"Chim sa" là điển nói về Vương Chiêu Quân, tức Vương Tường. Thực ra trong sách của Trang Tử viết: Vương Tường, Ly Cơ là những người đẹp, cá nhìn thấy mà phải tránh lặn sâu đáy nước, chim nhìn thấy phải tránh bay vút đi. Dần dần dùng ngược lại hóa ra "Chim sa".
Nàng là con gái của Vương Trung, Tri phủ châu Việt (Chiêu Quân từ nhỏ đã xinh đẹp, thông minh. Có người miêu tả: Miệng cười nước đổ thành nghiêng…, đà giỏi như Bá Ấp Khảo (đời Chu), viết chữ vẽ tranh đẹp như Vương Duy đời Đường.
Thời Nguyên đế nhà Hán, Chiêu Quân phải tiến cung. Cung nữ thì nhiều, do đó đặt lệ sai họa sĩ vẽ tranh các cung nữ để dâng vua. Nhà vua ưng ai thì người đó được hầu đêm. Lúc ấy có một trong những thợ vẽ là Mao Diên Thọ người Đỗ Lăng, vẽ truyền thần chân dung rất giỏi trông như người thật. Bởi vậy có nhiều cung nữ tranh nhau đem vàng bạc hối lộ Diên Thọ để được vẽ chân dung mĩ miều hấp dẫn. Riêng có Chiêu Quân không chịu. Vì thế nên Diên Thọ vẽ hơi buồn và lại chấm một nốt ruồi trên gò má (theo quan niệm cũ, nốt ruồi ở gò má có tính chất làm cho chồng hoặc người đàn ông bị hại).
Thời nhà Hán (từ Cao Tổ) vẫn có việc giao hảo với các nước Hồ (Hung Nô, Thiền Vu…), cụ thể là một công chúa nhà Hán được gả làm vợ vua Hồ. Bấy giờ vua nước Thiền Vu là Hô Hàn Tà sai sứ sang nước Hán xin cưới một công chúa làm "Yên Chi" (hoàng hậu), Hán Nguyên đế sai gả Vương Tường (được phong danh là công chúa Vĩnh An). Trước khi đi đưa dâu, Hán Nguyên đế cho vời Chiêu Quân vào gặp mặt. Lúc gặp nàng, vua Hán mới biết Chiêu Quân là một tuyệt thế giai nhân, nhưng việc đã lỡ rồi nên vẫn gả cho vua Hồ (dã sử có chép tối hôm đó vua gặp Chiêu Quân, muôn vàn ân hận, kể cả chuyện có lần nằm mơ thấy Chiêu Quân. Hai người từng thề thốt sẽ lấy nhau…). Chiêu Quân gạt nước mắt ra đi.
Sau khi Chiêu Quân ra khỏi cổng thành thì vua sai bắt tên thợ vẽ Mao Diên Thọ đem chém đầu bêu chợ. Vua thân chinh đi tiễn nàng tới tận Nhạn Môn Quan. Tới đây, nàng vửa gảy tì bà vừa đọc mấy câu:
Vọng quân vương hề hà kỳ
Chung vu tuyệt hề dị vực
Tạm dịch:
Mong gặp nhà vua chừ bao giờ
Cuối cùng rồi lại vùi thân chừ đất lạ
Chiêu Quân sang Hồ, được ít lâu thì Hồ Hàn Tà chết, con trai là Phục Chu lên ngôi. Tục ở Hồ, vợ cha lại lấy con. Lúc đầu nàng không ưng, nhưng vua Hán cho người bảo ở đâu thì theo tục đó.
Tục truyền khi Chiêu Quân mất, cỏ ở các ngôi mộ khác đều màu trắng (vì lạnh quá) riêng cỏ ở mộ Chiêu Quân sắc xanh. Chuyện này mấy nghìn năm sau luôn trở thành đề tài cho văn chương thơ phú…
Đời Tấn (cách Hán Nguyên đế mấy thế kỷ), Thạch Sung viết một bài hát về Chiêu Quân. Tuy vậy, do kiêng tên Tư Mã Chiêu (tức Tấn Văn đế) nên đã đổi tên Chiêu Quân thành Minh Quân hoặc Minh Phi cho người thiếp yêu là Lục Châu hát múa.
Tạm dịch:
Nhà ta vốn nề nếp
Sắp sang đất Thiền Vu
Chưa hết lời
Phía trước đã bay cờ
Hầu tớ dàn dụa lệ
Ngựa xe cũng ngẩn ngơ
Thương nhau quặn gan ruột
Vạt lụa hoen lệ mờ
Ngày lại ngày dầu dãi
Rồi đến cõi Hung Nô
Lều vải làm cung điện
"Yên Chi" đổi xưng hô
đất lạ luôn đau đáu
Giàu sang mà chi giờ
Cha con cùng làm nhục
Vừa sợ lại vừa dơ
Muốn chết không phải dễ
ẩn nhẫn kiếp sống thừa
sống thừa càng tủi cực
Phẫn uất rối tơ vò
Muốn nhờ cánh hồng nhạn
Cưỡi vút nẻo mây mờ
Hồng nhạn cũng hờ hững
Đứng ngồi đều thẫn thờ
Xưa là hộp ngọc quý
Nay là hóa phân khô
Hoa sớm không thỏa dạ
Đành dầu như cỏ thu
Nhắn nhủ người hậu thế
Chớ có lấy chồng xa
Về sau, như để tạ lỗi với Chiêu Quân, vua Hán cho tuyển em gái Chiêu Quân là Thụy Chiêu Quân vào cung.
Ở ta cũng có nhiều thơ từ về Chiêu Quân. Trong tập "Hồng Đức quốc âm thi tập" có mấy chục bài vịnh các cảnh ngộ Chiêu Quân đã trải qua.
Cao Bá Quát cũng viết nhiều, trong đó có những câu thơ nguyên văn chữ Hán, tạm dịch như sau:
Hà cớ mày ngài lệ tủi thân
Thành Hồ sương gió Hán trời xuân
Năm xưa hứa gả Thiền Vu chúa
Đâu biết hồng nhan đẹp tuyệt trần.
Đầu thế kỷ XX, có Nguyễn Thiện Kế cũng có bài lục bát mở đầu bằng:
Cô ơi cô đẹp nhất đời
Mà cô mệnh bạc thọ trời cũng thua
Một đi từ biệt cung vua
Có đâu về nữa đất Hồ ngàn năm.
HẾT