“Éc!” Hen Wen thở phì phò và kêu ủn ỉn trong họng, gương mặt tròn xoe như đang cười vui. Với một tiếng eng éc sung sướng, nó bắt đầu dụi mõm vào má Taran. Miệng cậu há hốc, nhưng cậu không nói nổi nên lời. Tiếng cười lanh lảnh như bạc cất lên từ một góc phòng.
“Xem mặt anh kìa. Trông cứ như một con cá trèo nhầm vào tổ chim ấy.” Eilonwy đứng dậy từ một chiếc ghế đẩu làm bằng cây liễu gai. “Tôi đã hi vọng là anh sẽ sớm tỉnh dậy. Anh không thể tưởng tượng được phải ngồi nhìn người khác ngủ thì chán đến mức nào đâu. Chẳng khác nào đếm từng viên đá trên một bức tường vậy.”
“Họ đã bắt chúng ta đến đâu thế này? Đây có phải là Annuvin không?”
Eilonwy lại bật cười và lắc đầu.
“Đúng là loại câu hỏi chỉ có một anh chàng Phụ - Chăn lợn mới nghĩ ra được. Annuvin ư? Eo ơi! Tôi không muốn đến đó chút nào. Sao lúc nào anh cũng phải nghĩ đến những chuyện không hay thế nhỉ? Tôi đoán vết thương của anh đã ảnh hưởng sao đó đến đầu óc của anh. Giờ trông anh khá hơn nhiều rồi, nhưng vẫn xanh xao lắm, như một cây tỏi tây luộc ấy.”
“Đừng huyên thuyên nữa, cho tôi biết chúng ta đang ở đâu đi!” Taran cố ra khỏi chiếc trường kỷ nhưng rồi lại yếu ớt nằm phịch xuống và đưa tay lên đầu.
“Anh chưa được ngồi dậy đâu.” Eilonwy cảnh cáo, “Nhưng tôi đoán là anh đã tự khám phá ra điều đó rồi.”
Uốn éo thân mình và ủn ỉn thật to, Hen Wen bắt đầu vui vẻ trèo lên chiếc trường kỷ. Eilonwy bật ngón tay đánh tách một cái.
“Dừng lại ngay, Hen,” cô ra lệnh, “mày biết là mày không được quấy rầy hay làm phiền anh ấy, nhất là không được ngồi lên anh ấy mà.” Cô bé lại quay sang Taran. “Chúng ta đang ở Caer Dathyl.” cô nói. “Thật là một nơi tuyệt vời. Dễ chịu hơn Lâu Đài Xoáy Ốc nhiều.”
Taran ngồi bật dậy một lần nữa khi nhớ lại mọi chuyện.
“Vua Sừng!” cậu kêu lên, “Chuyện gì đã xảy ra? Hắn đang ở đâu?”
“Có lẽ là dưới mồ, tôi nghĩ vậy.”
“Hắn chết rồi ư?”
“Chắc chắn rồi.” cô bé đáp. “Anh không nghĩ hắn sẽ chịu bị ném xuống mồ nếu hắn chưa chết đấy chứ? Hắn không còn lại nhiều nhặn gì, nhưng những gì còn lại đã được chôn rồi.” Eilonwy rùng mình. “Tôi nghĩ hắn là kẻ đáng sợ nhất tôi từng gặp, và đó là đã tính cả Achren luôn rồi đấy. Hắn đã ném tôi một cú mới ghê chứ - ngay trước khi hắn sắp sửa tấn công anh.” Cô xoa xoa trán. “Nhưng tôi cũng phải nói là anh đã giật lấy thanh gươm của tôi hơi thô bạo quá đấy. Tôi đã nói đi nói lại là anh không được rút nó ra khỏi vỏ cơ mà. Nhưng anh có chịu nghe đâu. Chính vì thế anh mới bị bỏng tay.”
Taran nhận thấy cái bao gươm màu đen của thanh Dyrnwyn không còn lủng lẳng trên vai Eilonwy nữa.
“Nhưng mà chuyện gì…”
“Thật may là anh đã ngất đi.” Eilonwy nói tiếp, “Anh đã không phải thấy phần tồi tệ nhất. Mặt đất rung chuyển và Vua Sừng cháy bùng lên cho đến khi hắn… ờ… tan thành từng mảnh. Thật chẳng hay ho gì. Tôi thực sự không muốn nói đến chuyện ấy nữa. Nó vẫn có thể làm tôi gặp ác mộng, ngay cả khi tôi không ngủ.”
Taran nghiến chặt hàm răng.
“Eilonwy,” cuối cùng cậu nói, “tôi muốn cô nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra thật chậm rãi và kỹ càng. Nếu không, tôi sẽ rất tức giận và cô sẽ phải hối tiếc đấy.”
“Làm - sao - tôi - kể - cho - anh - nghe - được” Eilonwy nói, cố tình nhấn mạnh từng chữ và nhăn mặt trong lúc nói, “nếu - anh - không - để - tôi - nói?” Cô nhún vai. “Thôi dù sao thì,” cô nói tiếp với tốc độ liến thoắng như trước, “ngay khi đội quân thấy Vua Sừng đã chết, chúng cũng tan rã luôn. Tất nhiên là không theo cùng một cách tan rã như hắn. Chúng bỏ chạy tán loạn thì đúng hơn, tựa như một đàn thỏ vậy – không, nói thế không đúng, phải không? Nhưng nhìn những người đàn ông đã trưởng thành sợ hãi như vậy thật là thảm hại. Tất nhiên, đến lúc đó thì các Con Trai của Don đã có cơ hội tấn công. Anh phải thấy những dải cờ óng ánh vàng mới được. Và những chiến binh mới đẹp trai làm sao.” Eilonwy thở dài. “Nó giống như… giống như… tôi thậm chí còn chẳng biết nó giống gì nữa.”
“Và Hen Wen…”
“Nó chưa hề rời khỏi căn phòng này kể từ khi người ta đem anh vào đây.” Eilonwy nói. “Cả tôi cũng thế.” Cô nói thêm, liếc nhìn Taran. “Nó là một cô lợn rất tinh khôn.” Eilonwy tiếp tục. “Ồ, tôi đoán là nó cũng có lúc hoảng lên và mất bình tĩnh. Và nó có thể tỏ ra rất bướng bỉnh khi nó muốn. Đôi khi tôi tự hỏi không biết giữa những con lợn và người chăn dắt chúng có khác biệt lắm không. Tôi không nói đến một ai cụ thể đâu, anh cũng biết đấy.”
Cánh cửa đối diện chiếc trường kỷ của Taran hé mở. Cái đầu tóc vàng dựng đứng và chiếc mũi nhọn của Fflewddur Fflam hiện ra.
“Vậy là cậu đã quay lại với chúng tôi rồi.” chàng ca sĩ reo lên. “Hay như theo cậu sẽ nói thì chúng tôi đã quay lại với cậu.”
Gurgi và ông lùn đang đứng sau lưng chàng ca sĩ cũng lao vào; bất chấp lời phản đối của Eilonwy, họ vây quanh Taran. Fflewddur và Doli không bị thương tích gì, nhưng đầu Gurgi bị băng bó và nó hơi tập tễnh một chút.
“Vâng! Vâng!” nó kêu, “Gurgi đã chiến đấu cho người bạn của nó! Những cú đâm chém mới đáng sợ làm sao! Những tên chiến binh hung ác đã đánh lên cái đầu yếu ớt khốn khổ của nó, nhưng Gurgi gan dạ đã không bỏ chạy, ồ, không!”
Taran cảm động mỉm cười với nó.
“Tôi rất lấy làm tiếc vì cái đầu yếu ớt khốn khổ của bạn,” cậu nói, đặt tay lên vai Gurgi, “và vì một người bạn đã bị thương vì tôi.”
“Vui sướng biết bao! Những cú đâm chém chan chát mới kinh khủng làm sao! Gurgi dữ tợn đã khiến những chiến binh độc ác phải hoảng sợ và la hét.”
“Đúng thế đấy,” chàng ca sĩ nói, “nó là người dũng cảm nhất trong số chúng tôi. Mặc dù ông bạn nhỏ con của tôi đây cũng làm được những điều thật đáng kinh ngạc với cây rìu.”
Lần đầu tiên Doli nhe răng cười.
“Chưa bao giờ tôi nghĩ là có ai trong số các bạn lại có chút dũng khí nào.” Ông nói, cố tỏ ra cộc cằn. “Cứ tưởng các bạn chỉ là một lũ hèn nhát, nhu nhược. Xin nhận lời tạ lỗi sâu sắc nhất của tôi.” Ông nói thêm, cúi đầu xuống.
“Chúng tôi đã ghìm chân đội quân lại,” Fflewddur nói, “cho đến khi chúng tôi biết chắc là các bạn đã chạy xa rồi. Một số trong bọn chúng hẳn sẽ thù chúng tôi lâu lắm đây.” Gương mặt chàng ca sĩ sáng lên. “Và thế là chúng tôi đứng đó,” anh ta nói to, “chiến đấu như điên, mặc dù quân thù đông hơn gấp bội. Nhưng một người họ Fflam không bao giờ đầu hàng! Tôi đối phó với ba tên một lúc. Chém một cú! Đâm một cú! Một tên túm lấy tôi từ phía sau, đồ hèn. Nhưng tôi gạt được hắn đi. Bọn tôi đã bắt chúng phải lùi lại và cứ thế tiến về phía Caer Dathyl, vừa đi vừa đâm bên nọ, chém bên kia, bị bao vây tứ phía…”
Taran nghĩ bộ dây đàn của Fflewddur sắp bật tung ra bất kỳ lúc nào. Cậu ngạc nhiên thấy chúng vẫn vẹn nguyên.
“Và về phần chúng tôi là như thế.” Fflewddur kết luận với một cái nhún vai vô tư lự. “Nghĩ lại thì mọi việc cũng khá dễ dàng; tôi không hề sợ là mọi việc sẽ tệ đi, không một phút nào.”
Một sợi dây đứt đánh “tưng” một cái. Fflewddur cúi xuống gần Taran.
“Tôi chết khiếp đi được,” anh ta thì thào, “sợ đến xanh mét cả mặt.”
Eilonwy túm lấy chàng ca sĩ và đẩy anh ta ra cửa.
“Đi đi!” cô hét lên, “tất cả các vị! Các vị sẽ làm anh ấy mệt lử với những chuyện huyên thuyên vớ vẩn ấy thôi.” Cô bé đẩy Gurgi và ông lùn theo sau Fflewddur. “Và ở lại ngoài ấy đi! Không ai được vào cho đến khi tôi cho phép.”
“Kể cả ta ư?”
Taran bật dậy khi nghe thấy giọng nói quen thuộc. Gwydion đang đứng nơi ngưỡng cửa. Trong một thoáng, Taran không nhận ra ông. Thay cho chiếc áo choàng bạc màu và cái áo trong bằng vải thô, Gwydion đang mặc bộ y phục sang trọng của một ông hoàng. Tấm áo choàng lộng lẫy của ông rủ xuống những nếp gấp mềm mại. Trên sợi dây chuyền quanh cổ ông lấp lánh một đĩa vàng tròn hình mặt trời. Cặp mắt xanh của ông sáng rực với một chiều sâu và sức mạnh mới mẻ. Giờ Taran thấy ông giống hệt như cậu đã mường tượng. Không chú ý tới cánh tay bị thương của mình, Taran nhảy ra khỏi chiếc trường kỷ. Vị tướng cao lớn sải bước về phía cậu. Dáng điệu uy nghi của ông khiến Taran quỳ một gối xuống.
“Ông hoàng Gwydion.” cậu khẽ nói.
“Đây đâu phải là lời chào của một người bạn dành cho một người bạn.” Gwydion nói, nhẹ nhàng nâng Taran dậy. “Ta sẽ vui hơn nếu nhớ đến một chú bé Phụ - Chăn lợn đã từng sợ bị ta đầu độc trong cánh rừng gần Caer Dallben.”
“Sau khi rời Lâu Đài Xoáy Ốc,” Taran lắp bắp, “cháu không bao giờ nghĩ là còn được thấy ngài con sống.” Cậu nắm chặt bàn tay Gwydion và oà khóc không chút ngượng ngùng.
“Ta còn sống sót khoẻ mạnh hơn cháu một chút.” Gwydion mỉm cười. Ông đỡ cậu ngồi xuống ghế.
“Nhưng làm sao mà…” Taran mở lời, khi nhìn thấy món vũ khí đen sì méo mó đeo bên người Gwydion.
Gwydion nhận thấy vẻ dò hỏi trên mặt Taran.
“Đó là một món quà,” ông nói, “một món quà vương giả do một cô tiểu thư tặng cho ta.”
“Chính tôi đã thắt đai gươm cho ông ấy đấy.” Eilonwy ngắt lời. Cô quay sang Gwydion. “Cháu đã bảo anh ấy không được rút nó ra khỏi vỏ, nhưng anh ấy thật là bướng bỉnh không thể cứu vãn được.”
“May là cháu chưa rút nó hoàn toàn ra khỏi vỏ.” Gwydion nói với Taran. “Ta e là ngọn lửa của Dyrnwyn quá mạnh, ngay cả với một chú bé Phụ - Chăn lợn. Nó là một món vũ khí đầy quyền lực, đúng như Eilonwy đã nhận ra.” Gwydion nói thêm, “Nó cổ xưa đến nỗi ta đã nghĩ rằng nó chỉ là một truyền thuyết. Vẫn còn rất nhiều điều bí mật sâu kín liên quan đến thanh gươm Dyrnwyn mà ngay cả những người thông thái nhất cũng không thể biết hết được. Việc nó bị lấy mất đã khiến Lâu Đài Xoáy Ốc sụp đổ và giáng cho Arawn một đòn nặng nề.”
Bằng một cử chỉ mạnh mẽ, Gwydion rút lưỡi gươm ra và giơ nó lên. Món vũ khí toả ánh sáng chói loà. Sợ hãi và kinh ngạc, Taran lùi lại, vết thương của cậu lại nhói lên. Gwydion vội tra lưỡi gươm vào bao.
“Ngay khi nhìn thấy ông hoàng Gwydion,” Eilonwy chen vào, nhìn vị tướng vẻ ngưỡng mộ, “tôi biết ông ấy chính là người có thể có được thanh gươm. Phải nói là tôi rất mừng khi thoát được cái vật cồng kềnh ấy.”
“Đừng ngắt lời nữa,” Taran kêu lên, “hãy để tôi tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với người bạn của tôi trước khi cô lại tiếp tục lảm nhảm.”
“Ta sẽ không làm cháu mệt mỏi với một câu chuyện dài dòng đâu.” Gwydion nói. “Mối đe doạ từ Arawn đã bị gạt sang bên. Có thể hắn sẽ lại tấn công lần nữa, bao giờ và bằng cách nào thì không ai đoán được. Nhưng trong lúc này thì không còn gì đáng phải lo ngại.”
“Thế còn Achren thì sao ạ?” Taran hỏi. “Và Lâu Đài Xoáy Ốc…”
“Ta không có mặt ở Lâu Đài Xoáy Ốc khi nó sụp đổ.” Gwydion nói. “Achren đã lôi ta ra khỏi xà lim và trói ta quẳng lên lưng một con ngựa. Cùng với bọn Vạc Dầu, mụ đưa ta đến lâu đài Oeth – Anoeth.”
“Oeth – Anoeth?” Taran hỏi.
“Đó là một pháo đài ở Annuvin,” Gwydion đáp, “cách Lâu Đài Xoáy Ốc không xa lắm. Nó được dựng lên từ khi Arawn còn thống trị một vùng rộng lớn hơn trên xứ Prydain này. Nó là nơi cái chết ngự trị, các bức tường của nó chất đống xương người. Ta đã có thể thấy trước những cực hình mà Achren định bắt ta phải chịu. Thế nhưng trước khi ném ta vào ngục tối, mụ túm lấy cánh tay ta. ‘Tại sao ngươi lại chọn cái chết, ông hoàng Gwydion?’ mụ thét hỏi, ‘trong khi ta có thể khiến ngươi được bất tử và cho ngươi quyền lực mà người trần không có được? Ta đã thống trị xứ Prydain này từ lâu trước Arawn.’ Achren bảo ta, ‘Chính ta đã ban cho hắn quyền lực - nhưng hắn đã dùng nó để phản bội ta. Giờ đây, nếu ngươi muốn, ngươi có thể thế chỗ chính Arawn và trị vì vương quốc của hắn.’ ‘Ta rất sẵn lòng lật đổ Arawn’, ta đáp lại, ‘và ta sẽ dùng những quyền lực ấy để tiêu diệt cả ngươi cùng với hắn.’ Nổi cơn thịnh nộ, mụ ném ta vào ngục tối sâu nhất.” Gwydion nói. “Ta chưa bao giờ đến gần cái chết của mình như ở Oeth – Anoeth. Ta không biết mình đã nằm đó bao lâu.” Gwydion nói tiếp. “Ở Oeth – Anoeth, thời gian không trôi qua như những nơi khác. Tốt hơn hết là ta không nên nhắc đến các cách tra tấn mà Achren đã nghĩ ra. Nhưng cực hình khủng khiếp nhất không giáng vào thân thể mà giáng vào tinh thần, và trong số đó thì nỗi tuyệt vọng là điều đau đớn nhất. Thế nhưng ngay cả trong những lúc cùng cực nhất ta vẫn cố bám lấy hi vọng. Bởi vì Oeth – Anoeth là thế: nếu một người có thể trụ vững khi bị giam cầm ở đó, thì thậm chí cả cái chết cũng sẽ chia xẻ những bí mật của nó với anh ta. Ta đã trụ vững.” Gwydion khẽ nói, “và cuối cùng ta đã khám phá ra những điều trước kia vẫn bị che lấp. Nhưng ta cũng sẽ không nói tới những điều này. Các cháu chỉ cần biết là ta đã hiểu được sự sống và cái chết, hiểu được tiếng cười và nước mắt, hiểu được kết thúc và khởi đầu. Ta thấy được mọi chân lý của thế giới, và biết rằng không xiềng xích nào có thể trói buộc được ta. Gông cùm của ta trở nên nhẹ bỗng như những giấc mơ. Khi đó, những bức tường nhà ngục giam cầm ta điều tan biến.”
“Thế chuyện gì đã xảy ra với Achren ạ?” Eilonwy hỏi.
“Ta không biết,” Gwydion nói, “sau đó ta không nhìn thấy mụ nữa. Ta nấp trong rừng vài ngày để những vết thương trên người lành lại. Lâu Đài Xoáy Ốc chỉ còn là một đống đổ nát khi ta quay lại tìm cháu; và ở đó ta đã khóc than cho cái chết của cháu.”
“Cũng như cháu đã khóc than cho ngài.” Taran nói.
“Ta lại lên đường để quay về Caer Dathyl.” Gwydion nói tiếp. “Ta đi theo con đường mà Fflewddur đã chọn một hồi lâu, nhưng ta đi qua thung lũng sau các cháu. Về đến đây thì ta đã đi trước các cháu một đoạn. Hôm ấy, một con Quái Điểu lao từ trên trời xuống và bay thẳng về phía ta. Ta kinh ngạc thấy nó không tấn công hay bay vụt đi khi nhìn thấy ta mà lại vỗ cánh dừng lại trước mặt ta, kêu lên một cách lạ lùng. Tiếng kêu của loài Quái Điểu bây giờ không còn xa lạ gì đối với ta – hay tiếng nói của bất kỳ sinh vật nào cũng vậy – và ta hiểu rằng một nhóm người lữ hành đang đi từ rặng đồi gần đó lại và một con lợn trắng đi theo họ. Ta vội vã trở lại đường cũ. Đến lúc đó, Hen Wen đã nhận ra ta đang ở gần. Khi nó chạy khỏi cháu,” Gwydion nói với Taran, “nó không chạy vì hoảng sợ mà là để tìm ta. Những điều nó cho ta biết còn quan trọng hơn cả dự đoán của ta, và ta đã hiểu tại sao Arawn lại săn lùng nó ráo riết đến thế. Hắn cũng hiểu rằng nó biết được điều duy nhất có thể huỷ diệt được hắn.”
“Đó là gì ạ?” Taran vội hỏi.
“Nó biết tên thật của Vua Sừng.”
“Tên hắn ư?” Taran kinh ngạc kêu lớn. “Cháu không biết là một cái tên lại có quyền lực đến thế.”
“Đúng vậy.” Gwydion đáp, “Một khi cháu có đủ dũng khí để nhìn thẳng vào cái ác, nhận rõ chân tướng nó và gọi đúng tên nó thì nó không thể làm gì cháu được, và cháu có thể tiêu diệt nó. Nhưng, bất kể sự am hiểu của ta,” ông nói, đưa tay gãi gãi chiếc tai của cô lợn trắng, “ta cũng không thể khám phá ra được tên của Vua Sừng nếu không có Hen Wen.
Hen Wen đã cho ta biết bí mật này trong rừng. Ta không cần đến thẻ bài hay sách thần chú, vì chúng ta có thể trò chuyện như cùng một trái tim khối óc. Con Quái Điểu bay vòng trên đầu đã đưa ta đến chỗ Vua Sừng. Phần còn lại thì cháu biết rồi đấy.”
“Con Quái Điểu ấy giờ đang ở đâu ạ?” Taran hỏi.
Gwydion lắc đầu.
“Ta không biết. Nhưng ta không nghĩ là nó sẽ quay về Annuvin đâu. Arawn sẽ xé xác nó ra nếu hắn phát hiện những điều nó đã làm. Ta chỉ biết là nó đã đền đáp lại lòng tốt của cháu một cách tốt nhất. Giờ thì cháu nghỉ đi.” Gwydion nói. “Sau này chúng ta sẽ nói đến những chuyện vui vẻ hơn.”
“Thưa ông hoàng Gwydion,” Eilonwy cất tiếng gọi khi ông đứng lên đi ra. “thế tên thật của Vua Sừng là gì ạ?”
Một nụ cười nở ra trên khuôn mặt đầy nếp nhăn của Gwydion.
“Nó sẽ mãi mãi là một điều bí mật.” ông đáp, rồi khẽ vỗ lên má cô bé. “Nhưng ta đảm bảo rằng nó không đẹp bằng một nửa tên cháu đâu.”
Vài ngày sau, khi Taran đã lại sức và có thể đi lại mà không cần người đỡ, Gwydion dẫn cậu đi quanh Caer Dathyl. Nằm trên một đỉnh đồi cao, chỉ một mình pháo đài này cũng đủ rộng để chứa vài Caer Dallben trong đó. Taran nhìn ngắm những xưởng đúc vũ khí, chuồng ngựa, lò ủ bia, các xưởng dệt và một lâu đài lớn. Những căn nhà tranh nằm trong thung lũng bên dưới, nơi các dong suối trong veo chảy qua, lấp lánh ánh vàng dưới ánh mặt trời. Sau đó, Gwydion cho gọi tất cả nhóm bạn đến gian đại sảnh của Caer Dathyl, và ở đó, giữa những dải cờ và những hàng gươm giáo, họ được nhận lời tạ ơn của Vua Math, con trai Mathonwy, người trị vì dòng họ Don. Vị quốc vương có chòm râu bạc trắng, trông già gần bằng cụ Dallben và cũng nghiêm nghị như vậy, vậy mà hoá ra lại còn huyên thuyên hơn cả Eilonwy. Sau khi rốt cuộc người cũng kết thúc một trong những bài diễn văn dài nhất mà Taran từng được nghe, nhóm bạn liền cúi đầu chào và một đội lính danh dự kiệu Vua Math ra khỏi gian Đại Sảnh trên một chiếc kiệu phủ vóc vàng. Khi Taran và các bạn chuẩn bị cáo từ, Gwydion gọi họ lại.
“Đây là những món quà nhỏ dành cho lòng can đảm lớn lao.” Ông nói. “Nhưng ta có quyền ban chúng cho các bạn, và ta rất vui sướng được làm vậy, với hi vọng các bạn sẽ trân trọng chúng vì chúng là những vật lưu niệm nhiều hơn vì giá trị của chúng. Dành cho Fflewddur Fflam là một sợi dây đàn hạc. Cho dù tất cả các sợi dây đàn khác của anh có đứt hết thì sợi này vẫn mãi mãi nguyên vẹn, bất kể anh có phóng đại nhiều đến mức nào. Và âm thanh của nó sẽ là tiếng nhạc chuẩn nhất và hay nhất. Dành cho Doli người chiến binh Mỹ Tộc là khả năng tàng hình, chừng nào mà ông còn muốn sử dụng nó. Dành cho Gurgi trung thành và gan dạ là một túi thức ăn luôn luôn đầy. Hãy giữ gìn nó thật cẩn thận; nó là một trong những báu vật của Prydain đấy. Dành cho Eilonwy của Dòng họ Llyr là một chiếc nhẫn vàng nạm một viên ngọc được chạm khắc bởi những người thợ thủ công Mỹ Tộc cổ xưa. Nó rất quý giá; nhưng với ta thì tình bạn của cháu con quý hơn. Còn dành cho Taran xứ Caer Dallben…” nói đến đây, Gwydion dừng lại. “Phần thưởng dành cho cậu bé là khó lựa chọn hơn cả.”
“Cháu không đòi hỏi một phần thưởng nào.” Taran nói. “Cháu không cần người bạn nào phải đền đáp lại những điều cháu sẵn lòng làm vì tình bạn và danh dự của cháu.”
Gwydion mỉm cười.
“Taran xứ Caer Dallben,” ông nói, “cháu vẫn dễ tự ái và ương ngạnh như trước. Hãy tin là ta biết rõ điều mà trái tim cháu mong ước nhất. Những mơ ước về các chiến công oanh liệt và các thành tích anh dũng đều là những ước mơ cao quý; nhưng chính cháu, chứ không phải ta, mới là người có thể biến nó thành sự thật. Hãy yêu cầu ta một điều gì khác, và ta sẽ ban nó cho cháu.”
Taran cúi đầu.
“Bất kể những gì đã xảy ra với cháu, cháu vẫn yêu mến các thung lũng và những ngọn đồi ở vùng đất phương Bắc của ngài. Nhưng ý nghĩ của cháu vẫn hướng về Caer Dallben. Cháu nóng lòng được trở về nhà.”
Gwydion gật đầu. “Được.”