- Đến lượt Thiếu tướng đi ạ.
Vị tướng cúi xuống bàn cờ và sau một thời gian suy nghĩ, tiến một quân. Caldwel lui một quân và Sutherland cũng đi như vậy. Đột nhiên hai người ngửng đầu lên: ở một nơi xa, một tiếng còi hụ xé vỡ im lặng của ban đêm. Caldwell cười khẩy, thích thú nói:
- Đoàn xe chở những người di cư của tàu Cửa hy vọng. Quả thật bọn họ khéo đặt tên gợi hình gợi ý cho các tàu: Đất Hứa, Ngôi sao David, Cửa hy vọng. Cứ làm như đặt tên như vậy là phá được vong phong tỏa!
Nhíu mày, Sutherland thử tập trung vào ván cờ, nhưng vô ích, tiếng còi hụ cứ xuyên vào tai. Dù ông cố nhìn vào các quân ngà, mắt ông như chỉ trông thấy đoàn xe buồn thảm, bộ mặt lo âu của những đàn ông đàn bà chồng chất trên xe, những khẩu liên thanh của đoàn hộ tống. Đột nhiên, ông đứng dậy.
- Thôi, xin lỗi anh Caldwell... tôi đi ngủ.
- Thiếu tướng thấy trong người khó chịu sao?
- Tôi chỉ buồn ngủ thôi. Chúc anh ngủ ngon.
Sutherland ra khỏi phòng ngay. Trong phòng riêng, tiếng còi hụ càng làm ông không chịu nổi hơn nữa. Bực đọc, ông đóng các cửa sổ lại. Nhưng tiếng hụ ghê tởm vẫn tiếp tục rú lên trong đầu ông.
Đứng sững trước chiếc gương treo trên tường, ông tự ngắm mình thật lâu. Một hình ảnh trấn an: tướng Sutherland, xuất phát từ vùng Sutherland Thượng, một sự nghiệp tốt đẹp nữa thêm vào một chuỗi dài các sự nghiệp cũng tốt đẹp như thế, theo một truyền thống cũng bất biến như Anh quốc cũ kỹ kia.
Thế mà... những tuần lễ gần đây, ở Chypre, ông đã cảm thấy một cái gì đang chuẩn bị, sắp xảy ra, một cái gì sẽ tiêu tan sự nghiệp, làm ông thân bại danh liệt... Đưa đầu tới, ông dò xét ánh mắt mình trong gương như để tìm kiếm trong đó khi nào và từ nơi nào đã xảy ra sự xụp đổ nội tâm này.
Bruce Sutherland, một chàng trai mà mọi người thích có trong cùng một ê-kíp với mình, bản niên giám của trường Trung học Eton ghi như vậy. Lúc thiếu thời Sutherland thuộc về một gia đình quý phái được giáo dục đầy đủ với một tư cách hoàn toàn.
Còn Quân đội? Hãy suy nghĩ kỹ đi, ông già Bruce. Giòng họ Sutherland chúng ta đã phục vụ trong quân đội từ nhiều thế kỷ.
Một cuộc hôn nhân hoàn toàn tốt đẹp! Neddie Ashton, ái nữ của đại tá Ashton, trẻ mạnh, có giáo dục... một nữ giáo chủ hoàn toàn, nhiều quen thuộc hữu ích... nàng sẽ biết cách giúp chồng trên đường sự nghiệp... Cuộc hôn phối giữa giòng Ashton và giòng Sutherland thật hết sức tuyệt hảo...
Viên tướng tự hỏi nếu mọi sự hết sức tốt đẹp như thế, thì vết rạn nứt đang de dọa sự quân bình của ông đã ẩn giấu ở nơi nào? Neddie đã cho ông hai đứa con xinh đẹp, Albert vừa được vinh thăng đại úy trong trung đoàn cũ của ông, và Marthe đã lấy chồng khá giả. Thử nhìn lại vào dĩ vãng...
Sau một thời kỳ tiến thủ khó khăn và chậm chạp trong thời bình, đệ nhị thế chiến đã mang lại cho ông một dịp để trổ tài. Trước thế chiến này, ông đã được biết đến những nơi đồn trú thông thường của quân lực hoàng gia Anh, Ấn Độ, Hồng Kông, Tân Gia Ba, Trung Đông. Rồi năm 1944 với các trận đánh lớn ở Âu châu - Cơ hội kỳ vọng đã từ lâu. Đối diện với địch, ông đã tỏ ra là cấp chỉ huy có tài đặc biệt, một trong những cấp chỉ huy giỏi nhất của bộ binh Anh. Các chiến thắng lẫy lừng đã đem lại cho ông cấp bậc thiếu tướng.
Vừa mặc pyjama, ông vừa sờ nắn những lớp mỡ đã làm bụng ông to ra. Hiển nhiên là ông bắt đầu già rồi. Nhưng dẫu sao đối với một người đã 55 tuổi, trong hình dáng ông vẫn còn tráng kiện lắm. Suy nghĩ không ngừng, ông ngồi vào chiếc ghế bành. Nhiều kỷ niệm, rất nhiều kỷ niệm trở lại...
Neddie đã là một người vợ gương mẫu. Nhất là cho một sĩ quan phục vụ ở các thuộc địa. Sutherland quả thực không có gì để than phiền hết. Sự đổ vỡ xảy ra vào lúc nào đây? À, vào lúc cách đây đã nhiều năm, ở Tân Gia Ba...
Ông vừa được lên thiếu tá thì được quen biết Marina. Một cô gái Á lai Âu có nước da trắng. Marina, người trời sinh ra để yêu đương và được yêu đương... Chắc chắn là mỗi người đàn ông đều ấp ủ hình ảnh một nàng Marina trong những giấc mơ thầm kín nhất. Nhưng ông, Bruce Sutherland đã chiếm được nàng Marina bằng xương bằng thịt với những tiếng cười và nước mắt, âu yếm và đam mê của nàng. Ông điên lên vì nàng, hiểu theo đúng nghĩa nhất của danh từ, ông thèm muốn nàng một cách man rợ đến nỗi đi tới chỗ ghen tương một cách vô lý để rồi sau cùng cầu xin nàng tha thứ. Marina... với đôi mắt huyền, với mái tóc dài xanh đen... nàng quả thực biết cách hành hạ ông, đưa ông tới chín tầng mây của khoái lạc, trong những lần hẹn hò gặp gỡ bao giờ cũng quá ngắn, mỗi một giây phút thật vô cùng quý giá...
Ông nhớ lại cái ngày Neddie trình bày ra đủ chứng cớ về cuộc tình vụng trộm này. Dáng điệu ngơ ngác như bị ai đập một búa vào đầu, nhưng nàng không nhỏ lấy một giọt nước mắt: Neddie quá kiêu ngạo để không có thể khóc. Nàng nói:
- Tôi không nói là tôi thản nhiên được khi khám phá ra vụ này. Tuy thế, tôi sẵn lòng tha thứ và sẵn lòng quên. Cần phải nghĩ tới các con, tới sự nghiệp của anh và danh tiếng của hai họ. Tôi thành thực thử bắt đầu lại với anh một lần nữa, với điều kiện là anh thề với tôi là không bao giờ gặp lại cái con đó nữa và xin thuyên chuyển ngay lập tức.
Thất thần, ông đã giữ im lặng. Cái “con đó” như Neddie gọi ấy là người ông yêu, nàng đã mang lại cho ông những cái mà vợ ông không thể hay không muốn mang lại. Một hạnh phúc mà không một người bình thường nào trên trái đất này hy vọng có được.
- Anh Bruce, tôi muốn nghe ngay câu trả lời của anh.
Câu trả lời? Ông còn có thể nói gì được nữa! Một người con gái như Marina nguồn khoái cảm ngây ngất của một đêm nhiều nhất là một tháng không thể là sống đời được.
Ông có thể hy sinh sự nghiệp cho người con gái, cho cô bé lai này hay không? Và có thể bôi nhọ danh dự giòng họ SutherLand không?
- Tôi xin hứa với em, Neddie, là không bao giờ tìm gặp lại Marina nữa.
Ông giữ lời. Ông đã thu xếp để không gặp lại Marina nữa, nhưng không bao giờ quên nghĩ tới nàng. Có phải tất cả mọi bất hạnh đã phát sinh từ đó không?
Tiếng còi hụ nhỏ dần. Sutherland nghĩ trong vài phút nữa đoàn xe sẽ đến trại và sau cùng ông có thể ngủ được. Ông cảm thấy mệt mỏi, chán ngán và hơi kinh tởm. Thế mà còn năm năm nữa mới tới hạn về hưu! Nghỉ ngơi, hết trách nhiệm, thoải mái toàn diện! Căn nhà của giòng họ ở Sutherdand Thượng chắc chắn sẽ là quá lớn cho ông. Ông sẽ mua một nhà lợp tranh ở một nơi nào vùng quê, sẽ có hai con chó săn tốt, sẽ yêu cầu các nhà trồng tỉa hoa lớn gởi bản liệt kê các loại hoa tới, và sẽ sưu tập một tủ sách đẹp. Dĩ nhiên là ông cũng kiếm một câu lạc bộ [1] khá ở Luân Đôn để gia nhập... Có lẽ ông kiếm một người tình nữa.
Thật kỳ lạ thay cái ý muốn lui về ẩn dật cô đơn như thế sau một cuộc hôn phối dài gần ba mươi năm với Neddie. Nàng quả thực đã là một người vợ trầm tĩnh, cao quý và đã tỏ ra dễ mến - Ông không tìm ra chữ nào khác để diễn tả - Khi xảy ra vụ Marina thế mà đột nhiên Neddie phá vỡ tan tành tất cả những gì đang là cuộc sống của nàng để cố gắng một cách tuyệt vọng cứu vãn những năm cuối cùng của đời mình, bằng cách bỏ trốn đến Paris cùng với một nhạc công Tzigane [2] kém nàng tới mười tuổi. Tất cả mọi người đều thương cho ông chồng bị vợ làm ô nhục, nhưng riêng ông thực ra không bị xúc động cho lắm. Từ lâu lắm rồi, hôn nhân giữa hai người chỉ còn là một thứ bề ngoài. Lúc nào Neddie cũng còn tin rằng nàng có thể tìm được hạnh phúc nơi khác... Dầu sao, giòng Sutherland và giòng Ashton đều là những người có gia giáo lễ nghĩa. Có thể sau này, ông nhận cho Neddie trở về... cũng có thể tốt hơn là có một người tình.
Tiếng còi sau cùng đã im tiếng, Bruce Sutherland mở cửa sổ và hít một hơi dài không khí mát mẻ, trở vào phòng tắm rửa mặt và đặt hàm răng giả vào một ly đầy nước khử trùng. Từ ba mươi năm nay mỗi khi làm thói quen này, ông đều hối tiếc là đã tham dự trận đấu rugby [3] đã làm ông gãy mất bốn cái răng. Sau đó ông lấy trong tủ thuốc một hộp đựng thuốc ngủ và pha một liều thuốc gấp đôi thường lệ. Trong những tuần lễ gần đây, ông thực vất vả mới ngủ nổi.
Vừa uống xong ly thuốc ngủ, ông đã thấy tim đập mạnh. Ông thốt ra một tiếng cầu nhầu: Không còn ngờ gì nữa, đêm nay thêm một lần nữa, sẽ là một đêm ghê gớm. Tắt đèn, ông chạy vào ẩn trốn trong giường. Có thể giấc ngủ sẽ đến khá nhanh để tránh cho ông những hình ảnh đang bắt đầu quay cuồng trong tâm trí.
... Bergen Belsen - Bergen Belsen - BERGEN BELSEN - NUREMBERG.
- Yêu cầu nhân chứng tiến ra. Xin cho biết tên họ.
- Bruce Sutherland, thiếu tướng chỉ huy...
- Xin thiếu tướng hãy trình bày theo như nhận định riêng đã có...
- Binh sĩ tôi đã tiến vào trại Bergen Belsen ngày 15 tháng 4 lúc 17g20. Trại số I bề ngang bốn trăm thước bề dài hai ngàn hai trăm thước, chứa chừng tám mươi ngàn người, đa số là người Do Thái, Hung và Ba Lan. Về tiếp tế, trại số I tiếp nhận mười ngàn thỏi bánh một tuần.
- Thiếu tướng, có nhận ra những dụng cụ này không?
- Được chứ. Những S.S. [4] dùng chúng trong những buổi tra tấn. Những kìm cong dùng để bóp nát ngọc hành, còn những kìm này dùng để cắt đứt các móng tay.
- Xin nhân chứng tiếp tục.
- Chúng tôi kiểm kê, riêng trong trại số I, thấy khoảng chừng ba mươi ngàn xác chết mà trong một nửa số đó xếp chồng chất lung tung. Mặc dù mọi nỗ lực tuyệt vọng của chúng tôi, mười ba ngàn người trong những số người còn sống sót đã chết trong những ngày sau đó, người này chết vì kiệt lực, người kia chết vì bệnh tật. Các điều kiện sinh hoạt thảm họa đến nỗi lúc quân tôi tiến đến nơi, những người còn sống đang ăn thịt ở những xác chết.
Chưa tới một giờ sau khi làm nhân chứng trước Tòa án Quốc tế Nuremberg, Sutherland nhận được một công điện gọi về Luân Đôn trình diện khẩn cấp. Công điện mang chữ ký của một bạn già, một tay bự trong Bộ Quốc phòng là tướng Sir Clarence Tevor Browne. [5] Sutherland cảm thấy ngay là mọi người sẽ đề nghị giao phó cho ông một nhiệm vụ đặc biệt.
Sáng ngày hôm sau, ông bay về Luân Đôn và trình diện ngay trong tòa nhà vĩ đại và xấu xí là Bộ Quốc phòng nằm ở góc Whitehall và Great Scotland Yard, Tevor Browne đang chờ đợi ông.
- Bruce, ông bạn cố tri Bruce, thật hài lòng được gặp lại anh! Mời anh ngồi, lựa cái ghế tốt nhất ấy. Tôi vừa đọc lời anh đã khai trước tòa án Nuremberg. Một chuyện thực kinh khủng, hết sức kinh khủng.
Sutherland nói nho nhỏ:
- Tôi thật mừng khi được rời vành móng ngựa. Mong rằng tôi sẽ không bao giờ nghe thấy chuyện đó nữa.
- Tôi rất buồn khi được biết là anh cùng Neddie... Nếu anh thấy tôi có thể làm được gì...
Sutherland lắc đầu.
Sau khi bàn loanh quanh ít ra là mười phút Tevor Browne quyết định vào đề:
- Anh Bruce, chắc anh đang sốt ruột muốn biết lý do của sự triệu hồi anh về đây khẩn cấp. Đây là một vụ khá đặc biệt: một chức vụ tế nhị, chắc chắn là không nhàn nhã gì. Mọi người yêu cầu chúng tôi đề nghị một người. Dĩ nhiên là tôi đã nghĩ đến anh, nhưng cũng phải nói với anh trước đã.
- Tôi đang nghe đây, Sir Clarence.
- Đầu đuôi như sau: kể từ khi chiến tranh chấm dứt, những người Do Thái muốn từ bỏ Âu châu đã đặt ra một vấn đề nhức đầu. Có thể nói là họ tràn ngập vào Palestine, và những người Ả Rập - do Anh quốc bảo hộ - trước sự xâm lăng lãnh thổ này, đã tỏ ra nóng nảy lo ngại. Vì thế chúng tôi đã quyết định thành lập ở đảo Chypre những trại lưu giữ những người Do Thái tìm cách nhập nội Palestine - ít ra cũng là tạm thời - cho tới khi chính phủ chúng ta có được quyết định về vấn đề Palestine.
Sutherland có vẻ suy tư, trả lời:
- Tôi hiểu.
- Không cần nói anh cũng hiểu vụ này hết sức là gai góc, và cần phải có rất nhiều khéo léo. Trước hết bởi vì ta không thể nào đàn áp thêm nữa những kẻ khổ sở đã từng bị giày xéo, hành hạ, tước đoạt hết tất cả mọi thứ, sau đó bởi vì những kẻ này có thể trông cậy ở những cảm tình vĩ đại, nhất là ở Pháp và Hoa Kỳ. Như vậy điều chính yếu là ở Chypre mọi sự phải diễn ra trong yên tĩnh, không lủng củng. Không được xảy ra một biến cố có thể gây ra một dư luận chống lại chúng ta.
Sutherland đứng dậy, ra đứng trước cửa sổ, ngắm giòng sông Thames và cầu Waterloo với những xe bus hai từng chạy dài trên cầu. Ông quay lại và nói:
- Theo ý tôi, đây là một ý kiến quái gở và thảm hại.
- Anh Bruce, việc phán xử không thuộc quyền chúng ta. Anh cũng như tôi. Chính Whitehall [6] ra lệnh chúng ta chỉ là kẻ thừa hành mà thôi.
Sutherland vẫn nhìn qua cửa sổ, nói nhỏ:
- Những người dân ấy, tôi đã trông thấy họ ở Bergen Belsen. Chắc là vẫn chính những người ấy ngày nay thử tìm cách nhập nội Palestine.
Đi từng bước nặng nề, ông trở lại ghế ngồi, nói tiếp:
- Khi tôi nghĩ tới tất cả những lời hứa hẹn của chúng ta với những người chủ trương thành lập quốc gia Do Thái, những lời hứa mà chúng ta không giữ được lấy một lần.
Tevor Browne thở dài:
- Tôi cũng biết thế. Trong vấn đề này, tôi cũng nghĩ như anh, nhưng đáng tiếc thay chúng ta chỉ là thiểu số. Anh và tôi đều phục vụ tại Trung Á nên điều hiểu rõ vấn đề. Đây này, ngay trong lúc còn chiến tranh, chính tôi đã tiếp nhận ngay trong phòng giấy này, những báo cáo về các vụ bội phản liên tiếp của các ông bạn quý Ả Rập của chúng ta. Và không phải ít đâu: Ông tham mưu trưởng của quân lực Ai Cập đã bán những tài liệu cho tụi Đức, thủ đô tại Le Caire của họ chuẩn bị cờ xí đón tiếp Rommel, như kẻ giải phóng họ. lrak bước sang hàng ngũ Đức, Syrie cũng thế; còn ông mufti [7] thành Jérusalem lại là cán bộ của quốc xã. Ấy là tôi còn quên bớt đấy! Nhưng ta cũng phải xét tới quan điểm của Whitehall. Chúng ta không thể nào để mất uy tín cùng toàn thể những vị trí của chúng ta trong miền Trung Á chỉ vì vài ngàn người Do Thái.
- Đó chính là lỗi lầm bi thảm nhất trong những lầm lỗi của chúng ta, Sir Clarence. Những vị trí của chúng ta ở Trung Đông, dẫu cách nào rồi thì chúng ta cũng mất.
- Anh có vẻ bối rối, anh Bruce.
- Kinh tởm thì đúng hơn. Còn những điều Thiện và điều Ác đã trở thành cái gì trong vụ này?
Tevor Browne nở một nụ cười chán chường:
- Anh Bruce, tôi có lẽ đã chẳng học được điều gì nhiều ở đời, nhưng tôi đã nhận thức được điều sau: Không một chính sách đối ngoại nào dù của Anh quốc hay của bất cứ quốc gia nào khác, lại có thể xây dựng trên Thiện và Ác, Tốt và Xấu. Chỉ có triều đại trị vì của Thượng đế họa chăng mới tùy thuộc vào Thiện Ác phân minh thôi. Chúng ta không được phép hưởng sự phân minh xa xỉ ấy. Ở trần thế này, chính sách là tùy thuộc vào dầu hỏa. Mà dân Ả Rập có dầu hỏa.
- Chắn chắc là thế rồi. Nhưng tất cả những dầu hỏa của họ cũng không thể nào làm tôi quên được những chợ bán buôn nô lệ của Arabie Séoudite, cũng như ngày tôi được một emir [8] mời đến dự khán một buổi mà hắn ta gọi là phiên tòa: một người bị chặt cụt hai tay vì tội ăn cắp. Cũng như tôi không thể nào quên được những người Do Thái của Bergen Belsen.
- Anh muốn gì, anh Bruce: không dễ gì làm người lính một khi người ta có lương tâm. Xin anh ghi nhận cho là tôi không hề cưỡng buộc anh nhận chức vụ này ở Chypre..
- Tôi nhận lời. Nhưng Sir Clarence, xin cho biết tại sao lại chọn tôi?
- Vì hầu hết những tướng “có thể được”, đều thân Ả Rập cả, và họ có thái độ đó chỉ vì truyền thống trong quân lực chúng ta. Vả lại anh cũng biết là một người lính chẳng còn có thể làm gì khác hơn là tuân theo chính sách của chính phủ mình. Nhưng với bất cứ giá nào tôi cũng không muốn gởi tới Chypre một kẻ, có thành kiến với những kẻ bị giam giữ. Ngược lại là khác, chúng tôi cần một người biết thông cảm, biết thương xót.
Sutherland đứng dậy:
- Như vậy tôi chỉ còn việc cảm ơn nữa là xong. Nhưng thật ra thì đôi khi đã có lúc tôi tin rằng làm một người Anh cũng là một đại họa như làm người Do Thái vậy.
Khi trở về nhà, ông lo lắng tự hỏi phải chăng Sir Tevor Browne còn một lý do khác nữa trong khi đề nghị ông chức vụ đó. Liệu Sir Tevor Browne có biết rằng thiếu tướng Bruce Sutherland có một nửa giòng máu Do Thái trong mình chăng.
Giòng máu Do Thái ấy là do từ bà mẹ.
Deborah Davis là một người đàn bà đặc biệt, về sắc đẹp cũng như về tinh thần. Không có gì là lạ khi Harold Sutherland mê say nàng đến điên cuồng. Gia đình khoan dung mỉm cười khi biết Harold đã đi coi mười lăm lần liền vở kịch mà người nữ kịch sĩ trẻ này thủ vai chính, và gia đình cũng thấy ngồ ngộ khi chàng tiêu hết cả lợi tức trong tháng để gởi tặng quà và hoa cho nàng. Một đam mê của tuổi trẻ, mọi người nghĩ vậy, chỉ kéo dài như kiếp hoa hồng.
Nhưng sự đam mê của chàng mỗi ngày một tăng thì gia đình hết mỉm cười. Một bức thư vừa lịch thiệp vừa khô khan triệu gọi thiếu nữ tới Sutherland. Trước lời khước từ của nàng, Sir Edgar, ông cụ thân sinh ra Harold, quyết định làm một chuyến du hành tới Luân Đôn để khảo sát gần hơn cái cô gái con nhà bách tính dám thách thức giới quý tộc này. Về phần Sir Edgar, đây là một điều lầm lẫn, hay ít ra cũng là một sự thiếu thận trọng. Deborah, thông minh và ngây thơ vô tội, đã chinh phục được ông trong một bữa ăn. Đến lúc tráng miệng, Sir Edgar tuyên bố rằng con ông thật là người gặp hên hết sức. Vả lại nói cho cùng, khuynh hướng ưa thích các nữ kịch sĩ xinh đẹp của các con trai giòng Sutherland cũng đã là một truyền thống rồi. Vả lại rất nhiều người con gái xinh đẹp loại này, một khi đã được chấp nhận vào trong gia đình, đã trở thành những phu nhân khuê các. Ở đây có một cái kẹt: Deborah Davis đã có bất lợi là người Do Thái. Nhưng vấn đề cũng được giải quyết khi nàng chấp nhận cải đạo theo Anh giáo.
Harold và Deborah có ba người con: Bruce, Adam và Mary. Bruce rất kính yêu mẹ. Tuy thế, mặc dù hoàn toàn thân nhau, bà không bao giờ nói với con về thời thơ ấu của bà. Bruce chỉ biết rằng ông bà ngoại đã sống trong cảnh cùng túng, và bà đã trốn nhà đi theo đoàn hát.
Năm tháng trôi qua một cách êm ả, đánh dấu bằng những biến cố dự liệu được trước: những lon sĩ quan đầu tiên của Bruce, hôn nhân của chàng với Neddie Ashton, các đứa con ra đời, cái chết của Harold Sutherland, những sợi tóc bạc của Deborah...
Tất cả có vẻ hoàn toàn là bình thường, hòa hợp cho tới ngày Bruce trở về Sutherland, thấy mẹ ngồi một mình, bất động như một bức tượng trong khuê phòng cửa kéo màn kín mít. Hoảng sợ, ông quỳ xuống và hôn mẹ hỏi:
- Mẹ buồn sao, mẹ?
Ông phải ghé sát tai vào đôi môi run rẩy của bà mới nghe rõ được những lời sau:
- Hôm nay là Jom Kippour, ngày Đại Xá...
Bruce kinh hoảng. Ngay ngày hôm đó, chàng bàn với em gái về việc này. Hai anh em quyết định không để mẹ sống trong trang trại rộng lớn này nữa. Bà sẽ đến Luân Đôn, nơi Mary có thể lo lắng cho bà. Lần đầu tiên trong đời, Bruce ý thức được mẹ đã già đi đến mức nào. Mặc dù đối với chàng, bà vẫn đẹp như hồi còn nhỏ.
Một vài tháng sau, Bruce thuyên chuyển sang Trung Đông. Những bức thư từ Luân Đôn cho biết mọi sự bình an: Mary cho biết bà mẹ mạnh khỏe và chính Deborah cũng tỏ ra hài lòng được sống ở thủ đô, gần con gái và các cháu.
Nhưng sau vài năm, Bruce trở lại Anh quốc chàng thấy một tình hình khác hẳn. Em gái chàng không che giấu nỗi lo âu. Nàng cắt nghĩa rằng mẹ, bây giờ đã bảy mươi tuổi, xử sự càng ngày càng bất nhất. Bà thường hay quên cả những việc mới xảy ra hôm qua, nhưng ngược lại bà thường lẩm bẩm những câu nói về những biến cố đã xảy ra trước đây tới năm mươi năm. Mary vừa khóc nức nở vừa nói thêm:
- Không phải chỉ có thế đâu anh Bruce. Đôi khi mẹ biến đâu mất... Mẹ đi ra ngoài, một mình... Mẹ không chịu nói cho ai biết là mẹ đi đâu...
Bruce quyết định tìm hiểu rõ sự thực. Ngay ngày hôm sau chàng nấp gần phòng mẹ. Chờ đợi không lâu và theo dõi dễ dàng, Doborah Sutherland đến một giáo đường Do Thái giáo ở một nơi nào đó trong khu nghèo khổ vùng Whitechapel.
Bruce sững sờ và mơ hồ cảm động. Chàng suy nghĩ rất lâu và sau cùng quyết định án binh bất động. Mẹ chàng đã cao tuổi lắm rồi: chàng tự nhận mình không quyền nhắc nhở bà là bà đã cải đạo từ năm mươi năm trước đây.
Doborah Sutherland chết vào năm bảy mươi bảy tuổi. Được gọi về khẩn cấp, Bruce về kịp nghe những lời trối trăng chót của bà.
Khi thấy chàng bước vào buồng, bà nở một nụ cười sung sướng:
- Bruce con... Con tôi đã là trung tá rồi... Trông con thật đẹp. Còn mẹ, mẹ sắp về rồi...
- Đừng nói thế, mẹ! Mẹ chỉ khó chịu, mệt nhọc xoàng thôi. Trong vài ngày nữa mẹ sẽ khỏi.
- Không đâu con. Con cũng biết sự thật không phải thế. Bây giờ con nghe đây: mẹ phải thú thật với con một điều. Hồi xưa, vào thời kỳ biết ba con, mẹ đã làm tất cả mọi sự để lấy bằng được ba con. Mẹ hết sức... hết sức muốn trở thành nữ chủ lâu đài Sutherland Thượng. Vào lúc ấy, mẹ đã làm một điều ghê gớm. Bruce: mẹ đã từ bỏ đạo cùng đồng bào của mẹ. Mẹ đã từ bỏ như thế suốt đời. Bây giờ mẹ muốn gặp lại tất cả. Bruce, con hãy hứa với mẹ là sẽ an táng mẹ gần ông bà ngoại... con hứa đi, mẹ xin con.
- Thưa mẹ con xin hứa.
Ba thì thào bằng một giọng yếu dần:
- Ông ngoại... con chưa bao giờ được biết... và ông của mẹ đã bồng mẹ trên lòng...
Đó là những lời nói sau cùng của bà.
Bối rối, mất tinh thần, Bruce không sao rời khỏi phòng người chết. Sau khoảng chừng một tiếng, một nghi ngờ mới đầu không rõ rệt rồi dần dần trở thành ám ảnh, đã trộn lẫn vào trong nỗi buồn của chàng. Quả thực chàng có định giữ lời hứa ấy với người hấp hối không? Một lời hứa có thể nói hầu như cưỡng bách? Coi lời hứa này như không có giá trị gì, chàng có phạm lỗi không trọng danh dự, chàng nguyện sẽ giữ cẩn thận suốt đời không? Một mặt khác, chàng có cần phải xét đến sự kiện trong những năm gần đây, những khả năng tinh thần của ba mẹ đã suy giảm rõ rệt không? Xét cho cùng, kể từ khi lấy chồng - nghĩa là trong phần lớn cuộc đời bà - bà đã thôi là người Do Thái, tại sao bà lại trở lại gốc vào khi chết? Deborah đã thuộc giòng Sutherland, không là gì khác.
Chàng sợ hãi tưởng tượng đến thảm họa, sự tức giận và đàm tiếu của một người do đám tang Deborah Sutherland cử hành trong một nghĩa trang Do Thái ở một khu tồi tàn sẽ gây ra. Dầu sao, bà cũng đã chết rồi. Bây giờ phải nghĩ đến những người con sống - Đến Neddie cùng các con, Mary cùng gia đình nàng - Những kẻ sẽ bị tổn thương đến tình tự, tin tưởng sâu xa nhất.
Khi cúi xuống đặt một chiếc hôn sau cùng lên trán mẹ, chàng đã quyết định rồi.
Deborah Sutherland sẽ yên nghỉ ở Sutherland Thượng.
Những tiếng còi! Những tiếng còi của đoàn xe chở đoàn dân di cư! Chúng như xoáy vào tai ông từng cơn giận dữ! BERGEN - BELSEN.. MARINA... NEDDIE... NHữNG XE CAM NHÔNG HỘ TỐNG BẰNG ĐẠI LIÊN... TRẠI CARALLAOS... CON XIN HỨA VỚI MẸ... CON XIN HỨA VỚI MẸ...
Một tiếng sấm vang động đến tận nền móng căn nhà, cơn giông bão từ biển cất lên. Một đợt nước lớn man rợ đổ vào bờ đá, gửi các ngọn sóng tham lam liếm các chân tường. Sutherland hất tung chăn. Bị chệnh choạng như người say, ông tiến về cửa sổ. Một làn chớp đột ngột bùng ra làm ông đứng sững lại kinh sợ. Tiếng sấm rền vang, sóng biển dâng lên... dâng lên mãi...
Ông thốt ra một tiếng kêu:
- Lạy Chúa! Xin Chúa hay cứu rỗi cho con!
Một giọng quen thuộc vang lên trả lời:
- Thiếu tướng Sutherland! Thưa Thiếu tướng! Xin ngài hãy tỉnh lại!
Người hầu Hy Lạp đã nắm lấy cánh tay ông, lay mạnh.
Sutherland mở mắt, Người ông ướt đẫm mồ hôi, tim đập thình thình. Người hầu chạy ra, mang rượu mạnh vô.
Sutherland cầm ly uống thẳng một hơi cạn, lo lắng nhìn ra ngoài. Dưới một bầu trời thanh thản, mặt biển phẳng lặng như mặt hồ, va chạm khe khẽ vào bãi. Ông nói nhỏ:
- Tôi đi nằm lại... Tôi cảm thay khỏe rồi.
- Thiếu tướng thấy khỏe thật chứ ạ?
- Chắc. Thôi, cảm ơn chú.
- Xin chúc thiếu tướng an giấc.
- Cám ơn chú.
Chú thích:
[1] Câu lạc bộ (Club): các hội tư nhân của người Anh. Mỗi hội đều có hội quán riêng làm chỗ hội họp giải trí cho hội viên. Các người Anh giai cấp trung lưu trở lên thường, tùy gia sản, nghề nghiệp, địa vị, sở thích cá nhân, gia nhập một câu lạc bộ hay hơn. Đúng theo nghĩa Việt Nam, Câu lạc bộ là những quán ăn tổ chức trong phạm vi các doanh trại hay nha sở.
[2] Tzigane: một sắc dân thiểu số ở Âu châu, thường sống bất định, đàn ông thường giỏi nhạc, đàn bà giỏi vũ và nổi tiếng đa tình.
[3] Rugby: chơi bóng bầu dục, được phép dùng cả tay lẫn chân để chuyền bóng, lối chơi rất dữ dội.
[4] S.S: sau khi nắm chính quyền ở Đức, Hitler lấy các đảng viên trung kiên thành lập đoàn S.S. mặc quân phục đen. Mới đầu S.S. chỉ lo về nội vụ, sau mở rộng ra cả quân lực Đức. Vào cuối đệ nhị thế chiến, đã có các sư đoàn thiết giáp S.S. Quân S.S. nổi tiếng tàn ác và tất cả tội ác của Đức trong chiến tranh đều do họ làm. Các đơn vị này trực thuộc đảng Quốc Xã - đừng lẫn với quân lực chính quy Đức mặc quân phục xanh trực thuộc Bộ Tổng tự lệnh và chỉ có một số nhỏ sĩ quan S.S. lo về An ninh Quân đội và chiến tranh chính trị.
[5] Sir: chữ đặt trước tên họ của những người trong hoàng gia Anh hoặc những người thường dân được Vua phong tước vị đã lập công trạng trong bất cứ địa hạt nào, kể cả leo núi lẫn kịch nghệ. Dùng riêng rẽ, chữ này dùng để bày tỏ kính trọng đối với cấp trên (nhất là trong quân lực)
[6] Whitehall: tên gọi Phủ Thủ tướng Anh.
[7] Mufti: giáo sĩ pháp quan Hồi giáo (dịch theo từ điển Thanh Nghị). Một giáo quyền tương đương với Tổng Giám mục của Giáo hội Ki-tô.
[8] Émir: một chức vụ đại khái như tỉnh trưởng, đô trưởng nhưng thêm cả quyền hành về tôn giáo trong các quốc gia theo Hồi giáo còn có thể gọi là tiểu vương.