Tôi tên là Điệp Triệt, sinh ra trong bộ tộc Vu Lạc. Mẫu hậu nói khi tôi sinh ra vừa đúng lúc sao Trọc Việt lên đỉnh cao nhất, trong ánh sáng xanh trong của nó trải đầy trời đêm mênh mông, cuối cùng rơi vào trong mắt tôi, trở thành linh hồn trong trắng của tôi.
Từ nhỏ, tôi đã là đứa trẻ có linh lực cao cường, tóc dài hơn tất cả các anh chị, họ rất yêu quý tôi, luôn bế tôi đặt lên vai họ và luôn trìu mến gọi tên tôi.
Người mà tôi thích nhất là Trì Mặc, anh cũng là đứa bé trai ít tuổi nhất trong bộ tộc, nhưng có một mái tóc mềm óng như tơ. Chúng tôi cùng nhau lớn lên.
Cũng giống như tôi, anh có linh lực rất cao cường, dạy cho tôi mọi thứ ảo thuật, dạy tôi cách khống chế biến hóa ảo giác thành dây đàn ánh sáng, ánh mắt dịu dàng và nụ cười luôn trên môi.
Khi chúng tôi còn là trẻ con, anh luôn dắt tôi vào sâu trong rừng tuyết, ngắm những con chim to lớn bay qua bay lại dưới tán lá rừng, tiếng kêu thê thảm của chúng như vạch những vết thương trong suốt trên bầu trời xanh. Anh thường nhìn chúng và nói với tôi, Điệp Triệt, muội có muốn bay lên trời như lũ chim không? Quả thực tôi rất muốn biết, trên những đám mây kia là hoa anh đào nở rộ hay đầy những vong linh?
Mỗi lần Trì Mặc nói với tôi như vậy, tôi luôn nhìn thấy những bóng rợp của cây rừng loang lổ dưới ánh mặt trời như đang rơi vào trong mắt trắng long lanh của tiểu đệ. Rất nhiều lần tôi lầm tưởng mắt của anh màu đen, một mu đen huyền diệu khác thường thuần túy như của một loại mực, bao dung và trùm lên tất cả. Tôi luôn cảm thấy nỗi sợ hãi sâu xa, nhưng mỗi lần như vậy Trì Mặc lại cười với tôi, nụ cười đẹp và trong sáng làm sao! Giống hệt như ánh sáng mặt trời tan ra từng mảnh biến thành những bông hoa lóng lánh, nở rộ trên khuôn mặt của anh vậy.
Tôi luôn tin rằng trên người anh của tôi luôn tỏa ra mùi thơm của hương hoa, cũng như tin rằng trên quần áo của anh luôn luôn có linh hồn của hoa.
Hương thơm thoang thoảng nhưng có thể truyền mãi muôn đời.
Trì Mặc hơn tôi mười tuổi, khi tôi một trăm hai mươi tuổi thì anh đã một trăm ba mươi tuổi rồi. Một buổi sáng, sau khi ngủ dậy tôi định đi tìm anh để cùng tôi đi chơi thì nhìn thấy anh đang đứng giữa tuyết, ra dáng là một người đã trưởng thành. Trong lúc anh quay đầu lại, tôi nghe thấy tiếng những bông anh đào đang bừng nở.
Trì Mặc đứng trước mặt tôi, người cao to và mạnh mẽ, mái tóc dài thướt tha như quấn lấy tấm thân cao lớn. Trì Mặc khôi ngô tuấn tú hơn cả phụ hoàng và tất cả các anh lớn của tôi, đôi lông mày như hai lưỡi mác mọc chếch lên tới tận chân tóc hai bên thái dương, đôi mắt sáng như vì sao buổi sớm rất rực rỡ, bộ mặt với những đường nét đậm như được gió rét khắc họa. Anh quay về phía tôi, cười để lộ hàm răng trắng tinh, ôi, nụ cười mới rạng rỡ làm sao!
Phía sau lưng, hoa anh đào bừng nở.
Trì Mặc bước tới trước mặt tôi, khom người, ghé sát mặt tôi rồi nói, Điệp Triệt, anh chào muội.
Mười năm sau, tôi đã là người trưởng thành, đứng trước mặt Trì Mặc, cười với anh, giống hệt nụ cười của anh với tôi ngày nào. Trì Mặc nheo mắt lại nhìn tôi và nói, Điệp Triệt, muội chính là cô gái đẹp nhất mà anh nhìn thấy, còn đẹp hơn mẫu hậu của anh nhiều!
Mẫu hậu của Trì Mặc là một ái thiếp của Phụ hoàng, bà đã mất từ lâu, nhưng không rõ lý do gì mà cái chết đó bị giấu kín chỉ có hai người biết được, đó là phụ hoàng và mẫu hậu của tôi.
Trì Mặc từ nhỏ đã mất mẹ nhưng rất hiền lành, ôn hòa và không hề tranh giành với ai, khi trưởng thành rồi vẫn như vậy, có khi chỉ nhìn thấy một bông hoa đang nở mà miệng cũng nở một nụ cười rất mãn nguyện rồi. Mỗi buổi chiều, Trì Mặc thường ngồi một mình trên bức tường thành cao nhất của cung điện gảy đàn, có vô số chim bay lượn trên đầu, lông chim rơi xuống phủ kín đôi tròng mắt làm cho con mắt biến thành màu xám, những đám mây trên trời biến thành những bông hoa đỏ thắm rực rỡ.
Trì Mặc cứ sống như vậy hàng trăm năm liền, mỗi lần tôi hỏi anh có thấy cô đơn không thì anh lại nhìn tôi và trả lời:
- Có Điệp Triệt ta mãi mãi không cảm thấy cô đơn.
Tôi và Trì Mặc là người có linh lực mạnh nhất trong gia tộc, tôi là niềm tự hào của phụ vương tôi, còn Trì Mặc lại không được như vậy, phụ hoàng không thích anh. Khi tôi còn nhỏ, mỗi lần thấy tôi chơi cùng anh, phụ vương đều bước tới rồi bế tôi đặt lên vai người và bỏ đi, để anh tôi lại một mình. Nhưng Trì Mặc không bao giờ tỏ ra khó chịu, luôn đứng nhìn theo tôi, và mỗi lần tôi quay đầu lại, luôn nhìn thấy nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt anh bừng lên như bông hoa anh đào, anh đứng yên nhìn tôi đang đi xa, xa dần.
Tôi đã từng hỏi phụ hoàng vì sao không thích anh, nhưng lần hỏi đó cũng là lần duy nhất, bởi lúc ấy khuôn mặt phụ hoàng đang rất vui bỗng sầm xuống lạnh như băng. Sau đó, phụ hoàng vuốt tóc tôi rồi nói:
- Hỡi con gái của ta, một ngày nào đó khi cha đã già, con sẽ trở thành vua của bộ tộc này, con sẽ đứng giữa đại điện gảy đàn, tiếng đàn của con sẽ bao trùm cả Vương Quốc Ảo Tuyết, con là niềm kiêu hãnh của phụ vương.
Tôi ngước nhìn, luôn thấy khuôn mặt trang nghiêm như thiên thần của phụ hoàng. Người vuốt mái tóc dài của tôi rồi cười, nụ cười đầy bí ẩn.
Tôi chưa bao giờ trách Người, nhưng mỗi lần nhìn anh, lòng tôi lại thấy buồn. Bởi tôi rất tôn sùng phụ hoàng, Người chơi đàn vĩ đại nhất trong lịch sử của bộ tộc tôi. Trì Mặc cũng tôn sùng Người, mỗi lần nhắc tới Người, hai mắt anh lại sáng lên tỏ ra vô cùng tôn kính. Nhưng phụ hoàng lại không thích anh và tôi luôn cảm thấy buồn thay cho anh.
Phụ vương tôi là người gảy đàn cho Quốc vương Ảo Tuyết và cũng là người đàn ông tinh thông âm nhạc nhất trong lịch sử của bộ tộc tôi, trước kia rất nhiều vua của bộ tộc là phụ nữ, âm nhạc của họ vừa dịu dàng lại rất tài hoa, còn tiếng đàn của phụ vương tôi lại gay gắt như ánh mặt trời, như tiếng gào thét của bão tuyết vậy. Tôi không được nghe lần đầu tiên Người biểu diễn khi trở thành nhạc công của nhà vua, mà chỉ nghe người trong bộ tộc nói lại rằng, vào hôm đó, trên bầu trời của đế quốc Ảo Tuyết còn ngân vang mãi cái hồn của bản nhạc mà phụ vương tôi chơi, tất cả chim chóc từ bốn phương đều bay
tít lên tầng cao, tiếng kêu kinh thiên động địa của chúng không dứt trên bầu trời vương quốc.
Tôi là niềm tự hào của phụ vương tôi, người luôn mang tôi đi theo trong tất cả các buổi tế lễ trong thành Nhẫn Tuyết, người bế bổng tôi lên cao và nói với mọi người rằng tôi là con gái của người, một nhạc công giỏi nhất của gia tộc chúng tôi. Trong đại điện bỗng có tiếng gió thổi, tóc và áo dài của tôi tung bay trong gió. Tôi nhìn thấy những khuôn mặt của những người xung quanh, họmỉm cười với tôi, nhưng tôi chỉ nghĩ tới nụ cười của Trì Mặc, muốn được biết những cánh hoa bé nhỏ đang bay kia liệu có rơi trên đôi lông mày của anh không?
Mỗi khi tôi rời cung điện của bộ tộc để vào thành Nhẫn Tuyết, anh luôn đứng ở cổng thành đưa tiễn tôi, luôn cúi xuống nói với tôi, Điệp Triệt, ta chờ muội trở về.
Mỗi khi rời cung điện, tôi luôn quay đầu lại nhìn anh của tôi, nhìn tà áo bay bay trong gió, nhìn nụ cười và bóng dáng mờ dần trong ánh sao của anh.
Những bông tuyết nhỏ cứ rơi rơi trên bức tường thành màu đen mà lòng tôi ấm áp.
Còn mỗi khi tôi trở về lại luôn nhìn thấy anh đang ngồi ở nơi cao nhất của tường thành chờ đợi tôi, cây đàn cổ đặt trên hai đầu gối, ngón tay thon dài đang lướt trên dây đàn phát ra những tiếng du dương trầm bổng, những con chim như mê mẩn vẫn bay lượn trên đầu, lông chim rơi xuống, nhìn thấy anh ngồi bình lặng, dáng vẻ rất hiên ngang đó, tôi bất giác trào nước mắt.
Sau khi tôi và Trì Mặc lớn lên rồi rời xa khu rừng tuyết, chúng tôi không quay lại nơi đó nữa, Trì Mặc cũng không dẫn tôi đi vào nơi rừng sâu ngắm nhìn những con chim lớn bay vút qua dưới bóng cây và kêu lên những tiếng kêu thảm thiết. Thỉnh thoảng chúng tôi mới cùng nhau ngồi nơi cao nhất của bức tường cung điện, nhìn về phương xa nơi có bờ của biển băng nọ.
Anh của tôi luôn bị những cơn gió mạnh từ bờ biển thổi về làm nhức mắt. Tôi hỏi vì sao anh không nhắm mắt lại thì anh quay đầu lại nói với tôi rằng, vì sao những con chim kia có thể tự do bay lượn trên bầu trời mà mình lại yếu đuối trước những cơn gió như vậy?
Tôi nhìn anh mà không biết trả lời ra sao, nhưng rồi anh lại cười và nói, thôi không cần phải nghĩ gì cả vì có nhiều việc vốn chẳng hề có câu trả lời.
Nói đoạn, anh lại nhìn tôi mỉm cười, tiếng cười như tỏa hương thơm.
Trì Mặc luôn hỏi tôi: Điệp Triệt, muội có biết bờ đối diện của biển băng là gì không?
Tôi nói cho anh biết, phụ vương đã từng nói uội hay, bên đó là nơi ở của người bộ tộc Lửa, một bộ tộc rất ác hiểm.
Trì Mặc luôn nhìn về nơi ấy mà chẳng nói gì, lưng luôn quay về phía tôi nên tôi không nhìn được mắt anh, nhưng tôi có thể tưởng tượng ra rằng, trong con mắt đó luôn chứa đầy hình ảnh những con chim đang bay trên không trung.
Gió biển lúc nào cũng rất to, lần nào anh cũng hỏi tôi có lạnh không? Rồi sau đó cởi áo ngoài khoác lên người tôi và ôm chặt tôi vào lòng, tôi ngửi thấy mùi của hương hoa đang nở. Tôi biết linh hồn của những đóa hoa đó đang bắt đầu nhảy múa quanh tôi.
Trì Mặc trở thành pháp sư nam duy nhất đồng lứa với tôi trong bộ tộc, các người anh khác của tôi chẳng ai có tư cách này, vì bộ tộc Vu Lạc chúng tôi từ lịch sử xa xưa rất ít đàn ông trở thành pháp sư. Cho nên, khi tôi nhìn thấy anh của tôi mặc bộ quần áo ảo thuật màu đen có viền vàng rất đẹp đó thì cảm thấy vô cùng hạnh phúc, một thứ hạnh phúc vừa chậm rãi lại vừa mơ hồ nhưng rất thân thiết.
Nhưng tôi còn nghe thấy tiếng thở dài của phụ vương sau lưng tôi, khi tôi quay đầu lại, nhìn thấy một giọt nước mắt ứa ra nơi khóe mắt của Người, đó là lần đầu tiên tôi thấy phụ vương khóc.
Ngay từ nhỏ, anh của tôi đã không thích nói chuyện với người khác, chỉ đứng một mình ở một nơi, rất bình thản và yên lặng.
Một câu mà anh nói nhiều nhất với tôi là, Điệp Triệt, muội có muốn cùng ta rời bỏ đây không?
Lúc đó, tôi không hiểu ý của câu nói đó nên đã hỏi lại rằng: Rời bỏ ư? Rời bỏ cung điện của bộ tộc này ư?
Trì Mặc nhìn tôi, ánh mắt buồn như mặt trời vừa lặn, anh bước tới nắm chặt lấy vai tôi, cúi xuống nhìn và nói, Điệp Triệt, anh rất muốn đưa muội đi, có thể sang bờ bên kia của biển băng, chúng ta có thể rời bỏ nơi này.
Tôi nhìn vào khuôn mặt của anh, sự đau khổ hằn sâu trên khuôn mặt.
Tôi nói, thực ra huynh đưa muội đi đâu, muội cũng có thể cùng đi tới đó.
Sau đó, anh gục đầu vào vai tôi khóc không thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt rơi xuống cổ tôi, tôi chưa bao giờ biết được nước mắt lại nóng đến vậy, sức nóng như đốt cháy cổ tôi.
Trì Mặc nói nhỏ, hỡi Điệp Triệt, ta chẳng muốn muội đi đâu cả, muội hãy sống vui vẻ trong cung điện của bộ tộc mình, trở thành vua mới của bộ tộc, chớ quên rằng, muội là con gái thân yêu nhất của phụ vương.
Con chim tuyết trên trời hốt hoảng bay vụt qua cất tiếng kêu đau đớn.
Khi tôi tròn một trăm chín mươi tuổi, phụ vương chính thức tuyên bố tôi trở thành vị vua kế nhiệm. Hôm đó, trong cung điện thênh thang, tiếng phụ vương sang sảng, giọng nói của Người còn âm vang mãi. Tôi đứng giữa đại điện, một ngọn gió không biết từ đâu thổi tới làm tóc tôi xõa ra che kín khuôn mặt. Tôi muốn nhìn thấy nụ cười của anh, nhưng chẳng biết làm thế nào, cuối cùng cũng nhìn thấy lờ mờ nụ cười ấy qua những sợi tóc, tôi còn nhìn thấy hàm răng trắng và đôi lông mày qua một màn hơi nước mờ ảo trong tiếng cười của mọi người. Nhưng rồi tôi đột nhiên im lặng bởi ngửi thấy mùi hương của
những đóa hoa đang nở quanh đâu đó Trong phút cuối cùng của buổi lễ, tôi nhìn thấy Quốc vương của Vương Quốc Ảo Tuyết đứng mãi trên cao, ông ta tới tham dự lễ kế nhiệm. Cũng như phụ vương của tôi, ông rất uy vũ, nhưng có được một vẻ rạng rỡ rất thần thánh mà không ai xâm phạm tới được. Ông đi tới trước mặt tôi và nói, Điệp Triệt, ta biết nhà ngươi là người con gái yêu quý nhất của phụ vương ngươi, ta sẽ tặng nhà ngươi một cây đàn, ngươi hãy đưa tay ra.
Khi tôi đưa tay ra bỗng thấy mười đầu ngón tay đau đau, nhưng rồi cảm giác đó nhanh chóng biến mất. Tôi ngẩng đầu lên nhìn nhà vua, ông mỉm cười với tôi và nói, Điệp Triệt, ngươi hãy thử linh lực của nhà người đi.
Khi tôi đưa tay ra, bỗng mười đầu ngón tay tôi nhói đau, nhưng rồi chỉ trong giây lát không còn đau nữa. Tôi ngước lên nhìn Đại vương. Người mỉm cười với tôi và nói, Điệp Triệt, hãy thử đi nào.
Khi tôi niệm thần chú, đột nhiên thấy mười sợi dây đàn màu xanh lấp lánh phóng ra từ giữa hai tay tôi rồi nhanh như chớp trùm lấy cả cung điện, khi tôi dùng ngón tay nhẹ nhàng gẩy nó, thấy phát ra một bản nhạc mà tôi chưa từng được nghe thấy bao giờ.
Nhà vua ngồi tít trên ngai cao cười nói với tôi, từ nay trở đi, cây đàn này gọi là Ảo Điệp cầm.
Sau đó, tôi cùng mọi người trong gia tộc quỳ xuống, tôi nghe thấy tiếng tung hô và chúc tụng của mọi người đối với nhà vua.
Tôi thấy mặt nhà vua biến sắc, trong mắt ông bão tuyết đột nhiên nổi lên, ông quay lại nhìn tôi và phụ vương tôi, tôi nhìn thấy vẻ mặt hốt hoảng của phụ vương, trên mặt nhà vua tràn ngập một thứ sát khí màu xanh, một áp lực nặng nề trùm lên người tôi. Chính lúc đó, tôi mới biết rằng, ảo thuật của nhà vua cao siêu biết bao.
Tôi nghe tiếng phụ vương thảng thốt, mặt cúi xuống "Thưa Đại vương, thần biết phải làm thế nào rồi".
Tôi nhìn thấy nhà vua rời cung điện, gió thổi tung tà áo bào pháp thuật của ông. Khi ông sắp ra khỏi điện, anh tôi đột nhiên ngã xoài ra đất, hai mắt nhắm nghiền, tóc tung ra, miệng trào ra một dòng máu trắng long lanh.
Phụ vương bước tới ôm lấy anh rồi ra khỏi cung. Khi đến cửa ông còn quay đầu lại nói với tôi, Điệp Triệt, từ nay trở đi, con sẽ là vua của bộ tộc này, gánh vác vận mệnh của cả gia tộc.
Phụ vương đã đi, mọi người cũng đi, chỉ còn mỗi mình tôi đang giữa cung điện mà chẳng biết đi về đâu, tôi ngước nhìn vòm cung điện trên à nước mắt rơi như mưa.
Từ sau hôm ấy trở đi, tôi không bao giờ gặp lại anh tôi nữa.
Cũng bắt đầu từ hôm đó, tôi luôn có những giấc mơ dài bất tận. Trong mộng chỉ toàn là nụ cười trong sáng của anh tôi, người mặc bộ quần áo trắng như tuyết đang đứng trên thành cao, khí thế hiên ngang, anh đang đợi tôi trở về, vô số chim muông cứ chụm lại rồi tản ra bay vòng trên trời như những đám mây luôn thay đổi, lông chim bay bay, hoa anh đào nở rộ, tà áo của anh tôi tung bay trong gió. Anh của tôi đang gảy đàn, ngón tay như múa, tiếng đàn vừa mạnh mẽ lại trong sáng. Tôi luôn thấy anh nói với tôi, nói về nỗi tuyệt vọng và tình yêu tan nát của mình. Cảnh cuối cùng trong giấc mơ là tất cả những đóa hoa anh đào đều biến thành màu đỏ, đỏ như ánh dương tan trong nước trở
thành ảo ảnh. Sau đó, mọi cái đầu dần biến mất trong màn sương, nụ cười của anh tôi vẫn thoắt ẩn thoắt hiện.
Tôi luôn hỏi phụ vương anh của tôi đi đâu, có việc gì không, sao lâu lắm rồi mà tôi không gặp.
Phụ vương tôi chỉ lặng im, đưa tay chỉ bóng con chim tuyết đang vụt qua giữa bầu trời, ông nói với tôi rằng, con hãy xem, con chim kia thật tự do biết bao.
Đột nhiên, tôi nghĩ lại chuyện ngày trước, tôi và anh tôi dẫn nhau đi chơi trong rừng nhìn thấy những con chim bay trong đó, nhìn thấy những bóng râm của cây cối rơi vào mắt anh rồi biến thành một màu đen kỳ lạ. nhưng việc đó đã qua đi hàng trăm năm rồi.
Tiếng sấm vang rền nơi chân trời, giống như rất nhiều tiếng trống khua vang cả đế quốc Ảo Tuyết.
Trì Mặc chết năm hai trăm tuổi, cũng là năm tôi một trăm chín mươi tuổi và trở thành vua của bộ tộc Vu Lạc.
Chính là tôi đã giết chết anh của tôi - anh Trì Mặc, người tôi yêu quý nhất, người mà trên cơ thể luôn tỏa ra mùi hương hoa thơm ngát, người luôn nói: "Có Điệp Triệt, anh mãi mãi không thấy lẻ loi".
Một tháng sau khi anh mất tích, tôi mơ thấy Trì Mặc bị giam ở dưới Đàn tế tối tăm và ẩm ướt, anh bị đóng đinh trên một bức tường, đầu gục xuống, mái tóc rủ che lấp hết khuôn mặt tuấn tú, tôi không nhìn thấy khuôn mặt của anh, nhưng tôi biết chắc là anh đang rất đau khổ.
Tôi đi tìm phụ vương, phụ vương cuối cùng cũng kể lại chuyện của Trì Mặc, ông nói chậm rãi và rất mông lung, giống như một giấc mộng vừa huyền ảo lại vừa rõ ràng, tới khi tỉnh dậy, nước mắt tôi đầm đìa khuôn mặt.
Phụ vương nói cho tôi biết, thực ra mẫu hậu của Trì Mặc là người ông yêu quý nhất, mẹ của bà có đôi con ngươi đỏ như lửa và mái tóc dài lay động như ngọn lửa vì bà là người bộ tộc Lửa. Khi phụ vương lấy bà, bà vẫn còn dung mạo của người con gái bộ tộc Băng. Nhưng khi bà hai trăm tuổi, mắt và tóc bà bỗng biến thành đỏ như lửa, giống hệt loại lửa phá thiên.
Mẫu hậu của Trì Mặc sinh cho phụ vương một mình Trì Mặc. Khi sinh, bà đã dùng kiếm băng tự rạch bụng mình, sau đó có rất nhiều đốm lửa trong bụng rơi ra, Trì Mặc xuất hiện trong những đốm lửa đó, thần sắc rất hiền từ, ánh mắt rất sinh động. Sau đó, ngọn lửa dần dần lụi đi, mắt và tóc của Trì Mặc biến thành màu trắng giống hệt như phụ vương, nhưng phụ vương biết rằng, khi tròn hai trăm tuổi, nó sẽ trở lại như những ngọn lửa.
Hôm đó, khi nhà vua đi tới cạnh Trì Mặc đã phát hiện ra anh chính là hậu duệ của bộ tộc Lửa, cho nên người phải làm anh mất tích bằng một cực hình rất tàn khốc, đó là dùng năm thanh kiếm băng đóng chặt anh lên bức tường trong mười bốn ngày để áu chảy hết mà chết.
Khi tôi nghe được tin này, nước mắt chảy giàn giụa, tôi nhớ tới cơ thể mỏng manh của anh.
Cuối cùng tôi cũng gặp được anh của tôi trong một gian phòng tối tăm dưới Đàn tế, dòng máu đỏ từ những vết đâm qua ngực cứ chảy mãi, chảy mãi không ngừng loang ra mặt đất giá lạnh, tôi nhìn thấy mái tóc và con người anh đã đỏ như lửa.
Tôi bước đến chỗ chân anh, anh cúi xuống nhìn tôi, tôi nhìn thấy khuôn mặt anh bị mái tóc che lấp không để lộ chút đau khổ hay oán hận gì, vẫn rất bình tĩnh và đầy suy tư.
Anh hỏi tôi: "Điệp Triệt, muội đã biết hết rồi ư?".
Tôi nhìn lên và gật đầu.
Anh nói tôi đừng buồn, chưa bao giờ ta hận phụ vương cả, ta càng thích muội hơn. Chỉ cần muội đến được đây là ta đã hạnh phúc lắm rồi, hãy thay ta chăm sóc phụ vương, chăm sóc thần dân của bộ tộc này.
Khi tôi quay đi thì thanh kiếm thứ ba cũng vừa đâm thủng ngực anh, tôi như nghe thấy tiếng máu thịt đứt ra, dòng máu chảy trào vách đá.
Tôi thấy anh chau mày mà lòng đau như cắt.
Trì Mặc nhìn tôi, nói: "Điệp Triệt, muội chớ đau lòng, hãy còn hai thanh kiếm băng nữa, sau đó ta sẽ có thế ngủ một giấc dài rồi".
Tôi hỏi sao nhà vua lại có thể tàn nhẫn như vậy, ta quyết không cho phép.
Sau đó tôi bước đi, làm phép gọi thanh kiếm băng về rồi đâm một nhát xuyên qua cổ anh.
Anh cúi đầu xuống, mái tóc trùm lên mặt tôi, nước mắt của anh chảy vào mắt tôi, tôi như nghe tiếng thì thào của anh: hỡi Điệp Triệt, sao muội khờ dại thế, sao lại phải làm vậy vì ta?
Tôi nói rằng, muội không thể cứ đứng nhìn cảnh này được.
Dòng máu tươi của Trì Mặc chảy theo thanh kiếm băng xuống nhuộm đỏ cả tấm áo dài ảo thuật của tôi.
Vì tôi giết chết Trì Mặc, người mà Đại vương yêu cầu phải dùng hình thật tàn khốc nên Người đã nổi giận, phụ vương nhìn tôi với ánh mắt đầy thương đau và hối tiếc. Tôi bước tới ôm lấy phụ vương, trong chốc lát, những vết nhăn già lão bỗng xuất hiện rất nhanh trên khuôn mặt của Người.
Người hỏi tôi định làm gì vậy, tôi đáp là mình không sẵn sàng để làm vua của bộ tộc Vu Lạc, tôi sẽ rời bỏ nơi đây đi tìm chốn ẩn cư, sống nốt quãng đời còn lại của mình.
Phụ vương không nói gì, tôi chỉ nghe thấy tiếng kêu của chim bay trên trời, tôi ngẩng đầu lên, nghĩ về những chiếc lông chim đang bay bay rơi xuống mắt tôi và anh Trì Mặc đẹp làm sao!
Khi tôi chuẩn bị rời cung điện thì gặp một cô gái ngay dưới chân thành, cô ta nói mình tên là Uyên Tế, nàng hỏi tôi có muốn đi xem xem tình cảm của tôi đối với Trì Mặc liệu có thể làm cảm động được bức tường than thở trong truyền thuyết hay không? Tôi quay lại nhìn cung điện của gia tộc tôi lần nữa, cảm thấy nó quá bé nhỏ như một vườn hoa thủy tinh mà thôi.
Uyên Tế nói, đúng nó là vườn hoa thủy tinh.
Tôi đột ngột hỏi, làm sao nàng biết được ý nghĩ của ta?
Uyên Tế không trả lời câu hỏi của tôi mà nói, bà là một nhạc công có linh lực cao siêu, vậy liệu bà có muốn đi xem bức tường than thở trong thần thoại của bộ tộc tôi không?
Tôi cúi đầu suy nghĩ và phát hiện ra rằng, trong thành Nhẫn Tuyết chẳng có gì đáng để tôi lưu luyến nữa, và thế là tôi gật đầu. Khoảng khắc đó, tôi nhìn thấy vô số những bông hoa nở trong không gian, đó là những linh hồn của các đóa hoa. Đây không phải là ảo giác, bởi chính mắt tôi nhìn thấy ngón tay của Uyên Tế co duỗi và những phép thuật mà cô ta dùng.
Khi tôi rời thành Nhẫn Tuyết, trong đầu tôi bỗng hiện lên vô vàn những bức tranh, tôi nhìn thấy anh Trì Mặc đứng giữa bãi tuyết mỉm cười với tôi, tôi nhìn thấy bóng những con chim rơi vào trong mắt anh lan tỏa ra thành một màu đen mênh mang, nhìn thấy ánh mắt lấp lánh như những vì sao của anh đang đứng ở cổng thành chờ đợi tôi trở về, màu sắc trên tà áo anh lan tỏa mãi, tôi nhìn thấy anh của tôi đang ngồi trên thành cao gẩy đàn chờ tôi quay về, tóc bị gió thổi bay tung về phía phương bắc, tấm áo dài ảo thuật của anh mãi mãi sạch sẽ bay phấp phới, tôi nhìn thấy anh với đôi lông mày lưỡi mác đang bị
đóng đinh trên tường, nước mắt chảy xuống làm ướt mặt tôi và tà áo dài màu lam của chàng, những bông hoa băng dính trên áo chàng nở rộ như những đóa hoa sen...
Tiếng sấm rền vang sau lưng tôi như tiếng đổ vỡ của tòa thành.
Tôi ngước lên, xung quanh ngập một mùi thơm của hoa đang nở, linh hồn của những đóa hoa.
Trì Mặc - người tôi yêu nhất cuối cùng cũng đã biến mất ngay trước mắt tôi.
Xin đại huynh hãy tha thứ uội, muội phải ra đi, phải rời khỏi tòa cung điện này, rời xa Vương Quốc Ảo nơi chôn vùi tuổi xuân của muội. Có thể ở nơi tận cùng của trời đất muội sẽ gặp lại linh hồn của huynh, lúc ấy, xin huynh hãy mỉm cười với muội, nụ cười như phá tan ánh triều dương, hãy để uội được cười, cho chảy hết nước mắt của mình, sau đó hãy để uội thấy huynh đang tự do, đang ca hát.
Vì Tinh Quỹ hôn mê mãi khôn g tỉnh nên chúng tôi không thể lên đường, bởi phía trước là lãnh địa của Bắc phương hộ pháp Tinh Trú, nếu không có Tinh Quỹ thì khó lường được mỗi bước đi của chúng tôi sẽ gặp trở ngại gì.
Cung thần Huyền Vũ ở nơi cao nhất của núi Tuyết, ngay cả khi đứng ở lãnh địa của Nam phương hộ pháp cũng có thể nhìn thấy, tòa cung điện màu trắng nguy nga trông như một thanh kiếm sắc nhọn chĩa thẳng lên trời xanh, thần bí mà cũng rất tráng lệ. Trong những tối Tinh Quỹ ngủ mê, chúng tôi cóthể nhìn thấy những vì sao trên nóc cung điện chọc trời đó luôn thay đổi vị trí theo một quĩ đạo rất kỳ lạ. Thỉnh thoảng, cả cung điện phát ra thứ ánh sáng trắng rực rỡ hắt lên trên bầu trời đen mông lung, hội tụ lại thành một vì sao
khổng lồ, giống như vết sẹo giữa trán của Tinh Cựu và Tinh Quỹ.
Tinh Quỹ tỉnh lại sau ba ngày hôn mê nhưng rồi lại ngất lịm đi, trong giây lát tỉnh lại đó, miệng Tinh Quỹ trào ra dòng máu trắng, nó nắm lấy tà áo của Hoàng Thác nói một cách đau khổ rằng: "... Hãy dẫn tôi... trở về cung thần...
Phá Thiên...". Sau đó lại ngất đi, không tỉnh lại nữa.
Sau khi chúng tôi mang Tinh Quỹ trở về cung thần Phá Thiên đổ nát. Tinh Quỹ bắt đầu tỉnh lại, ốm yếu như chẳng còn sức lực, Hoàng Thác luôn đặt nó trong vòng bảo vệ màu trắng, sau đó Tinh Quỹ khỏe gần lên.
Chúng tôi ở lại đó chừng nửa tháng, cuối cùng Tinh Quỹ đã đứng dậy được.
Tinh Quỹ nói với tôi, giữa các nhà chiêm tinh vốn có một ràng buộc rất đặc biệt, người nào mạnh hơn có thể dễ dàng áp đảo kẻ yếu hơn, thậm chí có thể dễ dàng khống chế và giết chết họ. Điều này được lưu truyền lại từ thời nguyên thủy xa xưa nhất, chẳng ai có thể thoát khỏi vòng kiềm tỏa đó được, vì vậy, nếu nhà chiêm tinh nào linh lực yếu thì quả là nỗi đau khổ nhất. Nói cách khác, nếu ai rơi vào vi phạm khống chế của nó, ví dụ như nếu Bắc phương hộ pháp Tinh Trú muốn thì Tinh Quỹ không thể triển khai được phép lực của mình, thậm chí ông ta còn có thể dễ dàng giết chết Tinh Quỹ ngay. Bản thân
Cung thần Tung Thiên là tối cao của núi Tuyết, do vậy phạm vi khống chế của Bắc phương hộ pháp rộng hơn bất kỳ người nào khác.
Tôi hỏi Tinh Quỹ lẽ nào sức mạnh của Tinh Trú thực sự mạnh đến như vậy ư? Quỹ quay đầu lại nói.
- Thưa Đại vương, đúng là rất mạnh. Ngay như bà già trong khu rừng Tuyết quả là người rất tốt, thì giấc mơ mà bà mang lại cho thần có độ chân thực mà ngay cả đại huynh của thần cũng không thể làm nổi. Nhưng cây gậy mà bà dùng là cây Lạc Tinh trượng, còn Tinh Trú lại dùng cây Tung Tinh trượng. Đại vương có thể nhìn thấy những vì sao trên cung thần của bà, nó luôn thay đổi vị trí, Tinh Trú còn có thể làm thay đổi đường đi của các ngôi sao, điều này thì những nhà chiêm tinh thông thường không sao làm được.
Tôi cúi đầu mà chẳng nói gì cả.
Hoàng Thác bế Tinh Quỹ như bế đứa con gái của mình, mỉm cười nói với nó, nói rằng: vậy thì khi tới lãnh địa của Bắc phương hộ pháp Quỹ phải luôn ở trong vòng bảo vệ của ta, không được ra ngoài, ta đảm bảo ngươi sẽ không bị Tinh Trú giết chết được. Nụ cười của Hoàng Thác trầm lặng mà kiên quyết. Tôichợt nhớ tới trước đây, phụ vương tôi khi bộ tộc Lửa tấn công thành Nhẫn Tuyết, ông cũng mong một thứ tình cảm như vậy, rất kiên định như một tảng băng cứng rắn nhất.
Nguyệt Thần nói, Hoàng Thác, người không hề biết chút ma thuật đen nào, nếu có ai tấn công thì làm sao? Hoàng Thác cười và nói chẳng sao cả.
Phiến Phong nói: không sao cả, tôi sẽ luôn đứng bên để bảo vệ Hoàng Thác, ngoài ra còn có Liêu Tiễn, tôi muốn trừ bỏ Bắc phương hộ pháp, chẳng có ai là đối thủ của tôi và Liêu Tiễn.
Ba ngày sau, đêm nào Tinh Quỹ cũng đứng trên đồi cao để chiêm tinh, tôi nhìn thấy Quỹ luôn giơ cây Lạc Tinh trượng lên trời, ánh sáng của các vì sao tụ lại thành một luồng sáng cực sáng chụp lấy Tinh Quỹ, xung quanh có gió mạnh thổi. Mái tóc và tà áo chiêm tinh của Tinh Quỹ luôn bay tung lên trời, tôi thầm cảm thấy đất dưới chân rung động mạnh.
Đây là lần đầu tiên tôi chứng kiến một nghi thức chiêm tinh trong thời gian dài và cường độ mạnh như vậy, chúng tôi đều đứng cả ở dưới chân đồi im lặng. Sau ba ngày, chiêm tinh của Tinh Quỹ kết thúc, cột ánh sáng chụm lại ở trên trời đột nhiên như những mảnh thủy tinh vỡ vụn ra rơi xuống chân Tinh Quỹ, tôi nhìn thấy bóng dáng vươn cao của Tinh Quỹ ở trên đỉnh núi bỗng đổ xuống phía sau, tà áo bay bay. Nhưng khi Tinh Quỹ chưa chạm tới đất thì Hoàng Thác đã bước tới ôm lấy Quỹ rồi nhanh chóng đưa vào vòng bảo vệ do chính mình tạo ra. Trong vầng sáng đó, tôi nhìn thấy dòng máu trắng không
ngừng tuôn chảy nơi miệng nàng, giống hệt cảnh tượng khi nàng hôn mê trong lãnh địa của Bắc phương hộ pháp.
Trong ba ngày liền, Tinh Quỹ đã tìm ra được con đường tiến vào cung thần Tung Thiên Huyền Vũ, bao gồm cả nơi nào phải dùng lại, nơi nào phải đi đêm. Linh lực của Tinh Quỹ hầu như gần cạn kiệt, Hoàng Thác phải làm phép thuật để phục hồi linh lực cho Quỹ, đặt Quỹ vào trong vòng bảo vệ rồi cùng lên đường. Bởi vì một khi đi vào lãnh địa của Bắc phương hộ pháp, Tinh Quỹ bắt buộc phải ở trong vòng bảo vệ đó, nếu không sẽ dễ dàng bị Tinh Trú giết chết.
Con đường mà Tinh Quỹ lựa chọn vừa phức tạp lại khúc khuỷu, phải đi qua rừng rậm, hồ ao, đầm lầy, rừng đá, nhưng Quỹ đoán rất chính xác, nên chúng tôi thường đi qua những nơi sát với những nhà chiêm tinh của Bắc phương hộ pháp chứ không thể đối mặt trực tiếp với họ được. Trên đường đi, Tinh Quỹ thường phải dùng phép lực của mình áp chế những nhà chiêm tinh của Tinh Trú để tránh phải đối đầu đánh nhau với họ trước khi gặp Tinh Trú.
Đi được mười ngày, chúng tôi lên tới đỉnh Tuyết sơn, cung thần Huyền Vũ sừng sững như chạm tới tận trời xanh, tường thành của nó cao tới vài ngàn trượng thẳng đứng. Tinh Quỹ nói cho chúng tôi biết cung thần này được bố trí theo hình sao sáu cánh, mỗi góc của vì sao có một tháp rất cao, trên đó có những vị trí rất có lợi cho chiêm tinh. Ở giữa vì sao sáu cánh chính là đại điện của Tinh Trú và cũng là trung tâm của đại điện đó, còn trung tâm của đại điện là ngai vàng của Tinh Vương, chiếc ngai này được làm từ đá Huyền Vũ ở đài tế sao trên núi thần Ảo Tuyết, nó đã tạo cho Tinh Trú một sức mạnh vô cùng vô
tận, hòa chung và bổ sung lẫn cùng với linh lực của Tinh Trú.
Chúng tôi đứng ở cửa vào cung Tung Thiên, Tinh Quỹ nói: Thưa Đại vương, bây giờ chúng ta phải đi vào trong, có lẽ Tinh Trú chưa biết chúng ta đã đến, nếu Nguyệt Thần bí mật đi ám sát chắc sẽ thành công.
Nguyệt Thần bước tới vầng sáng bảo vệ Tinh Quỹ và nói, Tinh Quỹ hãy yên tâm, không phải lo lắng gì, ta sẽ dùng thuật ám sát để trừ khử kẻ đã gây đau khổ cho nhà ngươi.
Sau đó, phía trên đầu chúng tôi vọng lại tiếng nói. Hỡi Nguyệt Thần, hãy tới gặp ta, nếu không ngươi sẽ giống như chị ngươi chết mà không biết; còn Ca Sách, ta tôn xưng nhà ngươi là vua, vì không muốn để nhà ngươi lạc đường, ta chỉ đường cho ngươi đến gặp ta, chỗ các người đang đứng chính là Đài tế sao Huyền Lôi, chỉ cần đi thẳng sẽ gặp cửa con đường thứ hai rồi rẽ trái sẽ gặp được ta. Ta đang chờ ngươi, hỡi Đại vương...
Sau đó xung quanh đột nhiên vang lên tiếng cười chói tai, dù cho bịt tai lại vẫn nghe thấy, tiếng cười lộng óc khó chịu vô cùng. Khi tôi quay đầu lại nhìn Tinh Quỹ mới biết vì sao Tinh Trú lại cười, bởi Tinh Quỹ đã ngất lịm đi trong vầng sáng bảo vệ, máu trắng chảy ra từ miệng nàng đã làm ướt hết chiếc áo chiêm tinh. Khóe miệng của Hoàng Thác cũng bắt đầu chảy máu, một chân quỳ dưới đất, hai tay giơ ra phía sau như con chim tuyết đang bay, đang cố hết sức để bảo vệ Tinh Quỹ, nhưng vầng sáng kia đang thu nhỏ dần, lông mày của Hoàng Thác cũng co rúm lại, người bắt đầu lắc lư.
Trận cười đột nhiên biến mất cũng nhanh như khi nó xuất hiện.
Tiếng nói đó lại vang lên, hỡi Ca Sách, hãy tới gặp ta, ta chính là Tinh Trú mà ngươi đang tìm đây và là Bắc phương hộ pháp, nhà chiêm tinh vĩ đại nhất trong núi thần Ảo Tuyết, ta đang ngồi ở ngai vua chờ ngươi...
Xem ra Tinh Trú đã biết trước mọi hành động của chúng tôi, chúng tôi tính xem sức mạnh của ông ta ra sao - Phiến Phong nhìn về Đài tế sao Huyền Lôi cao chọc trời mà nói. Gió từ bốn phương của cung thần Tung Thiên thổi tới, làm tóc và áo chúng tôi bay phấp phới như những lá cờ.
Nguyệt Thần nói, hành động của chúng ta đều nằm trong tầm khống chế của Tinh Trú, xem ra chỉ còn cách phải nghe bà ta chứ không có lựa chọn nào khác. Tinh Quỹ bỗng ngẩng đầu lên nói với tôi, hỡi nhà vua, thần thật không ngờ Tinh Trú có sức mạnh lớn như vậy, chúng ta không thể đối phó nổi, thần xin lỗi...
Liêu Tiễn bước tới quỳ xuống nói với Tinh Quỹ, chẳng ai trách nàng cả, nàng hãy ngủ đi, ta sẽ không làm phiền nàng nữa.
Khi Tinh Trú xuất hiện trước mặt chúng tôi, Tinh Quỹ và Hoàng Thác đã ngất xỉu ra đất, vầng sáng bảo vệ của Hoàng Thác đã vỡ vụn ra, Tinh Quỹ mất hết tri giác. Trên con đường từ Đài tế sao Huyền Lôi đến ngai vua của Tinh Trú, linh lực của Tinh Trú mỗi lúc một lớn, Tinh Quỹ bị ảnh hưởng càng nặng nề hơn, Hoàng Thác càng không bảo vệ được Tinh Quỹ, Tinh Quỹ nén đau, môi mím chặt bật cả máu tươi, còn Liêu Tiễn tay nắm chặt lòi cả xương trắng.
- Ca Sách, ngươi tới rồi.
Khi Tinh Trú nói với tôi, tôi thấy môi bà ta không động đậy, chỉ nghe thấy tiếng nói của bà ta cứ như trong giấc mơ không biết vọng tới từ nơi nào trong cung điện rộng mênh mông này. Tôi chỉ mong bà ta đừng điều khiển giấc mơ để khống chế họ, bởi tôi nhìn thấy vẻ hoang mang trên mặt của Phiến Phong và Liêu Tiễn. Còn Nguyệt Thần thì như chẳng bị ảnh hưởng gì cả, vì đối với nàng, thuật ám sát đó rất dễ dàng bị hóa giải. Nguyệt Thần rất tập trung và mặt đầy sát khí, tôi nhìn thấy ánh trăng trên tay nàng dần dần tụ lại thành hình một thanh kiếm băng.
Tiếng của Tinh Trú lại xuất hiện một lần nữa, bà ta nói, ta biết Nguyệt Thần muốn cho ta nhìn thấy ánh trăng trên tay ngươi và còn biết rằng vũ khí giết người thực sự không phải là thanh kiếm băng đó, bởi sau khi tiến công bằng thanh kiếm băng vào ta, lợi dụng khi ta chống đỡ thanh kiếm đó sẽ dùng độc tố của mật khổng tước và ảo thuật khiến gió tuyết bao vây ta, làm cho ta không thể động đậy được, bởi nếu động vào tuyết chất độc sẽ vào ngay cơ thể, còn nếu không động vào, thanh đao ánh trăng sẽ dài ra đâm thẳng vào người.
Nguyệt Thần, có đúng vậy không?
Tôi thấy Nguyệt Thần im lặng không nói gì, nhưng không che giấu nổi sự sợ hãi hiện ra trong ánh mắt.
Tinh Trú càng tỏ ra quỷ quyệt hơn, bay lượn như trong mơ.
Lần đầu tiên tôi thấy thất vọng. Từ khi bắt đầu đi vào núi thần, từ Phong Thiên, Khuynh Nhẫn đến Điệp Triệt đều không làm tôi thất vọng nhưng sự tinh thông của Tinh Trú thì rõ ràng làm những đòn tiến công của chúng tôi đều vô dụng cả. Tôi không biết phải làm sao mới đánh lại được bà ta.
Tôi nhìn Nguyệt Thần, nàng cũng nhìn tôi, tôi biết nàng muốn cùng ra tay, tôi gật đầu.
Nhưng tôi nhận ra, dù tôi và Nguyệt Thần cùng ra tay cũng không thể đánh bại được bà ta. Mỗi lần chuẩn bị tiến công, bà ta hầu như đều biết trước, từ vị trí, cách dùng phép thuật đến tốc độ tấn công bà ta đều đoán đúng không sai một ly nào.
Tôi và Nguyệt Thần cúi người xuống, tiếng cười của Tinh Trú vẫn lởn vởn quanh chúng tôi như bông hoa man đà la màu đen trong sương mù, tỏa ra mùi thơm làm say lòng người, rất nguy hiểm đến tính mạng. Bà ta nói:
- Ca Sách, ngươi không thể làm em trai ngươi sống lại, ngay cả cung thần Huyền Vũ ngươi cũng không qua nổi huống hồ là lãnh địa Tây phương ở phía sau ta đây! Hãy để các ngươi chết tại đây sẽ làm cho linh lực của cung thần Tung Thiên tăng tên.
Sau đó, tôi nhìn thấy một quả cầu ánh sáng màu sắc biến đổi khôn lường trong tay Tinh Trú, tôi biết đó là giấc mơ riêng của bộ tộc chiêm tinh, Tinh Cựu và Tinh Quỹ đã từng dùng nó. Tôi biết cả hai chúng tôi sẽ phải bước vào giấc mơ đó và không thể tỉnh lại được.
Nhưng tôi đã chẳng còn chút sức phản kháng nào nữa, linh lực của tôi như sương mù tan ra trong ánh mặt trời. Tôi nhìn Nguyệt Thần nàng ngã ra đất nhìn tôi, tôi nhìn thấy nét tuyệt vọng trong mắt nàng.
Khi tôi rơi vào giấc mơ thì đột nhiên một cơn gió mạnh từ phía sau ào tới, sau đó có vô vàn những thỏi băng sắc nhọn bay vút qua vai tôi, rồi nghe thấy tiếng những thỏi băng đâm vào da thịt.
Tôi nhìn lên thấy Tinh Trú đang há hốc miệng, ánh mắt ngạc nhiên đến không ngờ, máu tươi từ những vết do những thỏi băng đâm vào thủng ngực đang không ngửng chảy ra, nhỏ giọt lên ngai vua của bà ta.
Tôi quay đầu lại, thấy Phiến Phong đang đứng đằng sau, mắt nhắm, nước mắt tuôn chảy, còn Hoàng Thác ngồi trên mặt đất, trước mặt anh ta là Tinh Quỹ đang nằm trong vũng máu, tóc xổ tung, hai mắt mở to, nhìn lên bầu trời trên cung điện, mặt chẳng chút biểu hiện, trống rỗng và tê liệt.
Trên mặt Tinh Trú đột nhiên xuất hiện nụ cười nham hiểm, tiếng của bà ta vẫn lẩn quất đâu đó, bà ta nói rằng, tuy các người đi qua được cung thần Tung Thiên, nhưng sẽ chẳng bao giờ qua được vùng đất của Tây phương hộ pháp, bởi Tây phương hộ pháp là...
Bà ta nói chưa dứt lời thì mỗi thanh kiếm băng xuyên qua ngực bà ta đều đột nhiên mọc ra những chiếc ngạnh ngược sắc nhọn, và tôi nghe thấy tiếngda thịt bị xé nát. Thì ra, ảo thuật dùng đánh bại bà ta lại không đơn giản chút nào, không phải chỉ dùng thuật kiếm băng phá thiên mà là Huyền băng chú, sau lần tiến công thành công đầu tiên phải lập tức làm cho trên thanh kiếm đã đâm vào trước mọc thêm những thanh kiếm khác để tấn công lần hai, phép thuật này thường dùng để đối phó với người có sức mạnh hơn mình, bởi vì nó tốn rất nhiều linh lực, phải tập trung sức mạnh để tiêu diệt. Tôi không hề biết
một nhà chiêm tinh như Tinh Quỹ lại có được sự lợi hại ghê gớm đó của bộ tộc Băng.
Tôi rất muốn Tinh Trú nói hết ra, nhưng bà ta không thể nói gì được nữa, người đổ vật xuống đất, nét mặt bà vẫn rất gian xảo, tôi thoáng hiểu bà ta còn biết nhiều bí mật khác nữa nhưng chẳng có cách nào lấy được.
Tôi mai táng Tinh Quỹ ở sau cung thần Tung Thiên trên một ngọn đồi nở đầy hoa anh đào. Liêu Tiễn dùng bảo kiếm đào huyệt, tuy chẳng nói lời nào, nhưng những giọt nước mắt cứ rơi từng giọt từng giọt xuống nấm mồ của Tinh Quỹ. Sau khi huyệt đào xong, thanh bảo kiếm của Liêu Tiễn bị sứt mẻ nhiều chỗ do va phải đá, Liêu Tiễn bế Tinh Quỹ đặt xuống huyệt rồi vốc từng nắm đất phủ lên người nàng. Nhìn cảnh đó mà lòng tôi vô cùng hoang vắng, tôi đau đớn đến ngất đi, ánh nắng như những mũi kim nhỏ li ti đâm vào da thịt tôi nhức buốt.
Nguyệt Thần đứng dưới một cây anh đào, gió thổi tung mái tóc và tà áo dài, Hoàng Thác cùng im lặng đứng cạnh đó, Triều Nhai ngồi trước mộ Tinh Quỹ đàn bản nhạc chiêu hồn của bộ tộc Vu Lạc, tôi biết đó là khúc nhạc vĩ đại nhất của bộ tộc, một bản nhạc từ xưa tới nay chỉ dùng để truy điệu các bậc Đế vương, bởi người chơi bản nhạc này phải tốn rất nhiều sinh lực, mà những người nghe thấy sau khi chết linh hồn sẽ bất diệt.
Tối đó tôi nghe thấy tiếng nói rất đau thương nhưng hùng tráng của Liêu Tiễn vỡ vụn ra bay lên bầu trời của cung thần Tung Thiên, rất nhiều nhà chiêm tinh xuất hiện đang trên các lầu tháp của thành nhìn chúng tôi nhưng chẳng nói gì cả, tôi biết họ phần lớn trước đây đều thuộc gia tộc chiêm tinh, ẩn cư nhiều năm ở núi thần Ảo Tuyết. Họ đứng tít trên không trung, tà áo dài của họ bay lên trông giống những bông sen trắng tuyệt đẹp. Chẳng ai nói gì cả, chỉ có tiếng hát của Liêu Tiễn và tiếng đàn của Triều Nhai là vang xa mãi lên tận tầng mây cao.
Khi chuẩn bị đi ngủ, tôi chợt nhớ tới Tinh Cựu, không biết ở thành Nhẫn Tuyết ông ta có xem bói và biết tin về cái chết của em gái mình không hay vẫn bình thản lên đài tế sao cầu phúc cho Tinh Quỹ, hàng ngày nhìn về núi thần, nhớ tới nụ cười bình thản của Tinh Quỹ. Tôi cảm thấy rất buồn nhưng lại không nói ra, cứ thế đi vào giấc ngủ, chờ đợi một ngày mới sẽ tới.
Trong đêm tối mông lung tôi chẳng muốn dậy chút nào, tôi cũng không biết đêm qua mình có khóc không, chỉ nhớ trong mơ, bao nhiêu nỗi buồn trong lòng đều thổ lộ, còn trước mắt tôi lúc đó chỉ còn lại hình ảnh cuối cùng, Tinh Quỹ đang nằm trong vũng máu trên mặt đất.
Cuối cùng tôi cũng biết nguyên nhân cái chết của Tinh Quỹ và Tinh Trú.
Hóa ra là Tinh Trú không phải do Phiến Phong giết mà chính là người con gái yếu ớt Tinh Quỹ giết. Phiến Phong nói, khi vào tới giữa cung thần, Tinh Quỹ đã nói với ông ta, một lát nữa ông phải giả như mình không có sức chống lại Tinh Trú để giữ cho được linh lực, chờ tới khi nàng dùng pháp thuật gọi những thỏi băng trên trời thì hãy dùng luồng gió mạnh nhất tập trung những thỏi băng này đâm vào ngực Tinh Trú, bởi Tinh Trú cho rằng nàng đã bị ông khống chế, không thể nào có sức chống lại được nên sẽ không cần đề phòng nữa. Tinh Trú chỉ thuộc lòng hành động của nhà vua và Nguyệt Thần thôi, Phiến Phong, ông phải giúp tôi, vì đó là cách duy nhất để qua được Tung Thiên.
Phiến Phong nói với tôi rằng, bản thân ông lúc đó không biết cách duy nhất mà Tinh Quỹ nói tới chính là hy sinh bản thân nàng, bởi thực sự nàng bị Tinh Trú khống chế nên không thể chống lại được. Nàng đã phải dùng toàn bộ linh lực và pháp thuật tấn công mà bộ tộc nàng không mấy khi dùng tới, cách này sẽ làm cho linh lực tiêu hao gần như hết. Bản thân ông ta vì rất mừng là có thể đánh bại Tinh Trú nên quên mất là Tinh Quỹ đang rất yếu. Khi ông thấy những thanh kiếm băng lao vào và mọc ra những ngạnh nhọn trong ngục Tinh Trú, ông cảm thấy vô cùng vui mừng, quay lại cười với Tinh Quỹ thì Quỹ đã
ngã xuống trong vũng máu, mắt mở to nhìn lên trời chẳng nói được gì nữa. Ông đột nhiên thấy gió không còn tuân theo sự điều khiển của mình và đang tỏa ra bốn phương bay đi, ông đưa hai bàn tay không ra mà mắt nhòa lệ.
Tôi khép chặt tà áo bào, hoa tuyết xung quanh vẫn rơi trên đầu, kể từ sau cái chết của em trai, tôi chẳng dùng pháp thuật để tránh tuyết nữa, nhưng quả thật, chưa bao giờ tôi thấy hoa tuyết lạnh như lần này, tôi khép chặt tà áo hơn và cũng chẳng nói gì, cố chấp như một đứa trẻ.
Khi rời lãnh địa Bắc phương, Hoàng Thác đưa tôi tới một giấc mơ, ông ta nói Tinh Quỹ để lại bốn giấc mơ, thứ nhất, khi chúng tôi rời Bắc phương rồi sẽ mở, còn thứ hai là khi tiến vào Tây phương, thứ ba là khi chúng tôi không còn manh mối và mất phương hướng, không thể tiến lên được, và cuối cùng khi tôi gặp Tây phương hộ pháp thì giấc mơ sẽ được mở ra.
Giấc mơ thứ nhất đẹp ngoài sức tưởng tượng của tôi, giống hệt như những ngọn lửa lung linh thắp sáng trời xanh, ánh sáng biến đổi muôn màu.
Trong mơ, Tinh Quỹ đang tự do chạy nhảy, mặc dù cả đời nàng chưa thế bao giờ, nụ cười của nàng tràn ngập trên mặt đất phủ đầy hoa anh đào, Tinh Quỹ chạy, những cánh hoa anh đào cũng chầm chậm, chầm chậm bay lên theo, theo mãi...
"Đại vương, xin tha lỗi vì muội không thể cùng đi được nữa, dù cho muội không muốn. Sự ra đời của muội là một sai lầm, từ nhỏ muội là đứa trẻ được cả gia tộc yêu mến nhưng đau lòng, phụ hoàng và mẫu hậu luôn rơi lệ vì muội, muội cũng đau lòng khi thấy nét mặt già nua của họ. Còn đại huynh Tinh Cựu của muội là một nhà chiêm tinh vĩ đại, có tấm lòng rộng mở và nụ cười ấm áp, vô cùng bao dung và chiều muội. Nhưng ngôi sao chiếu mệnh của muội đã rơi, muội sẽ chết trong một buổi sớm đầy hương thơm của hoa anh đào hoặc trong một đêm có ánh trăng chiếu dọi. Vì vậy cái chết của muội chẳng có gì đáng tiếc. Trên đường đi muội luôn cần sự bảo vệ của mọi người, Liêu Tiễn thì bế muội, Hoàng Thác thì phải dùng pháp thuật tạo ra vòng bảo vệ, Phiến Phong phải dùng gió đẩy mây đen đi... Nhiều khi muội muôn mình mạnh lên để mọi người khỏi phải lo lắng nhưng không được, thậm chí muội đi cũng không nổi nữa.
Đại vương, từ khi muội sinh ra đã luôn phải sống ở tầng lớp thấp nhất trong cung Ảo Tinh, bói toán hưng vượng hay suy vong cho gia tộc. Muội chưa bao giờ nhìn thấy vẻ thê lương của đóa anh đào cũng như sự tĩnh lặng khi vầng trăng lặn hay nghe âm thanh yếu ớt khi bông hoa nở. Muội rất muốn ra thế giới bên ngoài một lần cho biết, rất muốn biết tới cảm giác gió thổi tung bay mái tóc và tà áo muội. Muội vô cùng cám ơn huynh đã uội một quãng thời gian rạng rỡ được thoát ra khỏi nơi đàn tế đen tối và được
đứng dưới ánh mặt trời, muội được nhìn thấy bức tượng thành hùng vĩ của cung thần Diệt Thiên, được nghe bản nhạc của Triều Nhai làm cảm động bức tưởng than thở, được nhìn thấy Tinh Trú - vị thần của bộ tộc Chiêm Tinh, cho dù phải chết dưới tay bà ta, những muội cũng không hề oán trách.
Đại vương, muội có thể hiểu được tình cảm của huynh đối với đệ của huynh, với Lê Lạc và Lam Thường, nó sâu nặng và nồng ấm làm sao. Lúc ở trong cung điện của Điệp Triệt, khi huynh cho Triều Nhai giấc mơ, muội đã cảm nhận được tình cảm trào dâng trong lòng huynh, muội chỉ mong huynh sống tự do và vui vẻ như ý nguyện của huynh, muội hy vọng sẽ có một ngày, Thích sống lại sẽ cúi xuống hôn lên đôi lông mày của huynh, gọi huynh là đại huynh, giống như muội đã gọi Tinh Cựu của muội vậy. Chỉ có điều, muội
không thể hôn huynh của muội được nữa, mong huynh hãy chăm sóc anh trai của muội.
Thưa Đại vương, muội không thể xem cho con đường đi phía trước của huynh nữa, mong huynh sẽ dũng cảm tiến bước. Thực ra, khi ở trong cung điện của Điệp Triệt, muội đã biết mình sẽ chết ở đó, chính lúc ấy, muội chẳng dám nói cho ai hay, bởi số mệnh không thể nào đổi được, muội chỉ biết vui vẻ tiếp nhận nó.
Thưa Đại vương, khi tiến vào thần điện Tung Tinh, muội đã từng xem quẻ cho huynh tiến vào Tây phương hộ pháp, nhưng quẻ đó muội chưa từng gặp bao giờ, không biết có phải Tây phương hộ pháp quá mạnh hay lãnh địa đó có gì quá đặc biệt, muội chỉ biết nói cho huynh biết, đó là một nơi độc lập tách khỏi ra khỏi vòng cương tỏa của núi thần Ảo Tuyết, dưới sự bảo hộ của Tây phương hộ pháp, muội không có cách gì đoán được nó ra sao cả, có lẽ nó cũng là một cung điện hoành tráng như của các hộ pháp trước đó, cũng
có thể là một bình nguyên băng phủ, thậm chí có thể là một thế giới của bộ tộc Lửa, khi huynh giết chết Tây phương hộ pháp, linh lực của ông ta sẽ tiêu tan và thế giới đó cũng sẽ biến mất theo, sau đó các huynh sẽ gặp Uyên Tế, kẻ thống trị núi thần Ảo Tuyết.
Thưa Đại vương, muội phải ra đi, mong các huynh hãy tiếp tục sống, muội yêu tất cả mọi người, xin huynh chớ báo tin muội chết cho anh của muội, bởi anh rất yêu muội, muội không muốn để anh phải buồn rầu, hễ nghĩ tới khi anh nghe tin này khiên đôi lông mày lưỡi mác đó nhíu lại là lòng muội đau như dao cắt.
Cũng giống như đệ của huynh, mong huynh hãy tự do bay lên!..."
Ngày mà chúng tôi chuẩn bị rời cung thần Tung Thiên, tôi nhận được thư của Tinh Cựu gửi từ thành Nhẫn Tuyết tới do con chim chế phong mang lại.
Thư nói rằng, thưa Đại vương, thần xem quẻ và biết rằng mọi người đã vượt qua được cung thần Tung Thiên của Bắc phương hộ pháp nên lòng cũng được an ủi, mong mọi người sớm trở về. Xin Đại vương thay thần chăm sóc cho Tinh Quỹ, thần xem quẻ thấy hình như một mình Tinh Quỹ đi tới một nơi rất xa xôi, Đại vương đừng để muội của thần đi một mình, từ nhỏ Tinh Quỹ rất sợ đơn côi, Đại vương hãy luôn đi cùng với Tinh Quỹ nhé.
Tay tôi run rẩy không giữ được bức thư, một trận gió thổi tới, bức thư nhẹ nhàng bay đi mất, bay lên tít tận trời xanh vào một thế giới mà chúng tôi không thể biết được, bay mãi về hướng Tây.
Tôi mường tượng ra rất nhiều hình ảnh về miền Tây kia, có thể là một mảnh đất kỳ quái hoặc nơi rừng đao biển lửa, nhưng khi tôi đặt chân lên đó vẫn kinh ngạc không nói nên lời, bởi cái mà tôi nhìn thấy lại chỉ là cảnh của trần gian mà thôi.
Khi chúng tôi tiến vào lãnh địa Tây phương hộ pháp là lúc mặt trời đang mọc, không khí ở đây rất đầm ấm, có những cô gái nhỏ nhắn thanh tú tay xách chiếc làn hoa, trong làn toàn là hoa nhài tươi nguyên được xâu lại thành từng chuỗi lớn, đang vừa đi vừa rao bán trên con đường lát bằng các tấm đá xanh còn đọng đầy sương đêm. Trong các quán trà, quán rượu ven đường tiếng người rất huyên náo. Những người bán bánh rán hai bên đường luôn chào mời mọi người mua bán giá rẻ. Còn có cả những thanh niên trẻ mặc áo dài lưng đeo kiếm rất đẹp, tóc họ búi cao, mắt sáng, dáng vẻ kiêu ngạo, những cô gái
lưng thắt dải lụa xanh, mái tóc đen bay bay trong gió rất nhẹ nhàng.
Nhưng điều thực sự đáng kinh ngạc là, khi những người có mái tóc trắng bạc dài chấm đất xuất hiện nơi trần thế thì họ không hề sợ hãi chút nào, nụ cười của họ vẫn rất tự nhiên, những chú Tiểu đồng trong các quán rượu chạy tới hỏi han chúng tôi xem có cần dừng chân nghỉ ngơi hay không. Tôi quay lại nhìn Nguyệt Thần, giờ đây không còn Tinh Quỹ nữa, chúng tôi phải hoàn toàn dựa vào cảm giác nhạy bén như một con thú của một sát thủ như Nguyệt Thần để tránh khỏi nguy hiểm.
Nguyệt Thần nói, đây không phải là trần thế đơn giản vì thấy rất nhiều sát khí.
Tôi nói, ta đã hiểu, vì nếu là người trần khi nhìn thấy bộ dạng chúng ta không thể không có phản ứng gì.
Chúng tôi thận trọng tiến lên, tinh thần tập trung tới mức có thể nghe được cả tiếng tuyết tan dưới bước chân. Nguyệt Thần đi cạnh tôi nói nhỏ, người trong những quán nhỏ ven đường kia đều là những sát thủ tuyệt đỉnh, còn những bà già kia chính là những nhà pháp thuật cao cường khó tưởng tượng nổi, chỉ có những người ăn mày mới đúng là ăn mày.
Khi chúng tôi đi tới đoạn cuối của một đường phố sầm uất thì nhìn thấy một nhà khách rất xa hoa, đầy lời ca tiếng hát, một cậu con trai xinh đẹp mắt đen lay láy đang đứng ở cửa chơi với một quả bóng tròn màu trắng như quả cầu tuyết vậy. Chúng tôi lại gần và quỳ xuống hỏi nhỏ: "Này tiểu đệ, huynh đây có thể cùng chơi bóng với đệ được không?" Cậu bé nhìn chúng tôi cười, nụ cười thoải mái và trong trẻo như nước suối ban mai. Cậu đưa quả bóng cho tôi, tôi cầm quả bóng trên tay mà mặt biến sắc. Đó là một quả bóng thật, nói cách khác, những thứ ở trần thế đều là thật cả, từ trước tới nay tôi chưa từng nghĩ tới linh lực của Tây phương hộ pháp lại mạnh đến mức này, biến ảo thành thực
như vậy. Tôi thở dài muốn bảo mọi người hãy ngừng lại để mai hãy hay.
Khi tôi quay đầu lại định nói với mọi người thì nhìn thấy ánh mắt hoang vắng của Liêu Tiễn, ông ta vô cảm nhìn tôi, sắc mặt xanh khác thường và sau đó ngã nhào xuống đất, chết ngay khi bước vào lãnh địa Tây phương.
Khi Liêu Tiễn ngã xuống tôi hoàn toàn không có phản ửng gì, còn Phiến Phong đã bước tới ôm lấy Liêu Tiễn, nhưng đã quá muộn, Hoàng Thác đặt ngón tay lên lỗ mũi Tiễn, lập tức tay cứng ngay lại không động đậy được nữa.
Hoàng Thác gõ vào ngón đeo nhẫn bên tay trái, sau đó đưa qua một lượt ở phía trên người Liêu Tiễn rồi quay lại nhìn tôi nói rất nghiêm túc, Tiễn đã chết vì bị trúng độc.
Hoàng Thác nói cho tôi hay kẻ hạ độc nhất định là một cao thủ, bởi hắn đã tính rất kỹ, cho Liêu Tiễn chết ngay từ khi mới bắt đầu bước vào đất Tây phương.
Nhưng chất độc này ở trong người đã lâu rồi, có thể nói là từ trước khi chúng tôi vào Tây phương, đã có kẻ hạ độc Liêu Tiễn rồi.
Tôi bỗng nhìn thấy trong mắt Hoàng Thác một tia sáng rất mơ hồ nhưng rất kỳ quặc, sau đó trở lại rất lặng lẽ gần như tàn khốc, ông ta nói: "Thưa Đại vương, trong quãng đường vừa đi qua kẻ nào có cơ hội hạ độc Liêu Tiễn nhất?"
Mặt mọi người đều biến sắc, họ đều hiểu rõ ý của Hoàng Thác, nhưng chẳng ai nói ra.
Một lúc sau, tôi nói, tất cả chúng ta, kể cả ta đều có cơ hội để hạ độc.
Phiến Phong nói, người không thể nghi ngờ bất kỳ ai trong chúng ta được.
Nguyệt Thần lạnh lùng nói, nếu ta muốn giết Tiễn thì ông ta phải chết thật đẹp, người không thể có cách gì để nhận ra nguyên nhân của cái chết đó.
Triều Nhai không nói gì, đầu cúi xuống, gió thổi tung mái tóc của nàng, khuôn mặt bị tóc che lấp càng trở nên điểm yếu hơn. Tôi biết sau trận đấu với Điệp Triệt, linh lực của nàng đã mất đi rất nhiều, nên kẻ đó không thể là Triều Nhai được.
Hoàng Thác nói: ta không nghi ngờ bất cứ ai mà chỉ muốn tìm ra sự thật và thực sự tin rằng trong chúng ta không ai ám sát Liêu Tiễn cả mà chỉ muốn mọi người hiểu rằng, kỹ thuật ám sát của kẻ đó thật là xuất thần mà thôi.
Đêm đó, chúng tôi nghỉ lại nhà khách. Đây là một công trình rất xa hoa và tráng lệ với những lầu son gác tía, những cây cầu nhỏ nước chảy bên dưới.
Chúng tôi ở trong mấy ngôi nhà gỗ rất tinh tế trong khu rừng trúc. Trên những phiến lá trúc xanh còn lưu lại dấu tích của tuyết, khi những cơn gió thổi qua, những bông tuyết trong rừng trúc lại bay bay theo gió và rơi xuống.
Triều Nhai rất thích nơi này, nàng nói rằng trong thành Nhẫn Tuyết chỉ toàn thấy những bức tường cao to hùng vĩ, có cột đá Huyền Vũ cao chọc trời và mái vòm cao vời vợi, chứ chưa bao giờ nhìn thấy những ngôi nhà bé nhỏ như thế này.
Chúng tôi mai táng Liêu Tiễn ở mảnh đất trống sau nhà, Triều Nhai định đàn một bản oan hồn khúc, nhưng linh lực của nàng yếu không thể làm nổi, nàng nhìn tôi cười, tôi nhận ra sự buồn rầu trong ánh mắt nàng.
Tối đó, ăn cơm xong, Triều Nhai là người đi ngủ sớm nhất, tôi nhìn nàng đi vào phòng và nhận ra sự mệt mỏi của nàng.
Tối đó, tôi không sao ngủ được, trong óc luôn hiện ra bức tranh kể từ khi chúng tôi vào núi thần Ảo Tuyết đến nay, nó cứ thấp thoáng trong màn đêm đen kịt. Tôi không thể không thừa nhận Tây phương hộ pháp quả là một đối thủ lợi hại mà tôi chưa từng gặp, chúng tôi thậm chí không đủ sức mạnh để trả đũa đòn tiến công của ông ta. Tôi phát hiện ra rằng, thuật ám sát quả là thứ khó chống lại ảo thuật.
Tôi trở mình nhìn ra ngoài, thấy ánh trăng chiếu qua cửa sổ trải đầy mặt đất. Sau đó, tôi vùng dậy lao ra phía sau cửa sổ.
Bởi tôi thấy Nguyệt Thần xuất hiện phía sau nhà, ánh trăng soi rõ đường nét cơ thể nàng. Nguyệt Thần quay lưng về phía tôi, đang đứng trước nấm mồ của Liêu Tiễn. Tôi không thể tưởng tượng được trong đêm trăng này Nguyệt Thần ra mộ Liêu Tiễn. Bỗng một đám mây bay ngang qua che lấp mặt trăng, chính trong lúc ánh trăng yếu đi đó tôi nhìn thấy ánh trăng trên tay Nguyệt Thần, nhưng quả thật tôi cũng không hiểu nàng dùng pháp thuật làm gì, ở đây có kẻ thù nào xuất hiện đâu, thậm chí là chẳng có người nào.
Đúng lúc đó, Hoàng Thác lặng lẽ xuất hiện phía sau Nguyệt Thần, tuy lúc đó gió rất mạnh nhưng tà áo ảo thuật của Hoàng Thác lại không hề lay động, tôi biết là ông ta đã lập vòng bảo vệ an toàn cho mình.
hưng Nguyệt Thần vẫn nhận ra sự xuất hiện đó bèn khẽ hỏi: "Ai đấy", rồi quay ngay người lại và vung lưỡi dao ánh sáng xuyên từ dưới lên trên người Hoàng Thác. Từ khi nàng nói tới khi quay người lại phóng dao chỉ trong tích tắc. Cuối cùng tôi đã biết được sức mạnh thực sự và tốc độ ám sát của nàng, trước đây tôi luôn đánh giá thấp nàng.
Nhưng có vẻ Hoàng Thác biết trước là nàng sẽ ra tay nên rất ung dung đưa tay ra chặn lưỡi dao của Nguyệt Thần.
Nguyệt Thần thu tay lại nói: Hóa ra là ngươi.
Hoàng Thác mặt lạnh lùng nói: Vì sao lại không thể là ta, nhà ngươi ở đây làm gì?
Nguyệt Thần cười lạnh lùng hỏi lại, vậy ngươi làm gì ở đây?
Điều này ngươi không cần biết. Hoàng Thác nói.
Vậy thì việc của ta cũng không cần ngươi phải biết - Nói rồi quay đi.
Khi Nguyệt Thần đi ra khỏi bãi trống sau nhà, Hoàng Thác nói theo phía sau Nguyệt Thần: Nơi đây chỉ có mấy người chúng ta, vậy sao ngươi lại dùng chiêu giết người ghê gớm như vậy?
Nguyệt Thần dừng nhưng không quay lại, rồi chẳng nói câu nào và rời khỏi nơi đó.
Hoàng Thác đứng trong màn đêm, tôi nhìn thấy ông ta đã tự loại bỏ vòng bảo vệ của mình, gió thổi tung tà áo dài phép thuật của ông ta, mái tóc trắng bạc bay phất phơ trong ánh trăng đêm.
Đêm đó, không ngủ được, tôi ra thăm mộ Liêu Tiễn, nhưng không biết Hoàng Thác đã về từ lúc nào, trên bãi đất trống chỉ còn lại ánh trăng.
Sáng hôm sau, khi tôi mở cửa phòng, Nguyệt Thần và Triều Nhai đã dậy, Nguyệt Thần đứng giữa rừng trúc, Triều Nhai ngồi trên ghế đá gảy đàn, hai người in bóng lên tuyết trắng và trúc xanh, mái tóc và tà áo dài bay trong gió, tạo nên một bức tranh tuyệt mỹ. Tôi nhìn thấy rất nhiều người đàn ông đang đứng ở ngôi nhà xa xa nhìn, tôi biết Nguyệt Thần và Triều Nhai làm kinh ngạc người trần gian, chẳng có cô gái dưới trần gian nào có thể đẹp được như họ.
Hoàng Thác và Phiến Phong cũng từ trong nhà đi ra, Nguyệt Thần nhìn thấy Hoàng Thác cũng không có biểu hiện gì khác lạ. Hoàng Thác cũng vậy, có vẻ như chuyện tối qua không hề xảy ra. Tôi cũng chẳng hỏi họ làm gì.
Hoàng Thác đến trước mặt tôi nói: Thưa Đại vương, hình như chúng ta quên một việc rất quan trọng. Tôi hỏi là việc gì thì ông ta nói, đó là giấc mơ thứ hai của Tinh Quỹ.
Khi tôi đi vào giấc mơ thứ hai của Tinh Quỹ mới biết giấc mơ này thật đơn giản. Trong mơ tôi chẳng thấy gì cả, xung quanh chỉ thấy một màn sương rất dày màu xám, tiếng Tinh Quỹ nói liên tục rằng tôi phải đi tìm một người có biệt danh là Thái Tử ở đây, tên là Thương Liệt.
Tôi hỏi người phục vụ quán ở đây có ai tên là Thương Liệt không, cậu ta vò đầu nghĩ ngợi một lúc rồi nói không có. Tôi nói: vậy có Thái tử không? Và tôi đột nhiên nhìn thấy những nét hoảng hốt hiện ra trong mắt họ.
- Người tìm Thái tử làm gì? - Một người đội một chiếc mũ rộng vành rất kỳ lạ che gần hết mặt hỏi lại. Người này có đôi mắt rất sáng, ánh mắt rất sắc, mặc chiếc áo dài màu xám đang cúi đầu xuống ăn bát mì.
Ng.uồ.n.từ. s.it.e.Tr.uy.en.Gi.Cu.ng.Co..c.om. Tôi vội hỏi lại:
- Ngài quen biết Thái tử ư?
- Đúng vậy - Ông ta đáp.
- Ông ta là người thế nào?
- Là người nhưng không phải là người.
- Vậy là một vị thần ư?
- Cũng có thể nói như vậy được, vì trong thành này, ông ấy chính là thần.
- Vì sao vậy?
- Vì địa vị, của cải, phép thuật, tướng mạo và trí tuệ của ông ấy không ai vượt qua được.
- Vậy ngài có thể dẫn tôi đi tìm ông ấy được không?
- Không được.
- Vì sao vậy? - Phiến Phong hỏi.
- Bởi tôi không thích.
Tôi đang định bước tới thì Nguyệt Thần đưa tay ra chạm vào lưng tôi và nói phải luôn cách xa ông ta sáu thước. Tôi nhìn Nguyệt Thần, nàng vẫn nhìn người nọ, tôi biết cảm giác của nàng không bao giờ sai vì tôi cũng cảm thấy hơi thở không bình thường ở con người này.
Nguyệt Thần bước tới ghé vào tai người kia nói nhỏ mấy câu, rồi ngẩng lên mỉm cười. Người kia nhìn tôi nói, thôi được, tôi sẽ dẫn đi!
- Vì sao bây giờ ngài lại đồng ý? - Phiến Phong hỏi lại.
- Vì tôi vui chứ sao! - Người kia đáp.
Nói đoạn, ông ta quay người đi ra khỏi cửa, chúng tôi đi theo ông ta. Tôi hỏi Nguyệt Thần, nàng vừa nói gì với ông ta? Nguyệt Thần cười cười và nói, lúc đó ánh trăng trong tay tôi đã áp sát vào lưng ông ta rồi, tôi chỉ nói nếu ông không đưa chúng tôi đi thì ngọn đao ánh trăng sẽ xuyên thủng ngực ông từ phía sau ra phía trước.
Trên đường phố trần thế, người này dẫn chúng tôi đi rất nhanh khiến tôi nghĩ ông ta không phải là người bình thường, vì ông ta đi vô cùng nhanh, dù chúng tôi đã trổ hết tài ghệ, nhưng ông ta luôn đi phía trước và giữ một khoảng cách nhất định với chúng tôi.
Ông ta đưa chúng tôi qua nhiều phố lớn ngõ nhỏ rất phức tạp, nơi thì sầm uất đông vui, nơi thì lạnh lẽo khác thường, ông ta có vẻ như thông thạo mọi ngõ ngách ở đây.
Sau một khoảng thời gian khá lâu, một trang viên rất lớn hiện ra trước mắt chúng tôi, người kia nói, các vị đi qua cửa lớn rồi đi thẳng, đi tới tận cùng sẽ nhìn thấy Thái tử.
Tôi nhìn vào phía trong, một con đường lát bằng những phiến đá xanh chạy dài tít tắp, tuyết phủ trắng mặt đường, phía cuối con đường là một cánh cửa gỗ rất dày trạm trổ rất tinh xảo, trên cửa có những khuy và vòng bằng đồng rất tinh tế.
- Thái tử ở trong đó ư? - Tôi quay lại hỏi người kia, nhưng ông ta đã biến mất. Phiến Phong nói không biết ông ta biến ảo tàng hình từ lúc nào rồi?
Nguyệt Thần nói, ông ta chẳng có phép thuật tàng hình biến ảo gì cả, vì khi vào lãnh địa Tây phương ta đã từng thử qua rồi, trong thế giới này mọi ma thuật đều bị phong tỏa. Vậy thì sao ông ta lại đột nhiên biến mất? Nguyệt Thần nói rất nghiêm túc, vì tốc độ của ông ta quá nhanh.
Đó là một khoảng sân rất rộng, tuyết trên những phiến đá xanh lát đường như vừa mới rơi xuống, vì màu trắng của nó rất tinh khiết và chưa hề có vết chân người nào cả. Chúng tôi bước đi trên con đường đó, xung quanh yên tĩnh tới mức nghe thấy cả tiếng tuyết lạo xạo dưới chân mình.
Phiến Phong đập đập chiếc vòng đồng trên cánh cửa, cánh cửa màu đỏ đậm phát ra tiếng trầm đục, nhưng bên trong chẳng thấy có tiếng động nào.
Phiến Phong nói, chẳng lẽ người ta lừa chúng ta? Nhưng vừa dứt lời thì cánh cửa tự động mở ra, trong đó có những bảy người.
Chúng tôi bước vào, cánh cửa lại tự động đóng lại như lúc mở ra.
- Ai là Thương Liệt - Phiến Phong hỏi.
Chẳng ai trả tời.
Ngôi nhà có một cửa sổ, nhìn qua cửa sổ có thể thấy cảnh vật bên ngoài đó là khoảng sân đầy tuyết, hoa mai đỏ đang nở rộ in trên nền tuyết trắng nên càng nổi bật hơn, khi gió thổi qua, tuyết trên cành cây rơi lả tả. Một người trẻ tuổi mặc áo dài, lông mày lưỡi mác, mắt sáng như dao đang đứng bên cửa sổ.
Bên thắt lưng chàng có một miếng ngọc bội trắng muốt, nhìn đã biết là rất quí, cạnh ngọc bội còn một thanh kiếm đen tuyền, lưỡi sáng lóa. Ngoài hai thứ đó ra, chàng ta chẳng có thứ gì đáng giá nữa, chiếc áo dài tuy cũ nhưng rất sạch sẽ, may rất vừa vặn. Chàng đứng bất động chẳng nói lời nào, chỉ có tà áo dài bị gió từ cửa sổ thổi vào bay lên. Cả con người chàng như một thanh kiếm sắc bén vừa rút ra khỏi vỏ. Chàng ta hình như không để ý gì tới việc năm người chúng tôi đột ngột xuất hiện nơi đây.
Ngoài chàng trai ra, còn có một lão tóc bạc trắng đang ngồi ở góc trong cùng của ngôi nhà, màu trắng của mái tóc của ông không phải là do ông mang dòng máu thuần chủng của bộ tộc Băng mà chỉ do ông là người trần gian, mà người trần gian thì khi già tóc sẽ bạc đi. Chiếc áo dài mà ông ta mặc cũng rất quí, màu tím, trên có thêu một con rồng màu vàng. Ánh mắt ông đầy vẻ coi thường mà tôi nhìn thấy rõ. Ông ta đang ngồi nhàn tản tự sửa móng tay mình, ai cũng có thể nhận ra những chiếc móng tay đó chính là thứ vũ khí rất tâm đắc của ông vì nó rất cứng lại sắc nhọn như mười thanh kiếm nhỏ.
Một phía của gian phòng có một người phụ nữ luống tuổi mặc bộ quần áo màu sặc sỡ, tuy không còn trẻ nữa nhưng rất phong độ, tóc bà ta búi cao trên đỉnh đầu có cài nhiều trâm nhỏ. Tôi hiểu rằng đó không phải là những chiếc trâm bình thường, thứ đồ trang sức nhỏ như chiếc kim thêu đó sẵn sàng biến thành thứ công cụ giết người rất lợi hại. Đột nhiên, tôi chú ý tay bà ta, vì phát hiện ra tay bà ta đeo găng trong suốt rất mỏng, chắc chắn bà ta là một cao thủ dùng độc dược.
Chỗ chính giữa trong cùng của gian phòng có một cô gái đang đánh đàn, trước mặt cô là một cây đàn cổ, tiếng đàn tràn ngập cả căn phòng. Khuôn mặt cô rất trẻ, nhưng điều kỳ lạ là khuôn mặt ấy đầy vẻ tang thương không hề phù hợp với tuổi cô, thậm chí đuôi mắt còn một vài nếp nhăn nho nhỏ. Tôi quan sát cô, thấy Triều Nhai cũng nhìn cô, rồi quay lại mỉm cười với tôi, tôi hiểu ý của Triều Nhai.
Giữa nhà có chiếc giường, có ba người đang ngồi trên đó, người bên trái là một đàn ông vẻ mặt khôi ngô như một thiên thần, tuy tuyết đang rơi đầy trời nhưng anh ta vẫn không cài cúc áo, để lộ ra bộ ngực vạm vỡ rắn chắc, còn bên trái là một cô gái tuyệt đẹp, xiêm áo xúng xính, vẻ mặt cao ngạo. Một nữ tỳ đang quỳ và xoa bóp chân cho cô.
Tôi quay đầu lại nhìn Nguyệt Thần, thấy nàng cũng nhìn tôi và gật đầu, tôi biết những phán đoán của tôi và nàng giống nhau.
Tôi bước lại gần người thanh niên. Anh ta quay lại nói với tôi, ngài thật là người có con mắt tinh tường mới biết ta là Thái tử.
Tôi nói, người không phải là Thái tử?
Chàng trai tỏ ra rất lúng túng hỏi lại, vì sao ngài biết tôi không phải là Thái tử?
- Bởi người không thật thoải mái, người quá căng thẳng. Người giả bộ không để ý tới việc chúng tôi đi vào, nhưng thực ra rất sợ người khác phát hiện ra sự lo lắng trên khuôn mặt mình nên nhìn ra cửa sổ lưng quay vào trong - Tôi nói.
Anh chàng không nói gì nữa, lui sang một bên, ánh mắt rất tức giận.
Nguyệt Thần đi tới trước mặt ông già đang sửa móng tay, người này thở dài và nói, xem ra không thể lừa nổi các người. Ta đây mới thực sự là Thái tử.
Nguyệt Thần lại cười và nói, ông cũng không phải là Thái tử.
Ông lão hỏi như vô tình: Vì sao vậy? Những nếp nhăn trên mặt ông ta như run lên.
- Bởi ông còn căng thẳng hơn cả chàng trai kia, ông phải dùng cách sửa móng tay để che giấu nội tâm đang lúng túng. Ông cố tỏ ra là người cao sang, có những đồ trang sức quý và thái độ bất cần. Nhưng nếu tôi đoán không sai thì ông là người có địa vị thấp nhất ở đây! - Nguyệt Thần nói.
Ông lão mặt tím lại vì tức giận.
Tôi tiếp tục bước tới trước người phụ nữ đầu gài những chiếc trâm nhỏ, người này cười và hỏi tôi: lẽ nào tôi cũng không phải?
- Bà không phải - Tôi đáp.
- Vì sao vậy? - Bà ta hỏi lại.
- Nếu tôi đoán không nhầm, bà chỉ là một cao thủ thuốc độc.
- Quả không sai.
- Vậy người không thể là Thái tử được.
- Vì sao vậy?
- Bởi những người dùng độc thì nội tâm đều không trong sạch, dù cho có thể trở thành cao thủ ám sát giỏi nhất cũng không thể thành một hào kiệt thống lĩnh một phương, Thái tử tuy có thể tung hoành trong thành phố này, tất nhiên không thể dựa vào ám sát, dùng độc để đạt mục đích. Mà giả sử Thái tử giỏi dùng độc thì cũng không cắm trên mái tóc mình nhiều độc khí đến vậy hoặc cũng không dễ dàng để cho người khác nhìn thấy chiếc găng tay kia.
Đây vốn chỉ là một vài chiêu rất inh trong kế sách của các người, bởi đây là lãnh địa của Ám Sát hộ pháp, cho nên các người cho rằng, ta sẽ coi người nào thuật ám sát càng tốt thì địa vị càng cao. Đáng tiếc, ngay từ nhỏ phụ thân ta đã dạy rằng, một người tấm lòng không rộng mở vĩ đại sẽ không thể có được giấc mơ đẹp và địa vị cao.
Triều Nhai bước tới trước mặt cô gái gảy đàn nói rằng cô có thể nghỉ tay được rồi.
Cô ta ngẩng lên nhìn mà chẳng nói gì.
Triều Nhai cười và nói: Trừ Điệp Triệt ra, chẳng ai hiểu âm nhạc bằng tôi, trong tiếng đàn của cô có một thứ tình cảm rất mềm yếu, Thái tử sẽ không thể có tâm trạng của một cô gái như vậy được, vì cho dù Thái tử là một phụ nữ chăng nữa, thì Thái tử cũng sẽ có một thế giới nội tâm mạnh mẽ và kiên nhẫn như của người con trai.
Triều Nhai ngồi xuống và nói hãy để ta đàn cho. Sau đó cả ngôi nhà tràn ngập một điệu nhạc du dương, đẹp như trong mộng vậy, thứ âm nhạc đã từng làm rung động bức tường Than Thở.
Nguyệt Thần bước tới trước chiếc giường mềm ở giữa phòng nói với người con trai rằng, hãy xuống đi, vì nếu theo chức vụ thì chỗ đó không phải là chỗ của người.
Người này im lặng hồi lâu rồi bước ra khỏi giường, nhìn Nguyệt Thần như muốn hỏi vì sao mà nàng biết anh ta không phải là Thái tử.
Nguyệt Thần nói, người rất khôi ngô nhưng chẳng tác dụng gì, cơ bắp kia chỉ là cái vẻ bên ngoài chứ hoàn toàn không có giá trị thực dụng, người có tin không, Triều Nhai, cô gái đang đánh đàn kia cũng thừa sức đánh bại người.
Sau đó, Nguyệt Thần bước tới trước mặt người con gái, cúi xuống nói:
Thưa Thái tử, thần rất mừng khi được gặp Người.
Nhưng khi Nguyệt Thần ngẩng đầu lên, nàng lại nói với người nữ tỳ đang đấm bóp rằng, Thái tử, người có thể nghỉ ngơi rồi!
Tôi cười toáng lên, phán đoán của Nguyệt Thần giống như của tôi, Thái tử thực sự chính là người nữ tỳ kia.
Sau đó, tay người nữ tỳ kia chợt dừng lại. Cô ta đứng dậy nhìn chúng tôi thở dài nói, các người làm sao lại nghĩ là tôi?
- Bởi chúng tôi loại trừ người phụ nữ kia, vậy người còn lại chỉ có Người.
Thái tử ngước lên, tôi đã nhìn rõ khuôn mặt của nàng, tuy thanh tú nhưng là thứ thần sắc không dễ bị xâm phạm, hai mắt không lộ vẻ nộ khí nhưng rất có uy. Thái tử nói, vì sao các người biết không phải là người kia mà lại là ta?
Tôi nói:
- Ta vốn cũng không nghĩ là Người, bởi Người không hề có bất kỳ cử chỉ nào không tương xứng. Chỉ đột nhiên ta nghĩ ra rằng, khi nữ tỳ xoa bóp châncho người, người đó sẽ không ngồi tề chỉnh nghiêm túc như thế, trừ khi kẻ xoa bóp chân là chủ nhân thực sự. Với lại, thưa Thái tử, bàn tay đấm bóp để lộ nhiều bí mật, sức mạnh khi xoa bóp vô cùng chính xác, rất đều nhau, ngón tay lại linh hoạt hơn người khác rất nhiều, dù cho khi dùng ám khí hay phép thuật khác uy lực đều rất mạnh.
Thái tử truyền cho tất cả bọn họ lui xuống, đúng như dự đoán của Nguyệt Thần, ông lão giũa móng tay có địa vị thấp nhất, đi sau cùng.
Khi Thái tử thay quần áo và xuất hiện trước mặt chúng tôi, Người đã trở thành người đàn ông đẹp tuyệt vời, đẹp như Anh Không Thích - đệ của tôi Đông phương hộ pháp ở thành Nhẫn Tuyết.
Thái tử chẳng làm động tác gì nhưng vẫn khiến người khác cảm thấy áp lực toát ra từ con người chàng, chàng nửa cười nửa không, thần bí và rất mơ hồ.
Sau khi tất cả những người đã lui ra, Thái tử mới hỏi: Các người tới tìm ta làm gì?
Tôi trả lời: Thực ra tôi cũng không biết, đó là do Tinh Quỹ báo mộng cho biết chúng tôi phải đi tìm Thái tử.
"Tinh Quỹ ư?" Tiếng của Thương Liệt bất giác run run, cho dù chàng cố tình che giấu, nhưng không tài nào qua mắt được Nguyệt Thần, cho nên chàng hắng giọng rồi nói, đúng là ta có quen cô ấy thật.
Thương Liệt nói cho chúng tôi biết, khi Thương Liệt còn ở thành Nhẫn Tuyết, Tinh Quỹ đã từng cứu chàng, bởi trong một lần chiêm tinh, Tinh Quỹ ngẫu nhiên phát hiện ra vì sao chiếu mệnh của chàng đã xuất hiện những sai lệch, nên đã nói cho Thương Liệt biết trước. Lúc đó Thương Liệt vẫn còn là một nhà ảo thuật thuộc bộ tộc Băng sắp lui về sống ẩn dật, vì vậy cho tới nay, chàng vẫn rất cảm kích trước sự giúp đỡ đó.
Thương Liệt nói, Tinh Quỹ đã bảo tới đây, vậy thì ngươi được phép hỏi bảy câu, bất kỳ câu nào ta cũng trả lời được. Hãy bắt đầu đi.
Đây có phải là trần gian không?
Không phải. Đây là do Tây phương hộ pháp dùng phép thuật tạo ra, trong này có một số người là người trần gian, còn một số là những cao thủ ám sát tuyệt vời nhất bên cạnh Tây phương hộ pháp. Trong thế giới này có một tổ chức lớn nhất gọi là Thiên Vũ, bởi tất cả người trong đó đều mang tên các loài chim, hai kẻ lợi hại nhất là Phượng hoàng và Quạ đen, trong hai người này thì Quạ đen lại lợi hại hơn cả; còn thủ lĩnh của tổ chức này chính là Tây phương hộ pháp.
Làm sao có thể rời Tây phương để gặp Uyên Tế được?
Phải tìm Tây phương hộ pháp, giết chết hắn, thế giới này sẽ tiêu tan cùng cái chết ấy ngay.
Làm thế nào để tìm thấy Tây phương hộ pháp?
Đợi chờ.
Đợi chờ gì?
Đợi hắn tới tìm ngài.
Nếu hắn không tới?
Vẫn cứ phải đợi.
Tây phương hộ pháp là ai?
Không biết.
Vậy ai biết?
Chẳng ai biết cả. Hỡi Ca Sách, ngươi đã hỏi hết bảy câu rồi, người có thể đi, hoặc nếu muốn, người hãy ở lại, ta bảo đảm nhà ở đây tốt hơn bất cứ ngôi nhà nào bên ngoài.
Tôi đang định nói sẽ ở lại nơi đây thì Nguyệt Thần cướp lời, không cần, chúng tôi sẽ trở về nhà trọ.
Tôi không biết vì sao Nguyệt Thần không muốn tiếp tục ở đây, nhưng do tin vào sự phán đoán của nàng nên gật đầu đồng ý.
Khi chúng tôi trở lại khách sạn, ngôi nhà này đã có thêm bảy người. Tôi nhìn thấy Thái tử quay đầu lại cười với tôi và nói, bọn ta cũng ở đây.
Thái tử nói: trong thế giới này, khắp nơi đều là những cao thủ ám sát, Phượng hoàng và Quạ đen lợi hại nhất, nhưng từ xưa tới nay chẳng ai biết thân phận của họ ra sao. Ta và thủ hạ của ta ở gần các người, các người có việc gì có thể sai bảo thủ hạ của ta, cho dù phép thuật của chúng ta không bằng các người nhưng trong thế giới ám sát này, kẻ mạnh và kẻ yếu lại không thể dựa vào mạnh yếu để phân biệt được.
Trong ngôi nhà khách này, chúng tôi còn gặp lại đứa trẻ xinh đẹp chơi quả cầu, người hầu ở đây nói, cậu ta chính là con ông chủ nhà khách, ông chủ có việc phải đi xa nên để cậu ở lại giao cho anh ta cai quản. Thật không ngờ là cậu vẫn nhớ chúng tôi, cậu chạy tới trước mặt tôi và nói, cùng chơi cầu với đệ đi!
Khi nghe thấy cậu ta gọi hai tiếng đại huynh, tôi chợt nhớ tới mấy trăm năm trước, khi tôi đã lớn và Thích vẫn còn là một đứa trẻ, tôi bế nó đi trên con đường đầy băng tuyết nơi trần thế. Thích nằm trên cánh tay tôi ngủ ngon lành, bởi nó rất tin tôi, luôn coi tôi như một vị thần. Nhưng vị thần mà nó tin tưởng nhất lại dùng kiếm đâm xuyên qua ngực nó để áu của nó chảy đầy mặt đất phủ kín băng giá.
Tôi ôm chặt tấy cậu bé, trong tôi chợt nảy sinh ảo giác tôi đang ôm Thích của tôi. Tôi thì thầm, Thích ngoan nào, huynh chơi với đệ đây!
Nước mắt tôi trào ra, chảy đầy xuống mu bàn tay.
Khu nhà khách này thực ra còn lớn hơn tôi tưởng rất nhiều, ngôi nhà chúng tôi ở chỉ là phần rất nhỏ trong đó. Trong khu nhà này còn có những cây cầu nhỏ bắc qua dòng nước chảy, có những khu vườn đầy hoa anh đào, sau ngôi nhà chúng tôi ở còn có một vườn hoa trồng đủ những loại cây nơi trần thế, có loài như cây mai hồng, có cả cây liễu - loại cây mà chúng tôi thích nhất, chỉ có điều là nó chưa mọc hết lá nên trông nó rất trơ trụi.
Màn đêm buông xuống. Hình như đêm trần thế đến rất nhanh, chỉ loáng một cái là đã tối om. Ở trong thành Nhẫn Tuyết, dù là ban đêm thì những lớp tuyết, lớp băng vĩnh cửu không bao giờ tan cùng những cung điện màu trắng nguy nga luôn phản xạ thứ ánh sáng mềm mại như ánh trăng hoặc ánh sáng các vì sao. Nhưng ở đây lại không như vậy, đêm tối khiến người ta có cảm giác như bị đè nặng, cả khu nhà rộng lớn vậy mà chỉ có vài ngọn đèn treo ở cổng ra vào luôn lắc lư theo gió, ánh sáng yếu ớt của nó có vẻ như sẵn sàng tắt bất cứ lúc nào, ngoài ra, chỉ còn lại ngọn đèn dầu trong phòng mà thôi.
Người ta sắp xếp năm người chúng tôi ở trong dãy nhà phía nam. Tôi bước vào phòng của mình, trời đã tối tới mức không nhìn rõ các vật trong phòng.
Hoàng Thác đi tới thắp đèn, khi Hoàng Thác quay lưng về phía tôi, Nguyệt Thần lặng lẽ viết lên lưng tôi bốn chữ. Tôi ngẩng đầu lên nhìn nàng, nhưng nàng cũng không biểu hiện gì, Hoàng Thác quay đầu lại nói với tôi: Đại vương hãy nghỉ sớm đi! Có cần tôi phải lập ra vòng bảo vệ không?
Không cần - tôi trả lời - ngươi hãy tự bảo vệ mình cho tốt.
Tôi tiễn mấy người ra cửa, thấy đèn trong phòng đã sáng mới đóng cửa.
Tôi bình tĩnh tại, vì mấy ngày này xảy ra quá nhiều việc, từ Liêu Tiễn chết tới chuyện Thương Liệt, tôi nhận thấy Tây phương hộ pháp đã trổ hết tài, nhưng vẫn chưa tìm được cửa vào đó.
Triều Nhai ở phòng bên trái tôi, bên phải là Hoàng Thác, tiếp theo hai bên là Nguyệt Thần và Phiến Phong. Còn Thương Liệt và đám thủ hạ ở ngay những phòng phía bắc đối diện với chúng tôi, giữa hai dãy nhà là một khoảngđất trống rộng chừng bảy tám trượng, giữa có những cây tùng xanh bốn mùa và một hòn non bộ rất đẹp.
Tối đó, khi tôi sắp đi ngủ bỗng nghe thấy tiếng bước chân trên mái nhà, nói cho đúng hơn là tôi cảm thấy như vậy vì động tác của người ấy rất nhẹ nhàng, không thể phát ra bất kỳ âm thanh nào, chỉ là do giác quan thứ sáu mách bảo tôi là trên đó có người mà thôi.
Đúng lúc tôi sắp ra khỏi giường thì ngọn đèn dầu phụt tắt, mắt tôi không quen ngay được với bóng đêm thì tai đột nhiên nghe thấy gió rít lên và ào tới, thứ ánh sáng lạnh lẽo đột nhiên xuất hiện trước mặt tôi. Tôi nhảy ra khỏi giường cách chừng một trượng, thứ ánh sáng lạnh đó bay vèo sạt qua áo tôi, tôi cảm thấy ớn lạnh tới tận xương. Tôi phải thừa nhận rằng, ban nãy tôi suýt chết bởi thứ ánh sáng lạnh đó, thứ ánh sáng tựa như những thỏi băng sắc nhọn, hoặc như lưỡi kiếm hay kim độc, nhưng gì thì gì cũng suýt làm tôi mất mạng.
Trong lúc tôi quay ngang, đột nhiên vung tay phóng một loạt lưỡi dao băng lên nóc nhà. Tôi nghe tiếng ngói vỡ và tiếng da thịt người bị dao xuyên thủng, sau đó có người rơi từ trên mái nhà xuống.
Tôi xông ra khỏi phòng, nhìn thấy Hoàng Thác đang đứng ở khoảng đất trống giữa hai dãy nhà rồi chạy rất nhanh tới dãy nhà phía bắc. Thấy tôi xông ra, Thác hỏi tôi có nhìn thấy một người mặc quần áo đen hay không, "hắn vừa từ trên nóc nhà Đại vương nhảy xuống". Trong lúc nói, Thác không quay lại nhìn tôi.
Tôi nói, quyết không để người đó chạy thoát! Người Thác bỗng chuyển động giống hệt như một con chim tuyết đang bay ngược gió, quả thật tôi không ngờ phép thuật của Thác lại cao cường đến vậy, tôi luôn cho rằng Thác chỉ biết ma thuật trắng. Tôi chợt nghĩ lại một số sự việc liền vội vàng vào thẳng phòng của Nguyệt Thần và Triều Nhai.
Đúng như tôi nghĩ, Nguyệt Thần không có trong phòng, nhưng điều làm tôi không hiểu là cả Triều Nhai cũng không có trong phòng. Họ đi đâu? Liệu có phải đã bị Tây phương hộ pháp hoặc thủ hạ của ông ta giết chết rồi không?
Tôi cảm thấy khí lạnh đang từ dưới chân bốc lên.
Phiến Phong xuất hiện sau lưng tôi, tôi bảo Phong đi cùng tôi tới dãy nhà phía bắc, có người định ám sát tôi đang ở trong đó.
Khi tôi tới những gian phòng phía bắc đã thấy Hoàng Thác đứng ở đó rồi.
Ngực áo của Thác đã bị một lưỡi dao sắc nhọn làm rách một đường rất dài.
Thác quay lại nói với tôi mình vừa giao đấu với người mặc quần áo đen ở chỗ hòn non bộ, hắn rất giỏi dùng kiếm băng, ngực tôi đã bị lưỡi kiếm của hắn quét qua, sau đó hắn biến mất vào sau dãy nhà này.
Tôi hỏi hắn vào phòng nào, Thác nói không nhìn rõ, nhưng kiếm của hắn rơi ở đây.
Thác nhặt lên, đó là một thanh kiếm băng, ai cũng biết đó không phải là vũ khí của người trần mà là do ảo thuật làm ra, nó rất sắc và có linh lực tụ lại trên kiếm.
Nhưng khi tôi cầm thanh kiếm đó từ tay Thác thì phát hiện ra một việc rất kỳ lạ, bởi không biết trên cán kiếm có thứ gì rất trơn, đó là điều tối kỵ, bởi nếu người ta không cầm chắc được kiếm thì sẽ không trổ hết được kiếm thuật.
Nhưng người có thể làm Thác bị thương kiếm thuật hẳn không thể yếu được.
Trong lúc Thác nói, tất cả mọi người ở dãy nhà phía bắc đều bước ra ngoài đứng hết ở hành lang.
Thương Liệt ra sớm nhất vì hình như ông ta hầu như không ngủ, vẫn mặc bộ quần áo như lúc ban ngày, thậm chí tóc còn chải rất gọn gàng, khí thế hùng dũng, toàn thân tỏa ra mùi thơm của hương hoa, trong bóng đêm, mắt ông ta càng sáng hơn, sáng như vì sao sáng nhất trên bầu trời.
Ông ta hỏi, có chuyện gì vậy?
Có người trên nóc nhà định ám sát tôi. Tôi đáp.
Tôi nhìn thấy sắc mặt ông ta thay đổi. Ông quay lại nhìn mọi người rồi nói với Hoàng Thác, "có phải người đã mặc quần áo đen không".
Đúng vậy. Hoàng Thác nhìn mọi người ở hành lang rồi lạnh lùng nói.
- Vậy từ lúc người đuổi hắn và nhìn thấy hắn chạy vào đây đến bây giờ là khoảng bao lâu rồi?
- Không lâu lắm.
- Không lâu lắm là bao lâu? - Thương Liệt hỏi lại.
Tôi đột nhiên hiểu ý của Thương Liệt và hỏi thêm: "Liệu có đủ thời gian để một người thay xong một bộ quần áo không? ". Hoàng Thác nói rất rành rọt là tuyệt đối không thể đủ được.
Đứng bên cạnh Thương Liệt là cậu thiếu niên tuấn tú đeo một thanh kiếm, đến giờ tôi mới biết tên là Nha Chiếu, cậu ta khác với Thương Liệt là người mặc chiếc áo ngủ màu trắng, bên trong còn một lớp áo màu trắng nữa, chân để trần, tóc bù xù rũ xuống hai vai.
Còn lão hồi ban ngày ăn mặc rất đẹp đẽ và ra vẻ sang nhưng thân phận lại thấp nhất tên gọi là Đông Nhiếp, ông ta mặc một bộ áo gió bằng da cáo màu trắng, bên trong là chiếc áo ngủ bằng tơ màu xanh có thêu một con rồng xanh. Nhìn con rồng, tôi chợt nghĩ tới mình đang ở trên lãnh địa của Tây phương hộ pháp Thanh Long, nhưng đứng trước những sự việc càng ngày càng kỳ dị mà tôi hoàn toàn không có manh mối hay biết gì, ngay cả khả năng chống trả của tôi cũng chẳng có.
Còn một người phụ nữ cũng không ngủ như Thương Liệt mà ban ngày ngồi trên chiếc giường mềm giữa nhà là Y Trao, bên cạnh bà ta là người đàn ông có cơ bắp rất phát triển cùng ngồi ở giường với bà ta lúc ban ngày được Thương Liệt cho biết tên là Ngư Phá. Rõ ràng người này đã ngủ rồi và bị gọi dậy, bởi mặt người đó rất đỏ, mắt hằn tia máu, đầu tóc rối bù, rõ ràng là vừa say rượu.
Tôi hiểu rõ người sau khi say rượu mà bị gọi dậy sẽ cảm thấy khó chịu thế nào, nên tôi không hỏi gì người này cả.
Còn người đàn bà đeo găng tay trắng giỏi dùng độc kế, theo Thương Liệt thì ngay cả ông ta cũng không biết tên là gì, chỉ biết một cái tên khác của bà ta, nó chỉ có một chữ là "Trâm". Bà ta mặc một bộ đồ ngủ mềm toàn một màu đen, điều kỳ lạ là, tay bà ta vẫn đeo chiếc găng tay trong suốt, không lẽ cả lúc đi ngủ bà ta cũng không cởi nó ra?
Tôi hỏi Hoàng Thác, có phải nhìn thấy kẻ ám sát mặc quần áo đen không? Thác trả lời là đúng như vậy.
Tôi chỉ bà ta và hỏi, liệu có thể là người này không? Thác trả lời, không thể. Tôi hỏi lại. Vì sao vậy? Thác đáp.
- Bởi người đó mặc đồ đen bó sát người, người phụ nữ kia tuy cũng mặc đồ đen nhưng vải rất mềm và lại rộng thùng thình, loại quần áo này sẽ rất không tiện trong hành động, sẽ phát ra những tiếng động mạnh. Những cao thủ ám sát có kinh nghiệm sẽ không bao giờ mặc loại quần áo này.
Cho nên ở đây chỉ có cô kia là đáng ngờ nhất. Tôi quay lại nhìn cô gái gảy đàn hồi ban ngày, Thương Liệt nói cô tên là Hoa Hiệu, đã từng là một tay đàn giỏi trong một thanh lâu.
- Vì sao lại như vậy? - Cô gái nọ hỏi lại.
- Bởi chỉ có mình cô khoác một chiếc áo xám rất rộng, ta rất muốn biết phía trong nàng mặc gì?
- Người cho là cái gì? Bộ quần áo đen chăng?
- Có thể không và cũng có thể đúng.
Sau đó tôi thấy mặt Hoa Hiệu biến sắc trông rất khó coi. Cô ta nói:
- Nếu ta nói không thì sao?
- Vậy thì ngươi sẽ chết ngay tại đây - Thương Liệt nói rất lạnh lùng nhưng tôi biết lời nói của ông ta rất có hiệu lực, hoặc nói cách khác là tuyệt đối có hiệu lực. Một người nếu ở vào địa vị của ông ta, mỗi lời nói đều rất thận trọng, bởi chỉ nói sai một lời sẽ mãi mãi không có cơ hội sửa chữa. Sai là chết.
Hoa Hiệu cúi đầu xuống cắn chặt môi, tôi không biết cô ta nghĩ gì, tôi nhìn thấy Hoàng Thác đã nắm tay tập trung linh lực, bởi tay trái của Thác đã bắt đầu xuất hiện ánh sáng bạc, tôi cũng uốn cong ngón đeo nhẫn tay trái sẵn sàng đề phòng Hoa Hiệu chạy trốn hoặc tấn công lại.
Nhưng Hoa Hiệu không bỏ chạy cũng không tấn công mà chỉ cởi bỏ chiếc áo khoác ngoài của mình ra.
Tôi nhìn cô ta cởi bỏ áo ngoài mà cảm thấy hối hận vì bên trong chẳng có quần áo đen, cũng chẳng có quần áo vì cô ta chẳng mặc gì cả.
Hoa Hiệu cắn chặt môi, tôi nhìn thấy nước mắt trong mắt cô.
Tôi quay lại và nói, xin lỗi, tôi đã sai, cô hãy mặc quần áo vào.
- Nguyệt Thần và Triều Nhai đâu? - Thương Liệt hỏi.
- Hai người họ không có trong phòng.
- Vậy vì sao ngài không nghi ngờ họ? - Thương Liệt nhìn tôi, ánh mắt trở nên rất lạnh lùng và sắc bén như một mũi kim sáng lóa.
- Không thể là Nguyệt Thần được - Tôi dửng dưng nói.
- Vì sao vậy? - Câu hỏi của Hoàng Thác.
Tôi nhìn Hoàng Thác, nghĩ tới chuyện giữa hai người họ đối đầu hôm trước và hiểu rằng giữa họ nhất định có bí mật gì đó, nhưng cả hai người chẳng ai nói ra. Tôi đành phải hỏi Hoàng Thác vì sao lại nghi ngờ Nguyệt Thần.
- Tôi không nghi ngờ Nguyệt Thần mà nghi ngờ tất cả.
- Vậy ta sẽ nói cho ngươi biết: Khi ta bước vào gian phòng đó, Nguyệt Thần viết lên lưng ta bốn chữ: Cẩn thận đèn dầu. Ngọn đèn đó chính là do ngươi đốt, lúc đốt ngươi không phát hiện ra đèn chỉ còn một chút ít dầu phải không? Ngươi cố ý bớt dầu đi quả là tính toán rất chính xác, có nghĩa là ngọn đèn chỉ thắp được cho tới khi kẻ ám sát tới, bởi khi trời đột nhiên từ sáng chuyển sang tối, mắt người sẽ chẳng nhìn thấy gì cả.
- Vậy Triều Nhai thì sao? - Hoàng Thác lại hỏi.
- Ta không biết. Ta không biết vì sao Triều Nhai lại không có trong phòng, nàng cần phải có mặt trong phòng mới đúng, vì cô ta vẫn chưa hồi phục. Thôi, mọi người hãy ai về phòng nấy, có chuyện gì ngày mai sẽ hay.
- Còn Nguyệt Thần và Triều Nhai?
- Chẳng còn cách nào khác, đành phải chờ vậy.
Đêm đó, tôi không ngủ, đầu óc luôn nghĩ tới những chuyện vừa xảy ra, ít nhiều tôi cũng đoán ra được vài điều nhưng vẫn rất mơ hồ. Tôi khẳng định mình đã bỏ qua một số sự việc rất quan trọng, nhưng không thể nghĩ được là cái gì.
Đêm có vẻ qua đi rất nhanh, cũng chẳng có chuyện gì xảy ra. Buổi sáng, khi tôi ngủ dậy ra khỏi phòng thì đã thấy bọn người của Thương Liệt đứng cả ở ngoài cửa. Điều ngạc nhiên là Nguyệt Thần và Triều Nhai cũng đứng trong số đó, Triều Nhai đang ôm đàn, nụ cười rất bình tĩnh.
Tôi bước tới hỏi:
- Triều Nhai, tối qua nàng có ngủ ngon không?
Thương Liệt cắt ngang không đợi tôi nói hết:
- Ngủ rất ngon, rất ngon, chẳng mơ mộng gì cả, ngủ một mạch tới sáng.
- Vậy thì tốt, người nàng yếu cần phải nghỉ ngơi cho tốt.
Nụ cười của Thương Liệt vẫn bình thản, nhưng trong lòng bàn tay tôi đã lấm tấm mồ hôi. Triều Nhai vì sao lại phải nói dối nhỉ?
- Nguyệt Thần, ngươi thì sao? - Thương Liệt tiếp tục hỏi.
- Tôi không ở đây, tôi ra ngoài.
- Vậy nàng đi đâu?
- Tôi phát hiện ra một việc - Nàng nhìn tôi và nói - Tối qua tôi định sang nói cho Đại vương biết.
Tôi nhận ra Nguyệt Thần không hề nói dối, chắc chắn nàng phát hiện ra điều gì đó.
- Thưa Đại vương, tối qua thần cũng có chuyện muốn nói với ngài - Hoàng Thác nhìn Nguyệt Thần sau đó quay lại nói với tôi.
Tối đó, Hoàng Thác bảo tôi, thực ra Liêu Tiễn không phải chết vì chất độc mạn tính, bởi sau đó Thác đã đào thi thể của Tiễn lên để kiểm tra, và phát hiện ở đỉnh đầu Tiễn có một cây kim rất nhỏ có chứa một chất độc mạnh bị mái tóc dài che mất.
Hoàng Thác nói: Đại vương còn nhớ khi mới vào lãnh địa Tây phương cũng chính là lúc Liêu Tiễn chết, xung quanh chúng ta có người nào đáng nghi ngờ không?
Nguyệt Thần nói cho tôi biết mấy sát thủ tuyệt đỉnh, nhưng chắc là họ không ra tay, bởi lúc đó Nguyệt Thần đang ở đó, không có kẻ nào dám ra tay.
- Thưa Đại vương, người còn nhớ khi Liêu Tiễn bị hôn mê ngã xuống, người đầu tiên lao tới là Phiến Phong, có vẻ như Phiến Phong biết trước là Tiễn sẽ ngã. Thần nhớ rõ là Phiến Phong ôm lấy đầu Liêu Tiễn.
- Hoàng Thác, ngươi nghĩ gì?