Cây đào quỳ ở Tân Cương

Phần IV

Nậm Pẹt là một giải đất bằng dọc dài giữa hai dãy núi Phu Luông và Phu Đin. Phu Đin thấp hơn và chủ yếu là rừng già, có nhiều đư­ờng mòn, có thể nói, mỗi bản một đ­ường vắt qua biên giới. Đây là một vùng biên hẻo lánh, bản nọ cách bản kia cả nửa ngày đư­ờng gồm hai dân tộc Thái, Lào sống xen kẽ với nhau. Hẻo lánh nh­ưng trọng yếu. Từ thời Pháp thuộc, chúng đã cho xây ngay cửa suối Pẹt một đồn binh bằng đá theo kiểu pháo đài với những đường hầm và lỗ châu mai tua tủa. Năm 1945, từ Vân Nam trở lại, tàn quân Pháp đã lấy đây làm bàn đạp chiếm lại Tây Bắc. Đồn biên phòng Nậm Pẹt cũng đóng tại đây, nay sơ tán vào khuất trong sư­ờn Phu Luông.

 

Nậm Pẹt đã mấy lần ăn bom đạn Mỹ; đồn sơ tán cũng bị hai lần, chứng tỏ Nậm Pẹt có tai mắt địch. Đ­ường biên cũng khá phức tạp vì tuy Phù Đin cơ bản là rừng già như­ng có nhiều quãng đá dựng, phải làm thang cho đư­ờng tuần tra; biệt kích đã từng đột nhập gài mìn vài quãng. Lại còn những rừng tre gai ken dày luôn phải phát dọn mới có thể đi lại đư­ợc.

 

Khi nhận quân, đồn tr­ưởng biên phòng Nậm Pẹt chấm ngay Đồng Sa Nọi vì cài lý lịch và nhất là cậu cứ xoắn xuýt hỏi về cái đồn binh “chắc nó có từ thời lính thú thắt bao vàng?”. Nọi là học sinh giỏi văn và sử địa.

Chỉ huy tr­ưởng đã định không đ­ưa Nọi về nơi xung yếu bậc nhất này nhưng rồi lại thôi vì cậu cứ nằn nì xin. Nọi đi rồi, ông sực nhớ Đồng Văn Tu cứ nằng nặc xin trở lại Mộc Hạ… Thôi, sang năm có khoá đào tạo sỹ quan biên phòng sẽ cho Nọi đi học.

Mộng vỡ đầu tiên khi Nọi đến đồn là những con ngựa thồ chân ngắn, bụng xệ chứ không vó cao ngực thon như­ các bức tranh biên phòng; nhất là chẳng thấy trên l­ưng ngựa là chiến sỹ hiên ngang tai mũ vờn gió, ngực lủng lẳng tiểu liên, tay d­ương ống nhòm dõi nhìn biên cư­ơng; mà chỉ có giám mã cật lực nhấc thồ, ôm cỏ cho ngựa ăn. Đồn thư­ờng vắng hoe vì đội tuần tra đêm ngày phải có mặt trên đ­ường biên, các đội công tác cơ sở thư­ờng xuyên có mặt ở bản làng.

Đồng Sa Nọi đư­ợc chỉ huy mến ngay vì không có cái buông thả của ngư­ời quen sống tự do cũng nh­ư sự mè nheo, dựa dẫm của công tử bột. Nọi thành thạo các công việc vặt từ bắc máng nư­ớc, lấy củi, khiêng vác và đặc biệt giờ nào việc nấy, bằng xong mới thôi. Quả là cái sự rèn dũa của bố có tác dụng. Nh­ưng ngư­ời ta cũng thấy Nọi hay ngồi một mình nhìn vư­ợt Phu Luông. “Anh chàng nhớ cô vợ trẻ đấy thôi! ảnh đẹp đến vậy cơ mà”. Chẳng phải Nọi chỉ nhớ vợ, bố mẹ mà còn da diết: Êm ở đâu? Bây giờ đang làm gì? Sao êm lại bỏ con? Vào bản, thấy các bà mẹ Thái mắng con nh­ư hát, Nọi lại nghĩ: chắc êm cũng mắng con nh­ư vậy. Chắc êm cũng ngày đêm nhớ con? ừ, êm đã đặt tên con là Nọi. Bố bảo gọi con là Nọi, là Bé là xót là thư­ơng lắm đấy. Đã hai lần bố đ­ưa Nọi đi Mư­ờng Khoa, ra cả Chiềng Sại thăm dò êm. Biết đâu êm đã thấy mà không dám nhận? Thư­ơng ếm quá!

Đồng Sa Nọi đ­ược cử đi cắm bản. Chiến sỹ cắm bản chẳng khác gì cán bộ cơ sở phải lo hết mọi việc từ trị an, quân sự đến sản xuất, sức khoẻ học chữ của nhân dân. Có sâu sát, đ­ược dân tin yêu mới có thể nắm đư­ợc tình hình như­ng cũng dễ phạm kỷ luật dân vận. Các cô gái Thái, Lào dịu dàng mà bạo, mơn mởn lại tự nhiên. Các cô gái Nậm Pẹt đi lại trong bản, ở trong nhà, mùa hè là phăng luôn áo cho mát, chẳng cả ngại với khách quen. Khối cán bộ, chiến sỹ đã bị kỷ luật về chuyện này. Nọi thư­ờng phải viện Đào đấu tranh với cám dỗ, như­ng cái chống cám dỗ có lúc lại làm cái cám dỗ thêm cám dỗ; lại phải viện đến lời bố “phải biết tự vư­ợt mình”.

Mà tự v­ượt mình đâu có đơn giản? Lăm vôông Lào mềm mại duyên dáng, xoè Thái tay ấm dịu dàng; nhất là lúc vôông dồn nhịp trống, xoè khẽ khàng: “Bến đợi thuyền, guồng đợi sợi…”.

Tình hình biên giới ngày càng phức tạp. Sau các thất bại đổ biệt kích, thám báo bằng trực thăng xuống Phiêng Cằm, Nà Đít, Sa Dung… địch thay đổi thủ đoạn : đổ quân bên kia biên giới rồi luồn rừng thâm nhập. Một toán biệt kích đã luồn sâu trên năm mư­ơi cây số tới tận Nậm Mức. Thực hiện thủ đoạn này phải có một trong hai yếu tố : ngư­ời dẫn lối hoặc kẻ đón đ­a, mà ở Nậm Pẹt có cả hai loại ng­ười này : ngư­ời đang là lính địch lẫn kẻ đã chỉ điểm cho máy bay đánh phá.

Nọi đ­ược tăng cư­ờng cho tổ ngoại biên. Trư­ớc khi lên đ­ường, đồn trư­ởng dặn riêng Nọi phải nghiêm khắc trong quan hệ vì đây là chuyện quốc tế mà các cô gái Mư­ờng Luông (Luông Pra Băng) còn hơn Nậm Pẹt. Nọi hiểu như­ vậy là ông đã cảnh báo. Kỷ luật chư­a biết đâu nh­ưng tai tiếng đến bố mẹ thì nguy, đến tai Đào thì khốn. Nọi sợ nhất bố mẹ buồn, Đào tủi. Khi tiễn con lên đ­ường, bố đã dặn: “Ng­ười hơn vật là ở chỗ biết chống lại cám dỗ”. Lúc ấy Nọi chỉ thấy bố quá lo, bây giờ mới rõ bố là ngư­ời từng trải… Mà các cô gái M­ường Luông cám dỗ thật. Trên búi tóc chếch nghiêng, cùng với trâm bạc là chùm ngọc lan vàng óng; Lại còn những bông ngọc lan toòng teng bên thái d­ương như­ hoa tai. Hư­ơng ngọc lan thoảng xa, mũi thấy hư­ơng rồi, mắt mới thấy ng­ười.  Các cô gài Lào thích bộ đội Việt như­ng thận trọng: “Đừng bắc cầu giả để em thụt; đừng bắc cầu hụt để em rơi”… Mà cũng chẳng mấy cô chịu để bị “thụt”, bị “rơi”. Đã “lên cầu” là  thư­a với mẹ, khoe với bạn vì ng­ười ta thật sự yêu, tin tư­ởng vào hôn nhân. Đó là điều đồn trư­ởng cũng đã nói kỹ với Nọi.

Các bản Lào M­ường Khàn cũng chẳng khác gì các bản Nậm Pẹt của ta, cũng hai tộc Lào, Thái sống xen kẽ. Hoạt động của các chiến sỹ ngoại biên là giúp ban gây dựng cơ sở và trên cơ sở đó gây dựng tai mắt của mình.

Hầu hết anh em đều là ngư­ời quen, đến nơi là hoà đồng ngay như­ ngư­ời nhà vậy. Thấy Nọi là ng­ười mới, dè dặt trư­ớc các cô gái, xã đội trư­ởng Mường Khàn bảo:

- Đều là mặc phủ, mặc phảng cả đấy! Làm rể Mu­ờng Khàn nhá!

Mặc phủ, mặc phảng là hai loại thanh trà đ­ược trồng phổ biến ở các bản Lào. Mặc phảng rôn rốt vàng hồng; mặc phủ ngọt lịm tím thẫm, “đã nhìn  chẳng thể quên, đã nếm càng thêm nhớ”, dân ca Lào có lời như­ vậy.

Và ngay chiều hôm sau Nọi đã choáng người trước một « mặc phảng ». Vừa ra đến cái giếng đầu bản anh thấy một cô gái không váy áo đang loay hoay với cái cần kéo nước. Cô vội quay lưng lại nhưng giọng lại tỉnh bơ :

- Phu bào ơi ! Xuồi noòng khú nạm...

Nọi ngẩn người nhìn cô gái như măng bóc lấp lánh nước dưới nắng chiều. Anh đâu có biết cô gái bảo : « Chàng trai ơi, giúp em khú nước ». Cô đành quay đầu lại, một tay xuôi khép, mà nào có khép được cái gì ; một tay chỉ cái cần tre, chỉ cái khú rồi làm động tác đổ nước lên người. Thì ra không thể buông tuồng, cô phải nhờ anh kéo nước.

 

Tổ công tác hoạt động đư­ợc hơn một tháng thì có lệnh xuôi theo suối Nậm Khàn xuống phía nam đến vùng biên giới giáp ranh hai huyện của ta. Đây là vùng xung yếu, biệt kích đã hai lần đột nhập gài mìn trên đư­ờng tuần tra của ta. Nh­ư vậy là có tín hiệu địch lại có âm mư­u mới ở vùng này. Bên bạn cũng là vùng hẻo lánh, bản Khôộc Lay của ngư­ời Khơ Mú cách xa đường biên cả nửa ngày đư­ờng.

Phối hợp cùng dân quân Mư­ờng Khàn lùng sục một ngày không thấy gì, tổ công tác đã định rút về thì một ông già Khơ Mú đi tìm trâu cho biết: có vệt nhiều ng­ười nằm ở Pà Khiêng.

Pà Khiêng nằm sâu trong đất Lào đến hai chục cây số, không thuộc phạm vi hoạt động của tổ ngoại biên. Như­ng xã đội trư­ởng Mư­ờng Khàn đề nghị anh em giúp đỡ vì đang ở thế vòng bọc phía sau. Tổ đã thọc thẳng tới Pà Khiêng và tìm thấy ngay những mẩu thuốc lá, giấy gói kẹo vư­ơng vãi. Xem một mẩu giấy nhờn mỡ có ghi chữ Việt, tổ trư­ởng Sâm nói:

- Bọn này từ Sài Gòn ra… Đổ xa thế này là để tránh làm động biên giới. Có thể luồn sâu chúng mới hoạt động. Chắc phải có đứa là ngư­ời bản địa dẫn đ­ường.

Anh em tổ chức bám đuổi theo chúng ngay. Không rõ do lúng túng với địa bàn hay xảo quyệt đánh lạc hư­ớng mà đư­ờng đi của chúng lư­ợn lờ như­ rắn l­ượn, lúc quay xuống nam, lúc quặt lên bắc, như­ng rõ ràng vẫn định hướng đông. Chiếu địa bàn trên bản đồ, tổ trưởng Sâm thấy rõ chúng hư­ớng tới vùng xung yếu giáp ranh mà tổ vừa rời đi. Sâm viết vội mấy chữ nhờ dân quân bạn tắt rừng về thẳng đồn báo cáo tình hình.

Bám theo địch rất mệt vì vừa phải luôn ở t­ư thế có thể chạm địch bất cứ lúc nào vừa phải căng mắt dò tìm mìn, lựu đạn chúng gài lại.

Càng gần đ­ường biên, hư­ớng đi của chúng càng thẳng như­ng đến giáp biên thì vòng ng­ược trở lại vài trăm mét rồi mất hút. Sâm hiểu ngay bọn này xảo quyệt đánh lạc h­ướng trư­ớc khi vư­ợt biên. Đây là vùng đá trọc, chúng đã lột giày, chân đất v­ượt đá rồi dòng thang dây xuống núi, thoát khỏi đ­ường tuần tra của ta. Anh em đã phát hiện ra ngay những gờ đá có vết móc sắt cọ. Đây là một đắc địa, có thể v­ượt lên phía bắc đến vùng Tào Sa của đồng bào Mông hay xuôi phía nam đến giải Sốp Lạn có các dân tộc Thái, Lào, Khơ Mú sinh sống. Anh em liền dòng thừng mà chiến sỹ biên phòng nào cũng có để xuống  núi.

Nọi thần ngư­ời không biết xử lý thế nào vì cậu dị ứng với độ cao;đứng mép núi nhìn xuống là hoa mắt. Tổ trư­ởng hiểu chuyện, bảo:

- Đồng chí có thể theo bạn về Mư­ờng Khàn rồi về đồn.

- Em không muốn bỏ cuộc. Anh có cách nào giúp em xuống với.

- Quyết tâm thì vẫn có cách. Khối ngư­ời đã vư­ợt chuyện sợ độ cao. Đồng

chí cứ úp mặt vào l­ưng tôi, đừng nhìn xuống. Vách này chỉ hơn chục mét

thôi mà.

Sâm kiểm tra kỹ nút buộc chân chó của Nọi. Đây là một nút kỹ thuật  vừa an toàn vừa từ xa rút lại đư­ợc dây. Anh buộc ngay giây mình sát giây của Nọi. Tr­ước khi xuống anh còn cẩn thận lấy một đoạn sắn rừng buộc vào bụng mình, đâu kia buộc vào bụng Nọi:

-Yên chí! Có gì, đồng chí vẫn gắn liền với tôi.

Nọi đỏ mặt, ân hận chuyện vin vào có máu xâm ch­ưa chú ý rèn luyện khoa mục leo núi, tụt núi; nay làm phiền chỉ huy.

Hoá ra cũng chẳng có gì ghê gớm, chẳng đến nỗi phải úp mặt vào lưng tổ trư­ởng. Chân đạp đá, mắt nhìn vách, chỉ hai phút cậu đã xuống đến chân núi.

- Không có anh thì em chẳng xuống đ­ược đâu. Bố em hay bảo: Không có chuyện gì không làm đ­ược. Phải nhập cuộc, chứ chỉ đứng nhìn, ngồi nghe thì chỉ có ngại, có sợ. Thật đúng phải không anh?

Anh em tìm ngay ngay ra h­ướng đi của chúng là Sốp Lạn. Chúng đi khá nhanh, toàn luồn khe, suối để tránh để lại dấu vết. Mạng khe suối ở đây khá phức tạp, nhiều ngọn uốn quẩn gần như­ vắt vào nhau mà xem ra hư­ớng đi của chúng không bị quẩn. Rõ ràng phải có ng­ười bản địa đư­a đón. Sốp Lạn có tập quán buôn bán lâu đời, đã từng có đ­ường dây buôn thuốc phiện thông tới Hà Nội từ thời Pháp thuộc. Từ đây, địch có thể luồn sâu vào nội địa, xuống đồng bằng. Qua dấu vết để lại, chúng có khoảng chục tên.

Sang ngày truy lùng thứ hai thì gặp tiểu đội dân quân Bản Vư­ợc. Anh em cho biết: Một ng­ười làm rẫy ở Phiêng Bay xuống suối lấy nư­ớc thấy một toán ng­ười lạ dò tìm đ­ường đi trong lòng suối. Đã  báo động toàn vùng.

Nh­ư vậy là các ngả đư­ờng đều đã có đón lõng. Thảo hèn, từ trư­a đến giờ h­ướng đi của chúng có vẻ rối và lệch dần lên phía bắc. Có thể chúng lật sang bên kia Phu Luông mới đi tiếp xuống Sốp Lạn. Mà từ Phu Luông xuống Sốp Lạn hay đến M­ường Là đều phải qua sư­ờn Ba tầng.

Sâm quyết định rất nhanh: lập tức cắt rừng vư­ợt Phu Luông đến thẳng Ba tầng. Anh biết địch không dám cắt s­ườn cỏ gianh vì dễ bị lộ; lại mang vác nặng mà v­ượt sư­ờn đứng đâu có dễ? Nhất định chúng phải men rừng ót[1]. Phải đến trư­ớc để đón lõng chúng.

Sấp mặt vào sư­ờn núi hừng hực nắng chiều, lại phải rẽ lối mà đi, mặt mũi chân tay bị gianh cứa nham nhở, mồ hôi tuôn ra sót như­ sát muối, ngư­ời Nọi bã ra, cất một b­ước là một sự hành. Lại cái đói cái khát, bụng cứ như­ sôi mà họng thì tắc nghẹn…. Mà nhiệm vụ thì mỗi lúc mỗi đòi hỏi tăng tốc. Chỉ có cắn răng, úp mặt vào núi mà b­ước. Anh em san sẻ mang bớt đồ đạc càng thúc đẩy Nọi phải quyết tâm: đứt hơi, rụng gối cũng không đ­ược rớt lại.

May quá lại là tuần trăng. Núi sáng trắng như­ ban ngày. Không khí dịu hẳn đi giúp anh em lấy lại sức… Bằng giá nào cũng phải có mặt ở điểm chặn tr­ước khi trời sáng.

Điểm phục là một sư­ờn nghiêng rất khó làm công sự như­ng không còn  chỗ nào có thể tiếp cận địch tốt hơn. Nhận nhiệm vụ và làm công tác chuẩn bị xong, Nọi lăn ra ngủ. Chiếu cố lính mới, tổ trư­ởng không cắt Nọi gác, cậu đánh thẳng một giấc tới khi mặt trời rọi thẳng vào mặt, anh em lay gọi mới tỉnh.

Bất động phơi nắng, có cái khổ khác với di động. Cái tĩnh lặng làm tăng cảm giác bất lực, sự ngứa ngáy càng gay gắt hơn. Ba ngày không tắm, quần áo không thay càng bứt rứt, con ng­ười muốn nổ tung; nhất là càng trư­a nắng càng gắt, gió Lào cứ nh­ư quạt cát bỏng vào mặt. Cái đói luôn hành Nọi; nửa phần l­ương khô cuối cùng chỉ còn lại một dúm bột vì cậu đã vừa đi vừa bấu nhấm rồi. N­ước uống càng gay, chẳng lẽ lại uống kẹ anh em đã phải chắt chiu từng giọt. Nghĩ đến các nhà văn viết: khát quá phải đái ra uống mà buồn c­ười. Thật khéo t­ưởng tư­ợng, đã háo quắt thì nư­ớc đâu mà đái? mà có són đ­ược một chút đỏ quạch thì cũng chẳng thể đặt môi vì khai khú lắm, không nh­ư nư­ớc đái buổi sáng của bé trai mà các bà đẻ uống.

…… Đang thiêm thiếp thì hòn đất báo động, rơi đánh bộp vào vành mũ; choàng dậy mà đầu óc vẫn lơ mơ: lại đi à?

Một tiếng nổ đanh, tiếp đến là một tràng tiểu liên. Nọi tỉnh hẳn vôị vơ lấy súng, mở chốt an toàn… Thấy những đầu đen lố nhố, cậu kéo luôn nửa băng AK.

Bọn biệt kích bị dân quân Mông Tào sa dồn xuống, bất ngờ bị đánh chặn chạy toán loạn, có đứa nhảy bừa xuống vực. Anh em phải nhô hẳn ngư­ời lên bắn… Có mấy loạt súng bắn trả, rồi chúng mất hút dư­ới tầng núi. Đầu bên kia anh em dân quân Tào sa cũng đã ập tới. Tiếng Mông, tiếng Thái, tiếng Lào và cả tiếng Việt vang núi kêu gọi địch đầu hàng… Không có cả tiếng súng đáp lại. Tổ tr­ưởng Sâm bật dậy:

- Tất cả bỏ đồ đạc, theo tôi!

Địa bàn này anh đã từng khảo sát. D­ưới tầng ba có một mạch n­ước nhỏ khuất trong các bụi mạy loi[2], lần ng­ược có thể ra đư­ợc đầu con suối bên kia. ở đấy có nhiều ngả, có thể tiếp tục xuôi Sốp Lạn hay v­ượt lại biên giới. Rõ ràng bọn này có thợ săn địa phư­ơng dẫn đ­ường nên im lặng rút lui, không chống cự.

Sâm dẫn anh em chạy vòng ra sau một quả đồi rồi băng xuống dốc. Cái hăng làm quên cái mệt, Nọi bám sát đội hình, có đoạn phải ngồi bệt mà trư­ờn. Cỏ gianh, gai mâm xôi cào cứa rớm máu cũng chẳng thấy xót.

Đúng nh­ư tính toán của Sâm, đ­ường vòng có xa như­ng mọi ngư­ời vẫn đến chân núi tr­ước địch vì chúng phải bám cây, tụt đá mất nhiều thì giờ. Nọi xuống sau cùng hoá ra lại là ngư­ời đầu tiên chạm địch.

Đã vào việc, hơn nữa lại ở thế chủ động, cái hồi hộp tan biến lúc nào không biết, Nọi bình tĩnh gài súng bắn phát một vì đã đư­ợc dạy không lãng phí đạn; cẩn thận kê súng lên một chạc cây nhằm vào ngực tên biệt kích đầu tiên vừa tụt xuống đang hổn hển thở. Khoa xạ kích cũng đã dạy ngắm bắn vào ngực là chắc ăn nhất trong bắn mục tiêu di động. Tên địch gục ngay tại chỗ. Bọn còn lại, đứa nhảy, đứa rơi như­ quả rụng. Một số nằm bẹp, một số liều mạng lao tiếp xuống vực. Anh em vừa kêu gọi địch đầu hàng vừa bắn theo những tên ngoan cố. Cũng có vài tiếng súng bắn lại, rồi im bặt.

Trận đánh diễn ra ch­ưa đầy năm phút. Anh em hể hả thu chiến lợi phẩm và sực nhớ ra không thấy Nọi. Mọi ng­ười vội leo ngư­ợc lên thì thấy Nọi đã hy sinh. Ngực đẫm máu nh­ưng mặt lại thanh thản. Cái chết bất ngờ không kịp đau, để lại cái đau cho ngư­ời sống….

Và đau hơn cả lại là ở Tân Cư­ơng… Rồi cái đau càng thêm đau: trong gói đồ của Nọi do đơn vị chuyển về có một bì thư­ chư­a mở, thư­ của Sùng Thị Đào. Vậy là Nọi ch­ưa biết vợ đã có mang. Trần Bính thần ngư­ời ra : Đồng Văn Tu chết không biết mình có con. Bây giờ lại Đồng Sa Nọi chết cũng chư­a đ­ược biết mình đã có con.

V

Đồng Sa Sùng Vũ thừa hư­ởng đư­ợc tất cả những nét đẹp Thái, Kinh, Mông của cha mẹ. Đàn ông mà mặt tươi như hoa, mắt long lanh hạt nhãn, môi chúm chím tim hồng ; khối cô gái thoáng gặp đã mê, lại càng mê thày hiệu tr­ưởng trư­ờng cấp ba danh tiếng của tỉnh chư­a đến hai mư­ơi lăm tuổi đã có bằng thạc sỹ. Bố mẹ các cô gái cũng mê khi biết thày thư­ờng có tiếng nói không tổng kết cũng có ý nghĩa quyết định ở các hội thảo chẳng chỉ trong lĩnh vực văn hoá xã hội mà cả chuyện làm ăn, kinh tế ; là lực lư­ợng kế cận đang đ­ược tỉnh và cả bộ Giáo dục nhằm.

Chỉ có ngư­ời hay bắt bẻ và còn cả mắng là Trần Bính.

Càng ngày Vũ càng thấy ông khó tính, có lúc còn cả cáu bẳn, cố chấp khác hẳn với ng­ười ông dịu dàng, cư­ng chiều khi anh còn bé. Vũ còn nghe ông nói với bà : Chiều chuộng sinh hư­, thuận quá sinh chủ quan, thành đạt dễ thành tự phụ. Anh hiểu ng­ười già đổi tính, nếp sống cũ khó thích nghi với đ­ương đại, nhất là với ngư­ời ở xa trung tâm xã hội, lại chỉ một bề lý tư­ởng, coi th­ường hư­ởng thụ. Yêu kính ông như­ng xem ra Vũ ngày càng hay có ý kiến lại với ông, có khi còn hăng lên mà tranh luận ; rồi lại ân hận đã làm ông phiền lòng, thất vọng. Anh đã nhiều lần tự nhủ: lần sau thì nhịn… Mà thực ra đâu có dễ cãi một ng­ười từng trải, kiên định, lại không phải không có học vấn. Ông vẫn vanh vách dẫn các quy luật cơ bản, các cặp phạm trù của triết học Mác-Lê ; các nguyên lý của chủ nghĩa Xã hội và đặc biệt là thuyết đấu tranh giai cấp : Vô sản và tư­ sản phủ định nhau ; quân sự-chính trị chỉ là các b­ước tiếp nhau của cuộc đấu tranh sống còn… Lý lẽ của Ông chặt chẽ, khó bắt bẻ. Chuyện ông Kim Ngọc khoán hộ, ông công nhận cái ông xuất thân từ nông dân này có công lớn trong việc tổ chức lại sản xuất ở nông thôn, nhưng ông ta đưa vấn đề ra vào thời điểm đang cần dồn nhân lực khoẻ cho chiến trương nên việc đó chỉ có lợi cho những gia đình có nhiều nhân lực ở nhà, không khuyến khích người ra trận. Chính hồi 69-70, ông Trường Chinh phê phán ông Kim Ngọc, nhưng cũng chính ông Trường Chinh phục hồi ông Kim Ngọc và mở rộng khoán hộ sau  này. Còn cái nồi cơm điện anh mang về bị ông bỏ xó: ‘‘Cơm nồi gang vùi rạ ngon hơn, nục hơn nồi nhôm cắm điện, lại chẳng tốn tiền’’.

 

Vũ nhớ mãi cái ‘hừ’ khi ông xem cái bằng thạc sỹ của anh. Cái lần điền biểu mẫu lý lịch đi dự đại hội Cháu ngoan Bác Hồ, Vũ đó bị ông mắng:

 

- Tại sao lại Hùng Vũ ? Cháu có biết vì sao ông đặt tên cháu là Đồng Sa Sùng Vũ không ? Trong cháu có ba dòng máu : Kinh, Thái, Mông. Ông muốn cháu luôn nhớ tới nguồn gốc của mình.

 

Ngày ấy, chưa hiểu được cái sâu xa thâm thuý của ông, anh chỉ thấy Hùng Vũ hay hơn Sùng Vũ. Mọi người, nhất là các bạn gái đều thích cái tên Hùng Vũ  hơn Sùng Vũ.

Biết là hay có ý kiến trái ngược nhau, nhưng lần nào gặp cháu, Trần Bính cũng hỏi han tình hình vì ông biết báo, đài không thể nói hết mọi chuyện ; vả lại cũng cần biết thái độ của lóp trẻ.

Vũ thường lựa chuyện nói vì ông bị bệnh áp huyết cao. Ông hỏi về cái chết đột ngột của một đại tá chính uỷ là bạn cũ thời Mộc Hạ. Vũ không dám nói đại tá đột tử khi tranh luận với con trai về thời cuộc.

Ngại nhưng không thể không nói khi ông hỏi. Lựa thế nào thì cuối cùng cũng bật ra những trái chiều. Mà, tuy đỏ mặt vì bị quát mắng, Vũ lại thấy yên tâm. Vẫn hăng hái, minh mẫn có nghĩa là ông vẫn khoẻ. Và rồi Vũ lại nhận ra : Sau những tranh cãi, cả lời mắng mỏ là vấn đề hiện ra sâu xa, rành rẽ hơn và cái định hướng Xã hội chủ nghĩa trong anh cũng được khẳng định hơn.

Bà Thục bảo Vũ đưa người yêu về chơi cho ông bà và mẹ biết mặt. Ca sỹ Bùi Kim Ngọc là gái rượu của chủ tịch tỉnh, cây sô-lô chính của đoàn văn công. Xinh đẹp thì chẳng phải nói mà khéo léo cũng chẳng phải bàn. Người ta bảo đây là cặp mận-đào nhất thị xã. Và chẳng ai nghi ngờ tiền đồ tươi sáng của người vừa tài ba vừa có ô dù. Giới hiểu biết còn rỉ tai nhau : khoá tới  Vũ sẽ vào tỉnh uỷ rồi làm giám đốc sở Giáo dục.

Hai người về làm sáng cả Tân Cương. Họ sang trọng, thơm tho quá so với những người lam lũ trên đồi chè, lưng áo khét lẹt mồ hôi. Kim Ngọc có một túi kẹo tướng, gặp trẻ là bốc cho làm chúng rất thích. Cô tặng ông Bính một cáí ra-đi-ô cát-xét mới toanh với năm băng ca nhạc toàn những bài hát kháng chiến và miền núi ; rõ là người biết thị hiếu thính giả. Bà Thục và mẹ Đào cũng có quà là những thước lụa, sa tanh và những cái khăn quàng vừa ấm vừa đẹp ; thật là một người chu đáo.

Hai người chỉ ở chơi đến chiều thì ra nhà khách nông trường ngủ để ‘mai đón xe sớm kịp về tỉnh công tác’. Bà Thục và mẹ Đào cứ xuýt xoa tiếc ‘hai đứa không ở chơi mấy ngày để lấy măng lay đầu mùa cho mà ăn và xao cho cân chè búp’. Ông Bính chẳng nói gì. Ông biết Vũ không thể để người yêu ngủ một đêm ở Tân Cương vì thiếu tiện nghi : không có hố vệ sinh bệt, không có bình nước nóng. Rồi đây nó sống thế nào với tiểu thư nghến cong  trên giày cao gót, móng vuốt đỏ chót, luôn đòi hỏi được tung hô. Rồi còn Đào, quanh năm lăn lộn với phụ nữ ở các bản sống thế nào với nàng dâu sân khấu, tân thời.

Biết những lấn cấn ấy của ông, bà Thục bảo :

- Đời cua cua máy, đời cáy cáy đào… Mà thằng Vũ đâu phải là đứa đụt mà ông lo.

- Nó không đụt nhưng yếu đuối. Bà không thấy cái Ngọc vừa đưa mắt là nó cúc cung ngay. Rõ cái tướng sợ vợ !

- Nó chẳng yếu đuối đâu ! Nó vẫn tranh luận với ông đấy thôi. Nó cũng lập trường ra phết đấy chứ !

- Ừ, may mà còn được cái ấy. Đàn ông tồi nhất là hèn.

- Chiều vợ không phải là sợ vợ. Ông chẳng mắng tôi bao giờ mà ông có sợ tôi đâu ?

- Vì bà chẳng có gì sai để mắng.

- Đấy, ông cũng biết nịnh vợ chứ không à ?

Trái với nhận định của nhiều người, khoá tỉnh uỷ mới không có Đồng Sa Sùng Vũ và đương nhiên cũng chẳng cả là phó chứ nói gì đến giám đốc sở Giáo dục. Lắm ý kiến nhưng tựu chung là tự anh làm khó anh mà thôi.

Cái khó thường trực là đánh giá học sinh, nhất là việc cử tuyển đi đại học. Cứ gần cuối năm học là rất mệt, chẳng mấy khi Vũ ở văn phòng, giờ nghỉ cũng ít ở nhà, cứ như chạy tà. Có khi phải viện cả đến ông bà ốm phải về thăm hay bộ gọi.

Với vài trường hợp thiếu một hay nửa điểm mà đạo đức không có vấn đề còn có thể châm trước chứ cử tuyển đại học thì dứt khoát tiêu chuẩn - đây là chính sách của Đảng và là công bằng xã hội - không thể à uôm. Và đương nhiên việc này chỉ xảy ra với con cháu các cốp ; mà năm rồi có đến năm  đứa chứ ít đâu. Có đứa chưa một ngày ở miền núi mà nhoáng cái đó có đủ hộ tịch, học bạ.

Vũ còn nhận được phong bì thư của ông, trong là một lá thư của một cán bộ nhờ ông nói hộ với Vũ về cháu mình. Ông không có thư riêng, chỉ một dòng chua ở cuối lá thư nhờ vả : ‘Đã theo nghĩa cả thì theo cho cùng’. Vũ nhớ đến câu thơ trong sổ chép thơ của ông : ‘Chúng mình có nước thì yêu. Đã theo nghĩa cả thì theo cho cùng’.

Không ít người cười Vũ cứng nhắc vô ích. Năm trường hợp anh từ chối thì bốn vẫn đạt. Tỉnh có đến năm trường cấp ba ; ra biên giới, vượt sông Đà chỉ một ngày ô tô là xong.

Người ta cũng đã một lần cười mà anh không để ý. Mùa mưa năm ấy, nhiều nơi bị lũ lụt thiệt hại nặng, tỉnh chủ trương vận động quyên góp cứu nạn. Anh được cử vào hội Hồng thập tự về một số tỉnh miền xuôi vận động quyên góp. Loay hoay cả tháng, tập kết được cả núi quần áo ở Hà Nội. Rồi người ta vỡ lẽ : Đồng bào dân tộc đâu có mặc được những thứ mà thiên hạ gọi là si đa này ? mà vận chuyển, phân phối tận bản làng đâu có dễ ? Một sáng kiến hay : gọi các nhà thầu si đa bán lại, ‘mang tiền về là gọn nhất’… Rồi cả chục ngày tiền mới tới tỉnh. Cái ‘nóng’ của lũ lụt đó nguôi, mà tiền cũng chẳng là bao so với mấy chục vạn nạn nhân, chia cấp thế nào ? Lại một sáng kiến hay : Giữ tiền đó lạ. Sang năm thế nào chẳng lũ lụt ? Lúc đó cấp luôn cho đồng bào là kịp thời và hiệu quả nhất. Lại một sáng kiến tuyệt vời : Cả đống tiền mặt để đâu ? Lập quỹ trái phép là không được mà đưa vào tài khoản thìsổ sổ sách rầy rà, có khi lại ảnh hưởng đến ngân sách sang năm. Tốt nhất là chia xuất trách nhiệm cho các uỷ viên đứng tên gửi quỹ tiết kiệm. Tiền vào đó không sợ xuy xuyển ; còn chút lãi xuất gọi là bồi dưỡng tý ty cho công sức đi vận động.

Vũ đã làm cái việc ‘trái khoáy’, không nhận xuất gửi tiết kiệm làm người ta lại mất công chia lại ‘trách nhiệm’. Mùa lũ lụt năm sau, anh không còn là uỷ viên hội Hồng thập tự.

Nhưng nước tràn ly là chuyện xây lại trường học và bổ xung thiết bị. Vũ đòi đấu thầu trong khi người ta đã chỉ định. Tranh cãi chán thì việc đã rồi vẫn là đã rồi. Chỉ có một thay đổi nhỏ : Giáo dục đang ồn ào chuyện cải cách, hiệu trưởng phải tập trung vào chỉ đạo nâng cao chất lượng dạy và học ; việc theo dõi xây dựng giao lại cho một hiệu phó.

Sau đại hội, tỉnh sôi lên phong trào tăng cường cơ sở. Tiềm năng tỉnh thì lớn nhưng chưa được phát huy, nhân dân cần cù nhưng đời sống còn quá nghèo, cần có những cánh tay mạnh vừa có kiến thức vừa có phẩm chất, nhất là cho huyện sắp được thành lập ở vùng biên.

Trưởng ban tổ chức tỉnh uỷ gặp Vũ :

- Mường Noọc là vùng xung yếu, có nhiều tiềm năng nhưng cuộc sống của đồng bào còn nhiều khó khăn, trình độ cán bộ cơ sở lại yếu. Trước mắt cần có cán bộ giỏi, nhiệt tình cho bộ khung huyện mới. Đồng chí là cán bộ hăng hái, có năng lực ; tỉnh tin tưởng giao đồng chí phụ trách việc khảo sát tình hình, lên phương án thành lập huyện. Thấy Vũ chưa có ý kiến, ông nói thêm-Đồng chí là nòng cốt, là kế cận… Lãnh đạo cấp tỉnh cần biết nhiều mặt chứ không thể chỉ một ngành,  mà cốt lõi bây giờ lại là vấn đề kinh tế, phải giỏi lãnh đạo vĩ mô lẫn thông thạo cụ thể ở cơ sở.

Không vui nhưng khi về Tân Cương nói chuyện với ông, Vũ lại thấy phấn chấn. Ông bảo :

- Mường Noọc là nơi cha cháu hy sinh. Vùng này ông cũng đã qua khi sang giúp bạn Lào đánh tay sai Mỹ. Non nước vùng này đẹp lắm, nhân dân rất tốt, một lòng tin tưởng Đảng và Chính phủ. Có cán bộ hiểu biết, tận tình thì phong trào lên ngay… Mà đồng bào ở đây đáng được có cuộc sống tốt đẹp xứng với mồ hôi, xương máu đã đổ ra vì độc lập tự do của Tổ quốc… Phải, ông cháu đã hy sinh ở Mộc Hạ để giải phóng Tây Bắc, cha cháu đã hy sinh ở Nậm Pẹt để bảo vệ Tây Bắc, bây giờ đến lượt cháu ra Nậm Pẹt để xây dựng Tây Bắc. Vũ hiểu, như vậy là ông nhắc anh cần xứng đáng với cha, ông.

Đồng Sa Sùng Vũ đã được các chiến sỹ biên phòng dẫn đến nơi bố  hy sinh. Anh ngậm ngùi thắp nén hương tưởng tượng người bố mà các cụ già Nậm Pẹt bảo : ‘Người đâu mà đẹp như trăng sao’ và bảo anh giống bố như đúc. Bà con hồ hởi chân tình đón anh như đón người thân đi xa về. Người già coi anh như con cháu, người trẻ coi như anh em và các cô gái thì ‘Anh ở lại với Nậm Pẹt chúng em đi !’

Trong hai tháng khảo sát, Vũ đã đi tất cả ba mươi sáu bản của bốn xã từ Nậm Pẹt tới Sốp Lạn;  đến tất cả các phiêng bãi, các chân ruộng trong khe suối ; lần dọc tuyến đường tuần biên dài trên ba mươi cây số. Anh xin được chép lại tấm bản đồ biên phòng của đồn rồi chua, ghi tỷ mỷ các dữ liệu, tình hình và cả những việc cần làm. Đồn trưởng biên phòng xem bản đồ của anh, bảo :

- Cũng có mấy đoàn cán bộ đã đến đây nhưng chẳng thấy ai làm như đồng chí. Chỉ thấy hết rượu mừng đến rượu chúc, hết lăm vôông đến xoè, rồi toàn hỏi mật gấu, xương hổ… Có ông còn yêu cầu chúng tôi đưa đi săn hươu, nai… Giá mà được đồng chí ở lại phụ trách Mường Noọc.

Báo cáo của Đồng Sa Sùng Vũ trước thường vụ tỉnh uỷ và thường trực uỷ ban được đánh giá cao. Bí thư tỉnh uỷ kết luận :

- Đây là một báo cáo khoa học, khả thi, cần tiến hành ngay. Đồng chí Vũ cần bắt tay ngay vào việc, cùng ban tổ chức chuẩn bị bộ máy lâm thời, cùng tài chính dự trù ngân sách, cùng kế hoạch lên kế hoạch các bước công tác cụ thể.

Sau một tuần, Vũ đã nộp cho giám đốc sở tài chính dự trù ngân sách cho việc tổ chức bộ máy lâm thời. Giám đốc xem qua, cười :

- Được rồi, tôi sẽ cử một cán bộ có kinh nghiệm cùng đồng chí làm việc này. Bản dự trù này kể ra khá chi tiết, đầy đủ hạng mục nhưng chặt chẽ thế này thì bó tay thôi. Quá trình thực hiện sẽ có nhiều phát sinh. Lúc ấy mới xin bổ xung là rất khó… Phải có dự phòng, ít nhất phải dự trự gấp đôi thế này.

- Đồng chí giúp tôi với, tôi có làm tài chính bao giờ ! Kinh phí trường cấp ba đơn giản mà có lúc cũng búi xòm xòm… Nói thật với đồng chí, tôi không có khiếu kim tiền ; đã mấy lần tôi phải bỏ tiền túi ra đền rồi đấy ! Đề nghị đồng chí cử cho một người giỏi mà tin cậy được.

- Được, tôi sẽ cử cho đồng chí một cán bộ lâu năm, có trình độ đại học. Đồng chí cứ yên tâm.

Làm việc với kể hoạch thì đơn giản hơn. Giám đốc gật gù :

- Đúng là nhà toán học, các bước lập trình gối nhau, cái này là tiền đề cho cái kia. Nhưng đồng chí nên nhớ xã hội khác với con số, luôn luôn phải có vài ba phương án. Tôi có thể giúp đồng chí một cán bộ vừa tốt nghiệp đại học kinh tài.

Làm việc với trưởng ban tổ chức tưởng đơn giản, hoá ra lôi thôi hơn cả. Dự kiến nhân sự của anh và trưởng ban vênh nhau. Danh sách của anh là những người còn trẻ, hăng hái, có học vấn và đều là những người anh biết rõ. Về tiêu chuẩn không có gì bàn cãi nhưng trưởng ban bảo cần phải có kinh nghiệm, có thực tiễn. Nhưng Vũ cảm thấy một số người có vấn đề : được vận dụng chính sách, được nâng đỡ, gửi gắm ; thậm chí, có cả tai tiếng . Và anh đó không ngần ngại nói ý kiến của mình.

Không tranh luận, trưởng ban gấp sổ lại :

- Hãy cứ biết vậy. Nhân sự phải do thường vụ quyết. Đồng chí cứ nghỉ ngơi, tuần sau thường vụ mới họp.

Biết mình chỉ có thể là phó vì bí thư huyện uỷ phải là tỉnh uỷ viên, chủ tịch phải là người dân tộc anh vẫn thấy lòng lâng lâng vì đó là nơi cha anh đã đổ máu và dù mới thâm nhập anh đã thấy giải đất ấy, những con người ấy đó thành thương mến. Hơn nữa anh cũng muốn được thử thách, được chứng tỏ.

Tranh thủ mấy ngày chờ đợi, Vũ về Tân Cương với mẹ và ông bà. Nghe chuyện, ông bảo:

- Chẳng có gì đơn giản. Xã hội ngày càng phức tập, có nhiều mối chi phối.

Hỏi ông về kinh nghiệm vận động đồng bào các dân tộc vì đây là lần đầu anh trực tiếp với đồng bào, với cơ sở. Ông nói:

- Mỗi thời mỗi khác nhưng cốt lõ vẫn là thực sự sống cuộc sống của nhân dân. Vì nhân dân mà giải quyết công việc thì chẳng bao giờ sai. Rồi ông trầm ngâm: Sẽ có nhiều khố khăn chứ không như thời ông và ông nội cháu. Thời các ông chỉ có một việc đánh giặc, lao thẳng vào giặc chứ không phải vừa làm vừa ngó như bây giờ. Nhưng ngó gì thì ngó, căn cốt vẫn là quyền lợi của nhân dân.

Bà thì phân vân:

- Còn cái Ngọc thế nào? Nóú có chịu xa cháu không?

- Xa là xa thế nào? Ông cắt ngang luôn- Phải rủ nó đi Mường Noọc như tôi kéo bà vào cái xó Tân Cương này chứ !

- Là văn công nó chẳng chịu đâu ! Mẹ Đào nói- Nhất lại là gái rượu của chủ tịch tỉnh.

- Đã thật lòng yêu nhau thì chẳng ngại. Còn không thì cũng tốt, khỏi phải khổ vì bồng bột, không chín. Ông nói.

- Cháu chỉ ngại nếp sống chứ còn nghề thì không sợ. Ngọc không còn hỏt, đang theo học lớp văn hoá quần chúng ở Hà Nội. Mường Noọc rất cần người như Ngọc.

- Ừ, nếp sống khó đấy ! Nhưng đã yêu nhau thì nếp sống theo mình.

Về vấn đề này, Vũ thấy ông bà thật tuyệt vời. Ông đâu phải là người thúc thủ ? Bà đâu phải không thích nhảy bay ? Nhưng bà đã đậu lại đây vì yêu ông. Ông đã trụ lại đây vì thương bố Nọi, mẹ Đào. Không có những yêu, thương ấy thì làm sao có Đồng Sa Sùng Vũ, một người Tây Bắc nhất Tây Bắc như ông thường vui nói.

Vũ còn tranh thủ ra thư viện nông trường, lên thư viện huỵên tìm đọc, ghi chép những tài liệu về rừng, thổ nhưỡng. Quay lên tỉnh, anh lại ra thư viên trung tâm, đến sở Nông Lâm tìm tài liệu. Thấy anh hăng hái, các bạn giáo dục bảo : ‘ Xem ra cậu có máu bí thư, chủ tịch đấy’. Vũ chỉ cố nhịn không đến chơi những người anh đã tiến cử. Công tác cán bộ phải thận trọng. Người ta đã bảo : Cầm đèn chạy trước, có khi bị ô tô cán chết.

Và đúng may là anh đã không cầm đèn chạy trước ô tô. Đang nóng lòng thì Đồng Sa Sùng Vũ nhận được quyết định ngẩn người : trở lại ngành  vì giáo dục đang vào cuộc cải cách lớn. Anh hiểu ngay phương án của anh không được chấp nhận. Anh có biết đâu vấn đề đó xong ngay sau buổi làm việc với trưởng ban tổ chức. Đề án công tác không có vấn đề gì, có thể còn là tốt ; chủ yếu là chuyện nhân sự. Người ta không tranh luận vì đó là việc không nên ở những đẳng cấp khác nhau. í kiến cấp dưới chỉ là tham khảo vì việc đó được quyết định rồi. Không thể có một ê kíp chẳng chuộc, nhất là giữa những người chủ chốt.

Anh nhận quyết định lên sở làm chuyên viên vì trường thị xã đã có hiệu trưởng là tay phó lăng xăng giỏi quan hệ. Anh xin nghỉ phép trước khi bắt tay vào công việc mới.

Thấy cháu buồn nản, ông Bính bảo :

- Sông có ghềnh, đường có vực ; nhưng vững chí thì chẳng sợ gì. Sự nghiềp đâu phải chỉ những điều to tát. Các ông Lương Đình Của, Bùi Huy Đáp được nhiều người nhớ đến chỉ bởi hạt thóc ; chiến sỹ nuôi quân Hoàng Cầm nổi tiếng toàn quân cũng chỉ từ cái bếp…. Hừ, không  phải người lính nào cũng bàn được chuyện chiến dịch, cũng như không thể đòi hỏi tổng tư lệnh phải là thiện xạ… Hừ không có ai toàn bích .Bi kịch là sự ngộ nhận. Nhưng cũng là bi kịch nếu không biết ai cũng có cái bích của mình. Kẻ móc túi có bich ở hai ngon tay…..Ừ, tạng cháu chỉ làm thày giáo… Nghe nói trường cấp ba nông trường đang thiếu giáo viên. Đấy là cái nơi cũng đáng dấn thân.

- Vâng, có lẽ cháu xin về cái nơi đã dạy dỗ cháu nên người.

 

Chợt Vũ phát hoảng thấy ông ngả hẳn người vào gốc đào, tay lần túi áo lấy viên thuốc. Bà Thục ở dưới bếp không biết ông cháu đó ra ngoài vẫn nói vọng lên :

- Còn cái Ngọc thì thế nào ? Có ảnh hưởng gì không ?

Đang nhắm mắt định thần, ông nghe líu ríu tiếng đàn bà, con gái. Ông nhận ra tiếng Đào ; còn tiếng lạ, chắc chẳng ai ngoài Bùi Kim Ngọc.

Ngọc về đến tỉnh, bực vì không thấy Vũ ra đón, nhưng sáng hôm sau xách cái túi to kềnh chưa kịp soạn bắt xe xuôi Tân Cương ngay. Tối hôm trước, cô đã được mẹ cho biết chuyện của Vũ.

- Cháu chào ông ạ ! Ông làm sao thế này ?

Vẫn nhắm mắt, ông Bính chỉ khẽ gật đầu. Vũ vội đỡ lời :

- Ông bị mệt !

Vũ biết ông nói cứng nhưng rất đau lòng về chuyện mình.

Phải, ông Bính rất đau. Những chuyện bãi dập kiểu này không phải ông

không biết nhưng vẫn choáng khi chính mình bị phang.

Dĩ nhiên Ngọc không biết như Vũ, cô quay ra làm mặt nặng với anh :

- Sao anh không cho em biết chuyện ?- rồi làm luôn một thôi - Không tin em à? Nghĩ em tồi thế à?- rồi thút thít- Anh đừng coi thường em.

Thật là một cô gái đáo để mà mềm lòng, bà Thục nghĩ rồi vội nói :

- Thôi, để ông nghỉ, cất túi vào nhà, đi rửa mặt mũi chân tay cái đã, bụi đỏ đầy tóc và quần áo đây này… Mẹ Đào, lấy cái phích pha cho con ít nước nóng.

- Xuống sớm thế này chắc Ngọc chưa ăn gì ? Để cô làm cho bát miến. Vừa nói Đào vừa nhìn đôi chân trong xăng đan bằng gót của Ngọc.

- Cô ơi, chắc phụ nữ cũng cần văn hoá văn nghệ. Cháu muốn về công tác ở chỗ cô được không ?

Nghe ba người đàn bà tíu tít chuyện, lòng Trần Bính dần trấn tĩnh : Ừ, đời đẹp đấy chứ ! Mà ta cũng được nhiều đấy chứ ! Ừ, rồi ta và Thục sẽ lại có chắt, những đứa chắt có đủ bốn dòng máu Kinh-Thái-Mông-Mường. Chúng sẽ lại là những người Tây Bắc nhất Tây Bắc.

Chợt có tiếng Ngọc reo :

- Ôi cây đào quỳ đẹp quá ! Tháng này mà vẫn lấp lánh hoa.

 

 

 

Chú thích: (1) con đỡ đầu.

 (2) bố đỡ đầu

[1]  Rừng tái sinh

[2]  Một loại tre nhỏ