Tiểu Thanh vốn quê Quảng Lăng, từ nhỏ đã kiều diễm thông minh khác thường. Năm lên mười đang chơi ở ngõ, chợt có một bà sư già từ thành Phù Dung tới Châu Dương đi ngang qua đấy, nhìn thấy cô bé Tiểu Thanh, bất giác kinh ngạc nói với người nhà họ Phùng:
- Con cái nhà ai thế này! Sắc sảo xinh đẹp thì khỏi phải nói. Tiếc một điều bạc mệnh quá. Nếu gia đình bằng lòng cho đi với tôi, có thể sống được ngoài ba chục tuổi.
Người nhà bực mình nói:
- Nếu chỉ cần sống đến ba chục tuổi thì ai chẳng làm được, cần gì một vị sư già như bà?
Bà sư ôn tồn nói:
- Mọi người không tin tôi thì tùy, những xin đừng cho cháu học chữ nghĩa.
Người nhà cười bảo:
- Ở đời bao nhiêu người đọc sách viết thơ, chả nhẽ họ cũng đoản mệnh cả sao?
Vị sư già biết không khuyên được bèn đi ngay.
Lúc ấy, ở Quảng Lăng, phụ nữ đều ham biết chữ thạo nghề. Mẹ Tiểu Thanh vốn là nữ nghệ nhân có nhiều người theo học. Tiểu Thanh thường theo mẹ đi tới các gia đình. Vẻ xinh đẹp, tà ứng đối của nàng làm cho nhiều người khâm phục. Năm mười sáu tuổi lấy Phùng Sinh. Phùng Sinh là công tử giàu sang ham mê người đẹp, nhưng vợ cả lại rất ghen. Đồng ý cho chàn được lấy thiếp, nhưng không được ở gần. một tháng chỉ được gặp nhau hai lần. Khi Phùng đến Quảng Lăng, nghe tiếng Tiểu Thanh, trong lòng mê mẩn ngay, nhờ người hỏi giúp. Mẹ nàng ham vàng bạc nhiều, nên nhận lời gả. Tiểu Thanh biết chuyện, nước mắt giàn giụa nói với mẹ:
- Lấy chồng xa xôi ngàn dặm thế này, thì mẹ con ta lúc sống cũng không mong gặp nhau. Quả là bạc mệnh thật.
Phùng Sinh theo lời vợ cả, vội vàng đưa Tiểu Thanh về nhà. Vợ cả thấy nàng quá xinh đẹp, nên càng ghen tức. Tiểu Thanh cố ý phục tùng ngoan ngoãn, thì vợ cả lại càng cho là nàng có âm mưu xấu xa. Thế là cấm chỉ không cho chồng được nói chuyện riêng với Tiểu Thanh. Đồ son phấn của nàng bị vứt bỏ hết, sách vở cảu nàng cũng bị đem đốt.
Họ Phùng không biết làm thế nào, đến nhờ cầu cứu người bà con là Dương phu nhân, nhờ đến khuyên giải hộ. Dương phu nhân tới nơi, biết là bậc hiền nữ, song không tài nào làm vơi bớt nỗi ghen tuông của vợ cả. Dương phu nhân bèn rủ người vợ cả đi xem hội. Người vợ cả bắt Tiểu Thanh đi theo. Khi lễ pho tượng Đại sĩ, vợ cả hỏi Tiểu Thanh:
- Tại sao trong chùa nhiều tượng phật, mà người ta lại lễ pho tượng này nhiều hơn?
Tiểu Thanh thưa:
- Vì đức phật ấy trông rất nhân từ hiền lành.
Vợ cả cho Tiểu Thanh là có ý nói châm chọc mình, bèn cười nhạt rồi bảo:
- Thôi được, thế ta cũng sẽ từ bi với mi, mi có bằng lòng không?
Dương phu nhân thừa dịp này nói với vợ cả:
- Nhà chị cũng có một ngôi chùa trên đảo Mai, sao không cho Tiểu Thanh ra đó ở, để đỡ cảnh chướng tai gai mắt hàng ngày?
Người vợ cả thuận ý làm theo.
Khi về tới nhà trông thấy Phùng Sinh, Tiểu Thanh toan lánh mặt. Mụ cả sẵng giọng:
- Đây là nhà của ta, mi không lánh đi được chỗ nào. Ta có một nơi rất hợp với mi là đảo Mai, cảnh vật tĩnh mịch, rất hợp với tính tìnhcảu mi. Ta sẽ cho mi ra đó, ví như công tử có thỉnh thoang ra đó thì cũng không làm vướng mắt ta. Nhưng có ba điều mi phải làm theo. một là không có lệnh của ta thì công tử có đến cũng không được gặp mặt. hai là không có lệnh của ta mà công tử có thư từ đến cũng không được nhận. Ba là muốn gửi thư từ gì cho công tử phải để ta xem trước. Không giữ đúng thế thì đừng có trách ta.
Tiểu Thanh vâng dạ, nhận hết. Có lần Dương phu nhân khuyên nàng bỏ đi, và bà sẽ tìm cách giúp đỡ. Tiểu Thanh cảm ơn và từ chối. Rồi nàng kể chuyện vị lão sư xem bói khi còn nhỏ cho Dương phu nhân nghe. Nàng nói:
- Số mệnh đã định sẵn rồi.
Dương phu nhân đành chịu, chỉ dặn nàng có cần gì cứ gọi bà, và bà cho Tiểu Thanh mượn sách để tiêu sầu. Lần đó hai người giàn giụa nước mắt chia tay nhau.
Ở Dư Mai(đảo Mai) có lần đọc chuyện "Mẫu đơn đình" do bà Dương cho mượn, Tiểu Thanh viết bốn câu thơ như sau:
Lãnh ngữ u song bất khả thính
Khiêu lăng nhần khán Mẫu đơn đình
Nhân gian diệc hữu thương vu ngã
Bất độc thương tâm thị Tiểu Thanh.
Tạm dịch:
Lời lạnh song sâu chẳng được rành
Khêu đèn buồn đọc mẫu đơn đình
Cõi đời cũng có người oan trái
Chả cứ đau lòng một Tiểu Thanh.
Từ đó, mỗi khi u uất, nàng lại giải sầu bằng thơ văn. Có lần nàng viết một bài từ có tên là "tiên trên trời" như sau:
Văn Cơ viễn giá Chiêu Quân tái
Tiểu Thanh tục phong lưu thái
Dã khuy nhất trận hắc cường phong
Hỏa luân hạ
Trừu thân khoái
Đơn đơn lánh lánh thanh lương giới
Nguyên bất thị uyên nhất phái
Hữu toán tố tương tư nhất khai
Tự tư tự giải thương lường
Tâm khả tại
Hồn khả tại
Trước sam hạn nẫm quần song đới
Tạm dịch:
Văn Cơ lấy chồng xa
Chiêu Quân ra cửa ải
Món nợ phong lưu Tiểu Thanh giờ mắc lại
một lần giông bão trời tối tăm
Vòng xe lửa hồng
Cố thoát ra nổi
Ngày đêm quạnh hiu cùng trơ trọi
Vốn không uyên ương duyên mất mối
Thôi đừng tương tư cho khổ nỗi
Tự suy, tự nghĩ, tự lo toan
Tâm còn mãi?
Hồn còn mãi?
Khoác vạt áo dài thắt chặt dải
Mỗi khi viết thư từ, nàng thường gửi cho Dương phu nhân, nhưng sau này Dương phu nhân cũng theo chồng đến làm quan ở nơi xa xôi, từ đó hai người không còn trao đổi văn chương nữa.
Nàng có tự vẽ một bức tranh, và vẽ vào quạt. Nhưng cất rất kín, không cho ai xem. Cứ chiều tối mờ, ra bờ hồ ngồi, lẩm nhẩm một mình…và lại viết một bài thơ.
Có một bài thơ như sau:
Tân trang cảnh dữ họa đồ tranh
Tự tại Chiêu Dương đệ kỷ danh
Sấu ảnh tự lân xuân thủy chiếu
Kham tu lân ngã ngã lân khanh
Tạm dịch:
Vẻ xinh xinh đẹp khó chia rành
Hẳn chốn Chiêu Dương chỗ đã đành
Soi nước xuân thương gầy vóc dáng
Thương nhau đây đấy vẫn ta mình
Từ đấy uất ức thành bệnh, như vậy hơn một năm, càng ốm nặng hơn. Người vợ cả nghe tin mừng rỡ, cho mời thầy lang đến xem mạch, cho con hầu mang thuốc tới. Tiểu Thanh cảm ơn, rồi hắt thuốc đi, cười nói một mình:
- Ta vốn không thiết sống, cũng nên đem tấm thân trong trắng về cõi phật…Cần gì đến thuốc thang của nhà ngươi?
Khi biết bệnh tình khó qua, nàng viết cho Dương phu nhân một bức thư.
Viết xong thì bệnh càng nặng, không cơm cháo gì, mỗi ngày chỉ uống một chén nước lê. Nhưng đầu tóc, quần áo không hề bù rối, nhếch nhác.
Một hôm nàng nói với bà già giúp việc nhờ nói với chồng tìm một người thợ vẽ giỏi, nhờ vẽ cho một bức chân dung. Vì không nhân dịp này lưu lại chút hình dung, thì không còn lúc nào nữa.
Họa sĩ tới, vẽ xong, nàng ngắm một lúc rồi nói:
- Chỉ mới đúng hình ngoài, nhưng chưa tả được cái "thần", nhờ thầy vẽ giùm bức thứ hai.
Họa sĩ lại vẽ bức khác. Tiểu Thanh xem xong lại nói:
- "Thần" đã có, song chưa sống động. Điều đó chắc do tôi hẳn còn chưa tự nhiên.
Nói rồi nàng cùng bà già sắp xếp dọn dẹp và sửa soạn quần áo,cười nói thoải mái. Họa sĩ vẽ xong, Tiểu Thanh nhìn rồi vui cười nói:
- Bây giờ thì đạt rồi! Cám ơn thầy.
Họa sĩ đi rồi, nàng nâng bức tranh đó lên đầu giường, rồi rót rượu thắp hương, tự khấn vái:
- Tiểu Thanh! Tiểu Thanh! Duyên phận nhà ngươi cũng thế sao?
Nói xong khóc ngất. Bà bõ lay mãi mới tỉnh. Nàng bèn lấy một phong thư nhờ bà bõ chuyển cho Dương phu nhân, sau đó chỉ bức tranh và dặn: "Bức tranh mày nhờ bà cố giữ gìn cho thật tốt. Cháu có ít đồ nữ trang, xin tặng lại cho các chị nhà bà".
Khi mất, Tiểu Thanh mới một8 tuổi. Công tử họ Phùng được tin, lảo đảo đi tới, nhìn thấy bức tranh trông giống như người còn sống, chỉ không nói cười mà thôi. Họ Phùng gào lên thổ hơn đấu huyết…Lục cuốn thơ văn, đọc ra một bài gửu Dương phu nhân như sau:
Bách kết hồi trường tả lệ ngân
Trùng lai duy hữu cựu chu môn
Tịch dương nhất phiến đào hoa ảnh
Tri thị đình đình Thiển nữ hồn
Tạm dịch:
Trăm khúc vò tơ lệ đổ dồn
Lại về chỉ chốn cổng sơn son
Ánh chiều một mảnh hoa đào bóng
Gái Thiển rành đây vẫn còn hồn
.
Xem xong công tử họ Phùng gào to:
- Ta phụ nàng rồi! Ta phụ nàng rồi!
Người vợ cả biết chuyện, tức uất sai tìm bức tranh (thứ nhất) đốt ngay, lại bắt chồng đưa cuốn thi tập của Tiểu Thanh để đem hủy đi.
May còn bức tranh thứ hai và một số bài thơ gửi bà bõ già thì còn được chín bài bốn câu, trong đó có thơ gửi Dương phu nhân. Sau này một người bạn của họ Phùng là Lưu Vô Mộng tới đảo Mai, thấy bên cửa sổ Tiểu Thanh năm trước còn sót lại ba dòng trong bài từ "Làng Nam". Có người còn cho là hay hơn những câu của bà Lý Di An.
Thi hào Nguyễn Du của Việt Nam từng viết bài thơ "Đọc truyện Tiểu Thanh", trong đó có mấy câu như:
Hồ tây vườn thắm hóa gò trơ
Thương viếng bên song sách mấy tờ
Son phấn có thần đau chuyện khuất
Văn chương không mệnh nửa thành tro.