẽo đẽo theo anh nó khắp mọi nơi. Còn tôi thì đã quá lớn không thể chơi búp bê hay mấy trò con nít đó nữa.
Johnny làm một căn nhà nhỏ bằng thùng gỗ dưới gốc cây me tây. Nó trộm sơn trắng của bố sơn được một mặt thì bị nện một cú khiến nó la oai oái, và mặt nhà đó vẫn giữ nguyên màu trắng cho tới khi cả căn nhà mục nát. Tôi không biết Johnny bày tỏ với Ning bằng cách nào nhưng con bé kể với tôi rằng cậu bé hứa lớn lên sẽ cưới con bé và xây cho nó một ngôi nhà thật ngay bên gốc me tây.
Ngày gia đình Johnny chuyển đi, cả hai đứa đều ảo não lắm. Ning đứng bám chặt hàng rào, trơ trọi nhìn bố mẹ Johhny chất đồ lên chiếc xe tải nhỏ. Còn Johnny thì lien tục lấy tay quệt nước mắt. Khi xe tải sắp chuyển bánh, nó chộp lấy con búp bê của em gái chạy tới đưa cho Ning. Hai đứa bị rịn lâu lắm mới chịu chia tay, và Ning tin rằng một ngày nào đó Johnny sẽ quay lại tìm nó, cưới nó và xây cho nó một ngôi nhà thật. Nhưng từ đó chúng tôi chẳng còn hay tin gì về Johnny nữa.
Tôi vẫn nhớ ngày chúng tôi phải chuyển nhà. Đầy nâng niu, Ning mang con búp bê mà Johnny tặng nó chậm rãi đặt vào hốc cây me tây và bảo búp bê ở đó chờ Johnny về để báo cho thằng bé biết chúng tôi đã chuyển nhà.
Bố luôn dặn dò tôi phải chăm sóc em gái vì chúng tôi chỉ có nhau. Ông không bao giờ nhắc đến mẹ, không bao giờ nhắc tôi phải nghe lời mẹ hoặc chăm sóc mẹ khi tôi lớn. Tôi không bao giờ hiểu được nguyên nhân vì đâu, chỉ có thể thầm nhủ rằng bố lo lắng về tôi và Ning hơn là về mẹ.
Sự nghiệp của bố như một đồ thị đầy thăng giáng. Ông chuyển việc thường xuyên và dù làm bất cứ thứ gì ông cũng thích nghi rất nhanh, nhưng không bao giờ trụ được lâu; lúc nào cũng có sự gì đó khiến ông mất việc và lại vất vả tìm việc mới. Đôi khi chúng tôi sống như giới thượng lưu, dùng bữa ở một nhà hàng sang trọng, suốt ngày tới nhà hát và rạp chiếu bóng, hầu như cuối tuần nào cũng lên rừng xuống bể dã ngoại. Nhưng cũng có những lúc chúng tôi phải sống tằn tiện, mua từng nắm gạo để bỏ vô nồi và từng cút rượu Siangchun cho bố sống qua ngày, nhưng bất kể khổ sở thế nào, bố cũng không bao giờ cho phép bản thân nom tuềnh toàng. Mỗi khi ra ngoài bố vẫn diện quần áo đẹp, đi giày da bóng loáng và cười vang như thể ông không có gì phải lo lắng trên đời.
Mẹ bảo chúng tôi đó là đặc trưng của đàn ông cung Sư tử, những người kiêu ngạo, yêu cái đẹp và thích tiện nghi, dễ bị quyến rũ và không quan tâm tới gia đình. Bà rất tin vào chiêm tinh và tới lượt chúng tôi tin rằng tính mẹ ngoan cố bướng bỉnh như vậy là bởi bà sinh dưới ánh sáng của chòm Kim Ngưu.
Nếu những ngôi nhà biết nói, tôi chắc ngôi nhà của gia đình chúng tôi có nhiều chuyện để kể, không chừng là những chuyện tôi chưa bao giờ hay biết hoặc đã lãng quên. Điều lạ lùng là tôi cứ luôn nghĩ về căn nhà này và cảm thấy cơ hồ mình vẫn đang sống ở đó, không lớn lên nổi, mặc dù chẳng còn gì sót lại nữa, bản thân ngôi nhà, cả cái mái chạm trổ nhô ra, những viên ngói, những con thằn lằn, tiếng cười hay tiếng khóc.
Khi nhìn những gì còn sót lại của chòi nghỉ trên bến thuyền ngày nay, tôi không hiểu sao mình lại tìm đến đây, chỉ để nhận ra mọi thứ đã thay đổi và làm tổn thương đến những kí ức của chính mình thay vì cứ giữ chúng vẹn nguyên trong một góc bí mật của tâm hồn như trước. Có thể tôi cô đơn quá và cần một ai đó, một cái gì đó, mang đến cho tôi chút hơi ấm và yêu thương. Cũng có thể chỉ là tôi nhung nhớ tuổi ấu thơ thuần khiết và ngây ngô, hoặc có lẽ chỉ là tôi đang huyễn hoặc những thứ ấy mà thôi.
Tôi cố gắng níu giữ thời gian để nó trôi đi càng chậm vàng tốt. Tôi lặng ngắm hết con thuyền này đến con thuyền khác đi qua và bị hút hồn bởi những chiếc sà lan gạo chất cao đến tận mép, được kéo thành những chuỗi dài không dứt như hàng đoàn học sinh thẳng hàng ngay lối nối đuôi nhau.
Hôm đó bữa trưa của tôi là một bát bún bán trên thuyền ngon tuyệt. Tôi tháo giày tất ngồi trên bậc thềm, vừa đung đưa chân dưới nước vừa ngấu nghiến đến sợi bún cuối cùng. Tôi không chắc người Tàu bán bún kia vẫn là người bán bún năm xưa. Chúng tôi chỉ nói với nhau vài câu. Trông ông ta mệt lả nhưng vẫn luôn mỉm cười. Dù đôi mắt ông rất kém nhưng vẫn ánh lên niềm hi vọng.
Tôi về nhà vào lúc trời sẩm tối sau cả một buổi chiều lang thang vô định. Tôi chán ngấy bản thân mình, trường lớp, gia đình, chán ngấy mọi thứ. Tôi chỉ muốn bỏ trốn tới một nơi xa thật xa và quên đi tất cả.
Ning chưa đi học về, mẹ cũng không có nhà. Tôi tự hỏi không biết từ đêm qua tới giờ, mẹ đã tạt qua nhà chưa. Ngôi nhà tĩnh mịch và cô độc, như thể nó chỉ là một cái thùng các tông cũ dùng để chứa những thứ đồ bỏ đi. Tôi quẳng cặp sách lên bàn phòng khách, kéo tất ra ném sang một bên rồi thả người xuống ghế mây. Thứ gì đó đã thay đổi trong căn nhà này, nhưng tôi không rõ đó là gì. Gió luồn lách qua các khe tường nứt khiến căn nhà vốn mát mẻ nay trở nên lạnh lẽo - lạnh thấu xương. Tôi chỉ không muốn đối diện với sự thật rằng tôi đang ở đây một mình.
Tôi mơ màng về bãi biển cát trắng xóa bên bố, mẹ và Ning cười đùa vui vẻ, mơ về những đêm bố nằm ôm tôi và Ning kể chuyện hài, mơ về những lúc hai anh em gối đầu trên đùi mẹ tận hưởng bàn tay mẹ vuốt tóc chúng tôi quá đỗi dịu dàng...
Nhưng rồi một lần nữa, tôi lại choàng tỉnh, bởi vì những giấc mơ ấy của tôi sẽ không bao giờ thành sự thật.