Tuyệt Kiếm Đoạn Trường Nhai

Hồi 3

 Hai người đứng trước cảnh đẹp ấy, trong lòng không hề cảm thấy một chút vui thích, mà còn kinh hãi tột cùng. Bởi họ biết bốn con tuấn mã này nhất định quen đường thuộc lối, đây hẳn là nơi cư trú của Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ.

Hai người thừ ra một hồi, vừa định xuống xe rồi hẵng liệu, bỗng thấy một bóng người từ ngang bên hông phóng tới và nói:

- Tiểu thư đã về rồi ư? Lệnh tôn vừa mới hỏi đến tiểu thư đấy!

Chớp mắt đã đến trước đầu xe, ngẩng đầu lên nhìn, ba người thảy đều sửng sờ, Đào Lâm nhận ra đối phương chính là lão nhân hôm trước.

Lão nhân ngạc nhiên nói:

- Thì ra là các người, đến đây nạp mạng ư?

Nghe giọng điệu đối phương có vẻ quan tâm đến mình, Đào Lâm vội nói:

- Xin lão trượng hãy cứu giúp chúng tôi!

Lão nhân đưa mắt nhìn ra sau, đoạn lắc đầu nói:

- Lão phu không cứu giúp được đâu.

Vừa nói vừa đi sang bên và hất hàm lia lịa về phía cửa cốc, Đào Lâm biết ông có ý bảo mình từ cửa cốc đào tẩu, vội đỡ lấy Lý Thuần Như phóng xuống xe, thấp giọng nói:

- Ơn cứu mạng của lão trượng, tiểu nữ xin ghi lòng tạc dạ, chẳng hay lão trượng xưng hô thế nào?

Lão nhân không đáp, chỉ lẳng lặng bỏ đi. Đào Lâm biết ông sợ kinh động đến lão ma đầu Dị Cư Hồ, vội lui về phía cửa cốc.

Ra đến cửa cốc nàng mới dám quay người, nhưng chưa kịp bỏ chạy, bỗng nghe tiếng một người ở trong cốc nói vọng ra:

- Ai đã đến Ngân Hoa Cốc của lão phu vậy?

Hai người giật mình, Đào Lâm ngoảnh lại nhìn, bên cạnh xe đã có thêm một người. Vừa rồi lúc hai người lui ra đã quay mặt vào sơn cốc, người ấy chưa xuất hiện, vậy mà vừa mới quay người, đối phương đã đứng bên cạnh xe, thật không sao tưởng tượng được.

Chỉ nghe lão nhân kia nói:

- Tiểu nhân cũng không rõ là ai, chỉ biết họ đã đánh xe của tiểu thư đến đây, vừa đến đã bỏ đi, có lẽ là bạn của tiểu thư, tiểu nhân cũng không dám hỏi nhiều.

Người nọ “ồ” lên một tiếng, ngẩng đầu lên, Đào Lâm và Lý Thuần Như chỉ thấy đối phương tuổi chừng trên dưới năm mươi, ăn vận lối thư sinh, áo dài xanh phất phơ, thần thái cao nhã, dưới cằm râu dài lưa thưa, mắt sao mày kiếm, mặt trắng như ngọc, tuy đã trung niên, mà vẫn anh tuấn phi phàm, chắp hai tay sau lưng đưa mắt nhìn hai người.

Lý Thuần Như kinh hãi, biết người này nhất định là đại ma đầu Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ, Đào Lâm cũng hốt hoảng kéo tay Lý Thuần Như nói:

- Chạy mau kẻo muộn.

Lý Thuần Như vội quay người, nhưng chỉ cất được một bước, đã nghe Dị Cư Hồ nói:

- Nhị vị hãy khoan!

Tiếng nói rất bình hòa, chẳng chút vẻ miễn cưỡng, nhưng đó là tiếng nói của Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ, ai dám chống lại?

Hai người quay lại, lại giật mình sửng sốt, thì ra Dị Cư Hồ đã đứng trước mặt, vừa rồi khoảng cách giữa đôi bên ít ra cũng trên năm trượng, thật không sao tưởng tượng nổi lão đã đến bằng cách nào.

Đào Lâm sợ Lý Thuần Như buông lời xúc phạm lão, vội khom mình nói:

- Chẳng hay tiền bối có điều chi chỉ giáo?

Dị Cư Hồ ngắm nhìn Lý Thuần Như một hồi, bổng hỏi:

- Ngươi tên họ là gì?

Lý Thuần Như nghe giọng điệu đối phương không có ác ý, bèn thi lễ nói:

- Hậu bối là Lý Thuần Như, gia phụ Bát Quái Kiếm!

Dị Cư Hồ thoáng cau mày, lại đưa mắt nhìn Lý Thuần Như, với giọng lạnh lùng hỏi:

- Bát Quái Kiếm Lý Viễn có phải là cha ruột của ngươi hay không?

Lý Thuần Như bực tức lẫn buồn cười nói:

- Dĩ nhiên là cha ruột của vãn bối rồi.

Dị Cư Hồ cười hăng hắc:

- E rằng chưa chắc!

Bỗng nhiên lão vươn tay ra, chẳng thấy người di chuyển, lẽ ra không thể nào chạm được tới Lý Thuần Như, nhưng cánh tay lão bỗng chốc dài ra nửa thước, “soạt” một tiếng, ngón giữa đã rạch toác cả ba lớp áo của Lý Thuần Như từ ngoài đến trong.

Lý Thuần Như cả kinh lùi lại sau một bước.

Đào Lâm thấy vậy vội lách người đứng cản giữa Dị Cư Hồ và Lý Thuần Như nói:

- Tiền bối, chúng vãn bối tuy lỡ vào trong cốc, nhưng...

Dị Cư Hồ nhẹ phất tay, Đào Lâm chỉ cảm thấy một sức mạnh vô hình ập tới, không tự chủ được, bật lùi sang bên mấy bước.

Dị Cư Hồ đã chộp lấy cổ tay trái của Lý Thuần Như, mắt chầm chập nhìn vào bắp tay trái của chàng.

Đào Lâm hết sức lấy làm lạ, chẳng hiểu lão ma đầu này định làm gì, nhưng biết rõ là không sao chống cự nổi, đành đứng yên lo lắng mà thôi.

Dị Cư Hồ nhìn một hồi, buông tay ra nói:

- Hai vợ chồng Lý Viễn hiện ở đâu?

Lý Thuần Như cũng thở phào, nhưng liền nghĩ đến, lão hỏi về chỗ hiện diện của song thân, e là có dụng ý chẳng lành, bèn nói:

- Từ khi gia phụ và gia mẫu thất tán tại Tứ Xuyên, vãn bối không còn biết gì về hành tung của hai người nữa.

Dị Cư Hồ buông tiếng “hừ” rồi quay người đi, Đào Lâm thấy lão đã bỏ qua, lòng mừng khôn xiết, vừa định bỏ đi, bỗng nghe tiếng thiếu nữ áo trắng từ ngoài cửa cốc vọng vào:

- Hứ, hai người đã đánh cắp xe của bổn cô nương đào tẩu, ai ngờ lại dẫn thân đến đây.

Đào Lâm lặng người, chẳng hiểu sao số mạng mình lại đen đủi đến thế, nàng bèn tức tối nói:

- Dị cô nương, hai chúng ta không hề quen biết, vậy mà cô nương lại bao phen bức bách tôi thế này là sao?

Thiếu nữ áo trắng đã từ ngoài cốc bước vào, nhoẽn miệng cười nói:

- Đào cô nương, tôi bức bách cô nương bao giờ, cô nương đừng vu khống người ta.

Đào Lâm cười khảy:

- Nếu không phải bức bách thì xin hãy để cho chúng tôi rời khỏi đây, chúng tôi vô vàn cảm kích.

- Hai người thọ trọng thương dưới tay Tát Thị Tam Ma tại ranh giới Hồ Bắc Tứ Xuyên, nếu không nhờ bổn cô nương đưa đến Tây Vực, may gặp Linh Xà tiên sinh, e hai người đã chết từ lâu, chả lẽ cô nương lại vong ân phụ nghĩa đến vậy sao?

Đào Lâm đuối lý, nhất thời chẳng thốt nên lời.

Dị Cư Hồ bỗng cất tiếng hỏi:

- Ngọc Phụng, ngươi rời khỏi cốc đã mấy tháng trời, công việc đã làm tròn chưa?

Thiếu nữ áo trắng chính là Dị Ngọc Phụng, con gái của Dị Cư Hồ, đáp:

- Đã sắp thành công rồi, chính ở trên mình Đào cô nương này đây!

Đào Lâm nghe vậy càng thêm thắc mắc, chẳng rõ công việc mà Dị Cư Hồ đã nói là gì, vì sao lại dính dáng đến mình xa tận hàng vạn dặm thế này?

Dị Cư Hồ “à” lên một tiếng nói:

- Đào cô nương, vật đó cô nương có trong tay cũng vô dụng, hãy mau trao ra đi thôi!

Đào Lâm ngơ ngác:

- Tiền bối và Đào cô nương nói gì, vãn bối thật tình chẳng hiểu gì cả.

Dị Ngọc Phụng cười khanh khách:

- Đào cô nương đừng vờ vĩnh nữa, lúc trước tưởng cô nương là Lý cô nương nên khi hỏi xong hành tung của Tát Thị Tam Ma đã trả tự do cho cô nương, giờ biết cô nương họ Đào, tôi hỏi cô nương điều này, vì lẽ gì Bát Tiên Kiếm Đào Tử Vân và Tam Thủ Quan Âm Trần Trân đã phải lặn lội xa xôi từ Giang Nam đến Tứ Xuyên?

Đào Lâm ngạc nhiên:

- Gia phụ và gia mẫu trong những năm qua tuy định cư ở Giang Nam nhưng hai người vốn thích đi lại trên chốn giang hồ, đến Tứ Xuyên một chuyến cũng đâu có gì là lạ?

Đào Lâm nói đó là thật lòng, việc song thân nàng bỗng nhiên bỏ nhà từ Giang Nam đến Tứ Xuyên, và trước khi đi đã có vẻ hết sức bí mật, thật ra vì nguyên do gì, Đào Lâm quả không hề hay biết.

Dị Ngọc Phụng lại buông tiếng cười khẩy, quay sang Dị Cư Hồ nói:

- Cha, Phụng nhi đã dò la được hết sức rõ ràng, vật đó Đào Tử Vân đã lấy được, chỉ cần tra khảo ả nha đầu này, chẳng sợ ả ta không khai ra.

Dị Cư Hồ nhướng mày:

- Vậy thì vật đó chưa chắc ở trong mình nàng ta. Hành tung của Đào Tử Vân, ngươi đã điều tra rõ chưa?

- Hai vợ chồng Đào Tử Vân từng ở nhà Đông Xuyên đại hiệp Diêm Phùng Hiểu một lúc, nhưng con trai họ đã hạ sát con trai của Lý Viễn, hai nhà đã trở thành thù địch.

Hai vợi chồng Lý Viễn chẳng hiểu sao lại bị người điểm huyệt ở trên thuyền, còn Đào Tử Vân và Đào Hành Khản thì chẳng rõ tông tích đâu cả.

Tuy Dị Ngọc Phụng đã kể lại đơn giản như vậy, song Dị Cư Hồ trí thức uyên bác, hiểu rõ ngay tự sự, lão lại hỏi:

- Còn hai vợ chồng Lý Viễn thì sao? Đã đi đâu?

Dị Ngọc Phụng thấy phụ thân không hỏi tung tích của Đào Tử Vân mà lại hỏi về hai vợ chồng Lý Viễn, không khỏi lấy làm lạ nói:

- Cha hỏi về hai người ấy làm gì? Lý Viễn với Đào Tử Vân tuy gặp nhau và trở thành thù địch tại Tứ Xuyên, nhưng có lẽ không biết vật ấy đâu.

Dị Cư Hồ sầm mặt:

- Ngươi đừng thắc mắc, chỉ cần cho ta biết hành tung của họ là được rồi.

Lý Thuần Như thấy Dị Cư Hồ quan tâm đến hành tung của song thân mình như vậy, biết là không có ý tốt, lòng hết sức lo lắng, chỉ mong là Dị Ngọc Phụng không biết.

Song Dị Ngọc Phụng đã nói:

- Nghe đâu lúc hai vợ chồng Lý Viễn bị người điểm huyệt trên sông Trường Giang, Diêm Phùng Hiểu và nhà họ Thương cũng có một người hiện diện, nhưng cũng không giải được huyệt, nên Diêm Phùng Hiểu đã đưa hai người đến nhà họ Thương để nhờ Thương lão gia giải huyệt cho.

- Ồ, có việc như vậy ư? Có biết người nào đã điểm huyệt không?

- Điều lạ là những cao thủ có mặt lúc bấy giờ không một ai phát hiện ra hai vợ chồng Lý Viễn đã bị ai điểm huyệt, và chiếc thuyền ấy bỗng dưng nứt ra làm đôi, như bị người ta tách đôi ra vậy, việc đó e chỉ là lời đồn nhảm thôi.

Dị Cư Hồ bỗng mừng rỡ vỗ tay cười nói:

- Hay quá, chả lẽ chính là y?

Ba người trẻ tuổi đều ngơ ngẩn, chẳng hiểu ất giáp gì cả.

Dị Ngọc Phụng hỏi:

- Y là ai vậy cha?

Dị Cư Hồ không đáp, chỉ không ngớt cười vang, hồi lâu mới nói:

- Hay lắm, hay lắm! Ngọc Phụng, ngươi hãy mau chuẩn bị, hai cha con ta sẽ đến Tứ Xuyên một chuyến, nhân tiện để ngươi thưởng thức võ công độc môn của nhà họ Thương.

Dị Ngọc Phụng ngạc nhiên:

- Tìm hai vợ chồng Lý Viễn ư?

- Đúng vậy!

Dị Ngọc Phụng trỏ Lý Thuần Như và Đào Lâm nói:

- Vậy hai người đó thì sao?

Dị Cư Hồ lướt nhìn hai người nói:

- Ngươi chẳng đang cần người hầu hạ đó ư? Nàng ta căn bản võ học cũng khá, hãy nhận nàng ta làm a hoàn đi. Còn tiểu tử này...

Lão chau mày, đoạn nói tiếp:

- Cứ để hắn ở trong Ngân Hoa Cốc, khi nào chúng ta trở về hẵng tính.

Đoạn lão lớn tiếng gọi:

- Lão Thất, lão Thất!

Lão nhân đã đi chung xe ngựa với Dị Ngọc Phụng lập tức xuất hiện, Dị Cư Hồ trỏ Lý Thuần Như nói:

- Hãy canh chừng tên tiểu tử này, đừng cho hắn trốn khỏi Ngân Hoa Cốc, ta phải đi xa một chuyến, nếu có ai đến tìm, hãy bảo họ để lại tín hiệu, khi nào về đến ta sẽ đi tìm họ.

- Thưa vâng!

Lão Thất đáp xong liền đi về phía Lý Thuần Như.

Lý Thuần Như và Đào Lâm đều phừng phừng lửa giận, hai người chẳng những không muốn rời xa, mà bản thân Đào Lâm cũng là con gái danh môn, sao chịu làm a hoàn cho kẻ khác?

Đào Lâm liền lên tiếng phản đối:

- Dị lão tiền bối nếu có việc thì chúng vãn bối tự sẽ rời khỏi, chúng vãn bối tuy võ công kém cõi, nhưng cũng không thể chịu nhục dễ dàng như vậy được.

Dị Cư Hồ cười khẩy:

- Cô bé, được làm a hoàn của con gái ta mà không muốn ư?

Đào Lâm mặt đỏ bừng:

- Tất nhiên là không muốn rồi.

Dị Cư Hồ lại cười khẩy:

- Cô bé hãy tự xét mình xem, bất luận về võ công, nhân phẩm, học vấn, có điểm nào mà ngươi bằng một phần mười Ngọc Phụng hả? Nhận ngươi làm a hoàn là đã nâng cao ngươi lắm rồi đó.

Đào Lâm đưa mắt nhìn Dị Ngọc Phụng, thấy nàng ta y hệt như tiên giáng trần, Đào Lâm chẳng thể không tự thẹn mình thua kém. Tuy nhiên đành rằng nàng thua kém Dị Ngọc Phụng về mọi mặt, nhưng cũng đâu thể khiến nàng cam tâm làm nô tì cho đối phương được.

Đào Lâm ngẫm nghĩ chốc lát, đoạn nói:

- Tiền bối nói chẳng sai, nhưng mỗi người có chí hướng riêng, tiền bối hà tất cưỡng bức!

Dị Cư Hồ thoáng biến sắc mặt, nghiêm mặt nói:

- Ngọc Phụng giải quyết thế nào tùy ngươi đó.

Dị Ngọc Phụng tươi cười hỏi:

- Ngươi không bằng lòng làm a hoàn cho bổn cô nương ư?

Ngay khi ấy Đào Lâm cũng đưa mắt nhìn Dị Ngọc Phụng, thấy nàng ta tuy đẹp tuyệt trần, song hai mắt ngập đầy sát cơ, bất giác rợn người, nhưng vẫn kiên quyết nói:

- Dứt khoát không!

Dị Ngọc Phụng buông tiếng cười khẩy, không hề thấy nàng ta động đậy, chỉ xoay nhẹ cổ tay, Đào Lâm đã thấy ánh bạc chớp chóa, ý nghĩ tránh né chưa kịp lóe lên đã cảm thấy đau nhói từ má trái chéo xuống đến ngực phải, nàng đưa tay lên sờ mặt, bàn tay dính đầu máu.

Khi đưa mắt nhìn Dị Ngọc Phụng, thấy tay phải nàng đã có thêm một ngọn nhuyễn tiên lấp lánh ánh bạc. Đào Lâm đã biết đối phương là con gái của Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ, đương nhiên võ công phải cao cường, nhưng không ngờ lại cao đến mức độ như vậy, vừa rồi mình bị đánh một roi, ngay cả đối phương xuất chiêu như thế nào, nàng cũng không trông thấy rõ.

Đào Lâm vừa kinh hãi vừa tức giận, ưỡn ngực rắn giọng nói:

- Tôi vẫn không bằng lòng.

Nàng vừa dứt lời, Dị Ngọc Phụng trong tiếng cười khẩy, ánh bạc chấp chóa, lại một roi quất tới.

Đào Lâm lần này đã có chuẩn bị, vừa thấy ánh roi lóe lên đã lách sang bên, nhưng Dị Ngọc Phụng cũng đồng thời di động theo, vị trí khoảng cách vẫn không thay đổi, chỉ khác là hai người đã xê dịch đi hơn trượng.

Đào Lâm lại cảm thấy đau nhói từ má phải chéo xuống đến ngực trái.

Đào Lâm liên tiếp bị đánh trúng hai roi, lòng hết sức căm hận, thét to:

- Hãy đánh nữa đi! Dù đánh bao nhiêu, Đào Lâm này cũng nhất quyết không bằng lòng.

Nhìn thấy người mình yêu hai má đã hiện lên hai lằn máu, lòng vô vàn đau xót, Lý Thuần Như vội lách người đứng cản trước mặt Đào Lâm và nói:

- Dị cô nương, nếu cô nương muốn đánh nữa, hãy cứ đánh tại hạ đi!

Dị Ngọc Phụng cười khanh khách:

- Tôn giá thật là quá đa tình.

Lý Thuần Như đỏ mặt:

- Tại hạ đã có mặt thì chẳng thể trơ mắt đứng nhìn Đào cô nương phải chịu đau đớn.

Dị Ngọc Phụng đanh mặt gằn giọng:

- Tốt lắm!

Bỗng nàng vung tay, ánh bạc như tia chớp, “vút vút vút vút” liên tiếp bốn roi nhắm Lý Thuần Như quất tới.

Vừa rồi đánh Đào Lâm, Dị Ngọc Phụng chỉ dùng xảo kình nên không phát ra tiếng động, song lần này đã dùng đến ba phần nội lực và nhanh khôn tả, Đào Lâm định đẩy Lý Thuần Như ra, song chưa kịp ra tay, bốn roi đều đã trúng vào người Lý Thuần Như.

Lý Thuần Như tuy được Linh Xà tiên sinh cứu sống, nhưng công lực đã hoàn toàn tiêu tan, lúc này chẳng khác một thư sinh yếu đuối, vừa bị Dị Ngọc Phụng đánh trúng bốn roi, chàng cảm thấy đau thấu xương tủy, ngã lăn ra đất, song tuyệt đối không một tiếng rên rỉ.

Lý Thuần Như vừa ngã xuống, Dị Ngọc Phụng đã lướt đến gần, lại liên tiếp quất thêm hai roi, khiến Lý Thuần Như đau đớn lăn lộn trên mặt đất.

Đào Lâm thấy vậy lòng đau như cắt, mắt rực lửa hét to:

- Dị cô nương tàn bạo thế này, tuy chúng tôi chẳng khỏi chết dưới tay cô nương, nhưng trong tương lai cô nương cũng sẽ nhận lấy hậu quả chẳng lành thôi.

Đào Lâm vừa dứt lời, “choang choang” hai tiếng, kim ngân song kiếm đã ra khỏi vỏ.

Đào Lâm đã tuốt kiếm cầm tay, song Dị Ngọc Phụng vẫn chưa hay biết, vẫn vung roi đánh Lý Thuần Như, Đào Lâm song kiếm vung lên, với chiêu Quốc Cựu Phùng Hốt lao tới tấn công Dị Ngọc Phụng.

Kiếm quang lấp lánh, mắt thấy đã sắp đâm tới, Dị Ngọc Phụng mới vụt quay người xoay tay, ánh bạc lóe lên, ngọn roi bạc đã xuyên qua bóng kiếm chập chùng.

Đào Lâm nhận thấy không ổn, song lúc này nàng đã quyết liều mạng, đâu còn màng đến sự an nguy của bản thân, nếu tiếp tục đâm tới, cho dù chỉ đả thương được đối phương cũng tốt, song khi trường kiếm nàng đâm tới thì đầu roi đã quét trúng cổ tay nàng, quá đau đớn khiến nàng bất giác buông tay “keng” một tiếng, kim kiếm đã rơi xuống đất.

Ngân kiếm chưa kịp vung lên, cổ tay trái lại đau nhói, ngân kiếm cũng rơi luôn xuống đất.

Dị Ngọc Phụng cười khanh khách, Đào Lâm chỉ cảm thấy ngạt thở, đã bị ngọn roi bạc quấn chặt lấy cổ.

Dị Ngọc Phụng lạnh lùng nói:

- Bổn cô nương chỉ cần giật mạnh là ngươi khó bảo toàn tính mạng, có bằng lòng hay không?

Đào Lâm lửa giận ngập lòng, vừa định trả lời là “không” bỗng nghe lão Thất nói:

- Đào cô nương, tục ngữ có câu “Kẻ thức thời vụ mới là tuấn kiệt”, nếu cô nương trả lời tiếng không, chẳng những bản thân cô nương mất mạng mà ngay cả Lý công tử cũng khó có thể sống qua ngày, nếu cô nương chịu theo tiểu thư, chỉ có lợi chứ không có hại, hà tất bốc đồng làm gì?

Đào Lâm ngoảnh sang nhìn, chỉ thấy lão Thất hai mắt sáng quắc, ngập đầy vẻ quan tâm sâu lắng đang chằm chặp nhìn nàng.

Đào Lâm tuy chưa biết lão Thất là người thế nào, song nhất định cũng là một cao thủ võ lâm, nếu không Dị Ngọc Phụng cũng chẳng gọi là lão thúc thúc, và mình khi mới bước chân vào Ngân Hoa Cốc, lão có ý cứu giúp mình, nghe lời lão đương nhiên là có thể tạm thoát chết, song nổi uất ức này làm sao mà nuốt trôi được?

Do đó nàng chỉ lặng thinh, lão Thất lại cười ha hả nói:

- Đào cô nương, tục ngữ có câu “Quân tử báo thù, mười năm chưa muộn”, khi xưa Việt Vương Câu Tiễn bại dưới tay Ngô Vương Phù Sai, đã nằm gai nếm mật suốt mười năm ròng rã, sau cùng vẫn báo được thù. Nếu cô nương trong lòng nhất quyết không thuận, bây giờ bằng lòng cũng chẳng hề gì.

Đào Lâm nghe vậy không khỏi giật mình, thầm nghĩ sao lão ta lại dám thốt ra những lời nói như vậy? Chả lẽ không e sợ hai cha con đại ma đầu này ư?

Đang ngẫm nghĩ, chỉ nghe Dị Ngọc Phụng cười nói:

- Thúc thúc nói rất đúng, chỉ cần người có bản lĩnh thì hãy mười năm báo thù.

Đào Lâm vốn khá thông minh, nghe Dị Ngọc Phụng nói vậy, biết là hai cha con Dị Cư Hồ này tính rất cao ngạo, cho rằng khắp trong thiên hạ không ai thắng được họ nữa, những lời nói của lão Thất đã nhắm đúng tâm lý của họ, chẳng những không sợ xúc phạm mà trái lại còn khiến họ vui lòng hả dạ.

Qua đó đủ thấy lão Thất này cũng là người đa mưu túc trí, Đào Lâm suy nghĩ một hồi, cố nén nỗi căm hờn nói:

- Thôi được, tôi bằng lòng.

Dị Ngọc Phụng nhoẽn miệng cười:

- Làm a hoàn là phải biết lẽ phép. Hãy chào cha ta trước rồi chào ta một tiếng!

Đào Lâm suýt nữa lại phát tác, song ánh mắt nàng vừa chạm vào ánh mắt lão Thất, liền lại dằn nén nói:

- Tiểu thư, lão gia!

Dị Ngọc Phụng cười ha hả:

- Sớm gọi như vậy thì đâu phải nếm mùi đau khổ!

Đào Lâm chỉ mím môi lặng thinh, Dị Ngọc Phụng lỏng tay, ngọn roi bạc rời khỏi cổ nàng.

Đào Lâm liền vội lao về phía Lý Thuần Như, thấy chàng khắp người chằng chịt vết máu, lòng xót xa tột cùng.

Lý Thuần Như gắng gượng nói:

- Đào cô nương đã phải khổ sở quá.

Lý Thuần Như tuy chỉ thốt ra vài lời ngắn ngủi, song đã chất chứa biết bao tình ý nồng nàn, khiến cho Đào Lâm càng thêm đau xót, nước mắt bất giác tuôn trào.

Lý Thuần Như thờ thẫn nhìn nàng, như còn định nói gì nữa, nhưng Dị Ngọc Phụng đã giục:

- Thôi đừng buồn nữa, chỉ cần ngươi ngoan ngoãn vâng lời, khi nào chúng ta từ Tứ Xuyên về đến, hai người vẫn sẽ gặp lại nhau, ngươi làm a hoàn, hắn làm công vặt, vậy chẳng tốt sao?

Đào Lâm cố nén niềm đau, đứng lên.

Dị Ngọc Phụng lại nói tiếp:

- Mau chuẩn bị ngựa, chúng ta lên đường ngay. Cha không mang theo chút gì cả ư?

Dị Cư Hồ mỉm cười:

- Đương nhiên là phải mang rồi.

Rồi thì bóng người nhấp nhoáng, loáng cái đã ra ngoài năm trượng, và loáng cái đã vào nhà, thân pháp nhanh đến mức khiến Đào Lâm đứng thừ ra tại chỗ.

Thoáng chốc Dị Cư Hồ đã trở ra, vẫn với hai tay không, chẳng rõ lão đã mang theo những gì.

Dị Ngọc Phụng đã giục Đào Lâm lên chỗ đánh xe, nàng quyến luyến nhìn Lý Thuần Như, sau đó giật mạnh dây cương, bốn con bạch mã lập tức tung vó ra khỏi Ngân Hoa Cốc.

Lý Thuần Như định đứng lên, ra ngoài cửa cốc trông theo Đào Lâm, song vừa mới đứng lên lại ngã trở xuống, lòng vô cùng đau xót, bất giác buông tiếng thở dài.

Chỉ thấy lão Thất cúi xuống nhìn. Lý Thuần Như bùi ngùi nói:

- Tiền bối, những lời khuyên của tiền bối với Đào cô nương đành rằng không sai, nhưng Đào cô nương ngoại nhu nội cương, sao chịu nghe theo lời sai khiến của người?

Nếu nàng cố nén lòng uất hận trong lòng, lâu ngày ắt sẽ bị nội thương, còn như phản kháng thì sự hành hạ nàng phải chịu đựng thật khó thể tưởng tượng nổi. Ôi...

Lão Thất mỉm cười khẽ nói:

- Khúc công tử, trời đã khiến đại ma đầu ấy rời khỏi Ngân Hoa Cốc, lão ô đã nhẫn nhục suốt mười mấy năm dài, bao khổ đau cuối cùng đã không uổng phí.

Lý Thuần Như ngơ ngác:

- Tiền bối vừa mới gọi vãn bối là gì?

Lão Thất cười sâu sắc:

- Lão ô đã gọi là Khúc công tử.

- Tiền bối chớ đùa, vãn bối họ Lý mà.

Lý Thuần Như vừa nói xong, chợt nhớ khi nãy Dị Cư Hồ đã hỏi mình có phải là con thân sinh của Lý Viễn hay không, không khỏi thắc mắc tột cùng.

Lão Thất lặng thinh, chỉ tung mình ba lượt đã đến cửa cốc, phóng mắt nhìn, chỉ thấy bụi tung mù mịt, cỗ xe ngựa đã đi xa, mới quay về cạnh Lý Thuần Như nói:

- Khúc công tử, có lẽ chính bản thân công tử cũng không rõ nguyên nhân bên trong, xin hãy theo lão ô đến đây.

Đoạn lão dìu Lý Thuần Như đứng dậy, đi về phía bên phải sơn cốc. Đến trước một khe nứt, Lão Thất nghiêng người chui vào, Lý Thuần Như theo sau, đi được hơn một trượng, trước mặt quang đãng, thì ra là một thạch thất rộng thênh thang.

Lão Thất lại nhìn ra ngoài, Lý Thuần Như thấy trong cốc rõ ràng không có người, vậy mà đối phương còn kỹ lưỡng thế, biết là sự thể nhất định hết sức bí mật. Chàng vốn đứng dựa vào vách, khi Lão Thất ra ngoài xem trở vào, đi thẳng đến bên một phiến đá dầy chừng nửa thước, dài bảy thước, rộng ba thước, đoạn lão đưa tay nhấc bổng lên.

Lý Thuần Như chẳng rõ đối phương làm gì, chỉ thấy sau khi phiến đá được dời đi, giường đá đã bị thấp mất nửa thước, mặt đá lộ ra mầu xám sẫm, đang khi thắc mắc, Lão Thất đã dìu chàng đến nằm lên giường.

Lý Thuần Như vừa nằm xuống, bỗng thét to và bật dậy ngay, thì ra chàng cảm thấy như đột nhiên rơi vào hố băng, cơn lạnh buốt xương nhanh chóng lan khắp toàn thân, khiến các nơi vết thương đau nhức khôn tả, người chàng vốn suy nhược, ngay cả đứng còn chẳng muốn vững, vậy mà dưới sự kích thích của độ lạnh khủng khiếp ấy, chàng đã có thể bật người lên.

Song chỉ được giữa chừng, Lão Thất đã tay phải xô mạnh, “bình” một tiếng, lại nằm trở xuống, và Lão Thất lập tức vung tay điểm nhanh vào hai đại huyệt trước ngực chàng.

Lý Thuần Như huyệt đạo bị phong bế, không động đậy được, chỉ cảm thấy hơi lạnh vây phủ toàn thân, lát sau tay chân cứng đờ, tuy vẫn còn nói được, song hai hàm răng lập cập và đầu lưỡi đờ đẫn, hồi lâu mới có thể nói được:

- Tiền... bối, chúng ta... không thù... không oán...

Toàn thân run lẩy bẩy, không còn nói tiếp được nữa.

Lão Thất nghiêm mặt nói:

- Khúc công tử có biết lão ô là ai không?

Lý Thuần Như lúc này đã lạnh đến mặt trắng nhợt, không còn nói được nữa, đành dùng ánh mắt ra hiệu muốn biết.

Lão Thất nói tiếp:

- Công tử đã theo hai vợ chồng Bát Quái Kiếm Lý Viễn nhiều năm, kiến thức hẳn cũng chẳng kém, có từng nghe nói hồi mười mấy năm trước, giới hắc đạo có một độc cước cường đạo khét tiếng, mọi người gọi là Quỷ Bất Kiến Ảnh Tây Môn Thất, đã nhiều năm bẳng tiếng, song rất lừng danh trong giới giang hồ, nghe đâu nội ngoại công phu đều đã đạt đến mức lư hỏa thuần thanh, tuy là người trong giới hắc đạo song rất có nghĩa khí, và còn là huynh đệ với Vô Không Thiền Sư, một cao nhân trong Phật môn và là chưởng môn phát Ngũ Đài.

Chả lẽ “Lão Thất” này chính là Tây Môn Thất ư?

Bởi lòng đang có điều suy nghĩ nên nỗi đau nhức cơ thể giảm đi phần nào, chàng buột miệng hỏi:

- Tiền bối phải chăng chính là Tây Môn hiệp đạo?

Lão Thất gật đầu:

- Không sai, chẳng ngờ công tử còn trẻ vậy mà cũng biết danh tánh lão ô.

Lý Thuần Như vội nói:

- Tây Môn tiền bối... hãy mau xách vãn bối... khỏi chiếc... giường đá này...

- Khúc công tử có lẽ cũng đã nằm qua chiếc giường đá này lúc còn bé, có điều giờ đã quên mất đó thôi.

Lý Thuần Như thắc mắc cực độ:

- Vãn bối sao mà nằm qua chiếc giường đá này được chứ?

Tây Môn Thất nghiêm mặt nói:

- Sự việc rất dông dài, công tử hãy kiên nhẫn mà nghe lão ô kể lại. Lúc công tử bảy tháng tuổi, trong nhà công tử đã xảy ra một biến cố trọng đại, cha mẹ anh em của công tử đều chết hết, tình cảnh lúc bấy giờ thật là...

Lý Thuần Như hết sức hiếu thảo với cha mẹ, nghe vậy liền biến sắc hỏi:

- Tây Môn tiền bối sao lại nói vậy?

Tây Môn Thất nghiêm giọng:

- Công tử tưởng hai vợ chồng Bát Quái Kiếm Lý Viễn và Lâm Tịnh Nhân là cha mẹ của mình thật sao?

Lý Thuần Như bất giác tập trung tinh thần, từ khi hiểu sự đến nay, chàng chưa bao giờ hoài nghi về thân thế của mình, song giờ đây chẳng những Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ đã hoài nghi mình không phải là con của Lý Viễn, mà Quỷ Bất Kiến Ảnh Tây Môn Thất này càng quả quyết mình không phải là con của Lý Viễn, việc hệ trọng thế này mà trước đây chàng chớ hề nghĩ đến, nên nhất thời hoàn toàn quên mất nỗi đau trên người, chàng nói:

- Tây Môn tiền bối, vậy thì cha mẹ thân sinh của vãn bối thật ra là ai? Và đã chết bởi tay người nào? Chả lẽ vãn bối họ Khúc ư?

Tây Môn Thất quả quyết gật đầu:

- Đúng vậy! Công tử họ Khúc, lệnh tôn chính là chủ nhân chiếc giường Vạn Niên Huyền Băng chí bảo võ lâm này...

Lý Thuần Như bỗng thảng thốt ngắt lời:

- Tiền bối bảo tại hạ là con của Hắc Thủy đảo chủ Khúc Cầm Phu ư?

- Không sai, khi nãy lão ô thật hết sức lo lắng, sợ đại ma đầu ấy nhận ra được công tử.

Ngay từ thuở bé Lý Thuần Như đã nghe nói đến mối ân oán giữa Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ với Hắc Thủy đảo chủ Khúc Cầm Phu, trước tiên Dị Cư Hồ đã bại dưới tay Khúc Cầm Phu, nhưng mấy năm sau, Dị Cư Hồ lại tìm đến đảo Hắc Thủy, đã với môn Huyết Chưởng kinh khiếp thiên hạ, sát hại toàn thể gia đình Khúc Cầm Phu, chỉ sống sót duy nhất một ấu tử.

Trong bao năm qua, nghe đâu Dị Cư Hồ luôn tìm kiếm tông tích ấu tử ấy, lúc Lão Thất nghe nói đến câu chuyện này, bởi lòng thương hại, chàng đã mong cho cậu bé ấy đừng bị Dị Cư Hồ phát hiện, thật nằm mơ cũng không ngờ cậu bé ấy lại là chính mình.

Lý Thuần Như ngơ ngẩn hồi lâu mới hỏi:

- Những gì tiền bối đã nói đều là sự thật chăng?

- Làm thế nào giả được?

- Căn cứ vào đâu mà tiền bối biết là vãn bối?

Tây Môn Thất thở dài:

- Lẽ ra đã lâu năm, lúc lão ô gặp công tử, công tử chỉ mới năm tháng tuổi, chẳng thể nào nhận ra được, nhưng vì nay công tử giống hệt như lệnh tôn khi xưa, lẽ nào lão lại không nhận ra?

- Tây Môn tiền bối, người giống người là chuyện thường, chỉ diện mạo giống thôi thì sao có thể chứng minh được vãn bối là con của Hắc Thủy đảo chủ chứ? Vả lại, gia phụ và gia mẫu rất thương yêu vãn bối, vãn bối chẳng thể nào tin được mình không phải là con thân sinh của hai người.

- Có lẽ công tử chưa biết hết sự tình, để lão ô kể lại tường tận cho công tử nghe.

Lúc Dị ma đầu tìm đến đảo Hắc Thủy, lệnh tôn và lệnh đường lẽ ra không đến đổi bại một cách thê thảm, song vì hai người đang luyện một môn võ công cực kỳ lợi hại. Dị ma đầu là người hiểm độc, đã âm thầm lặng lẽ dọ thám khắp nơi suốt một đêm, thấy dịp may hiếm có mới ra tay tấn công, lệnh tôn và lệnh đường trở tay không kịp nên đã bị thảm tử.

Lý Thuần Như cười héo hắt:

- Nếu vãn bối quả đúng là con của Hắc Thủy đảo chủ, vậy thì làm sao vãn bối thoát được?

- Trước đó một tháng, công tử đã được bà vú nuôi mang khỏi đảo Hắc Thủy đi thăm bà ngoại, do vậy mới được thoát nạn.

- Bà ngoại vãn bối là ai?

- Lão nhân gia ấy cũng rất lừng danh trong võ lâm, mọi người gọi là “Long Bà” Kỳ Ngũ Nương. Hai tháng trước biến cố, lão ô có đến đảo gặp qua một lần. Hai tháng sau, lão ô lại có việc bái yết lệnh tôn, khi vừa đến bờ biển đã nghe tin Hắc Thủy đảo chủ toàn gia ngộ nạn. Khi lên đảo xem, quả nhiên không sai, lệnh tôn có đại ân với lão ô, nên lão ô đã mai táng tất cả thi thể, lập tức nhớ đến công tử, lại đến nhà Kỳ Ngũ Nương, nhưng mới giữa đường đã nghe tin cả nhà Kỳ Ngũ Nương cũng đã bị ma đầu tàn sát. Duy có điều đáng mừng theo lời đồn đại trong võ lâm là y vẫn chưa tìm gặp ấu tử của Khúc đảo chủ, còn về việc công tử đã nhờ đâu thoát nạn thì lão ô cũng không rõ.

Tuy Tây Môn Thất kể lại rất mạch lạc, song Lý Thuần Như vẫn không tin, Tây Môn Thất nói tiếp:

- Khúc đảo chủ có tất cả ba trai ba gái, kể cả công tử, điều lạ lùng là mỗi người con trai hay gái trên bắp tay đều có một nốt ruồi son, nên khi Dị ma đầu vừa gặp mặt đã rạch toạc tay áo của công tử là vậy.

Lý Thuần Như nhướng mày:

- Nhưng trên bắp tay vãn bối đâu có nốt ruồi son.

- Đó nhất định là hai vợ chồng Lý Viễn đã xóa bỏ rồi.

Lý Thuần Như ngẫm nghĩ trong chốc lát, rồi nói:

- Vãn bối thật chẳng thể nào tin được những lời nói của tiền bối.

Tây Môn Thất đột nhiên biến sắc mặt, tung mình ngược ra sau phóng đi.

Lý Thuần Như thấy lão có vẻ hốt hoảng, bất giác giật mình hỏi:

- Tây Môn tiền bối, việc gì vậy?

Chỉ thấy Tây Môn Thất dừng lại nơi cửa thạch thất, thò đầu nhìn ra ngoài, lộ vẻ kinh ngạc lẩm bẩm:

- Lạ thật, mới vừa nghe có tiếng người rõ ràng, sao chẳng thấy ai cả thế nhỉ?

Lý Thuần Như nghe vậy cũng kinh hãi:

- Tây Môn tiền bối bảo là Dị lão ma đột ngột quay về ư?

Tây Môn Thất cười ảo não:

- Công tử yên tâm, y chưa đến Tứ Xuyên, chưa gặp được Lý Viễn và Lâm Tịnh Nhân, không bao giờ trở về đâu.

Lý Thuần Như thắc mắc:

- Lão ta cần gia phụ và gia mẫu chi vậy?

- Công tử không tin lời lão ô, nhưng Dị lão ma vừa gặp mặt là đã hoài nghi công tử chính là ấu tử của Hắc Thủy đảo chủ mà lão ta đã nhiều năm tìm kiếm để diệt trừ hậu hoạn, nhưng có điều lão ta chưa phát hiện nốt ruồi son nên mới không dám quả quyết, mà giữ công tử lại trong cốc, nếu lão ta mà không tìm gặp hai vợ chồng Lý Viễn hỏi cho ra lẽ, làm sao lão ta chịu thôi?

Lý Thuần Như thừ ra một hồi lâu, nhớ lại thật kỹ mọi thái độ của cha mẹ đã đối xử với mình trong quá khứ, thật chẳng có chút dấu tích nào chứng tỏ mình không phải là con thân sinh của họ. Hơn nữa, phụ thân đối với mình còn tốt hơn Lý Bảo ca ca nhiều.

Vả lại, việc xóa bỏ nốt ruồi son như Tây Môn Thất đã nói cũng chẳng thể tin được, bởi dù xóa bỏ nốt ruồi đi thì cũng phải có dấu vết, nhưng nơi bắp tay chàng nhẳn bóng, không hề có một vết sẹo nhỏ nào. Tuy nhiên, Lý Thuần Như cũng chẳng thể không tin lời Tây Môn Thất phần nào, bởi một là chàng không hề có chút quan hệ gì với Tây Môn Thất, vậy mà đối phương lại rất tử tế với mình, hai là chuyện kể của Tây Môn Thất hết sức mạch lạc và có căn cứ.

Do vậy, Lý Thuần Như nói:

- Tây Môn tiền bối, sự việc đã có liên quan đến thân thế của vãn bối, vãn bối cũng phải hỏi song thân cho rõ ràng, xin tiền bối hãy giải huyệt cho, để vãn bối đến Tứ Xuyên nhà họ Thương gặp gia phụ và gia mẫu ngay.

Tây Môn Thất nghiêm mặt nói:

- Khúc công tử, lúc sinh tiền lệnh tôn rất ít giao du, tuy lão ô là người trong hắc đạo, song lại là bạn thâm giao duy nhất của lệnh tôn. Cái chết của lệnh tôn dù mọi người đều biết là do Dị lão ma gây ra, nhưng không một ai dám đứng ra hỏi tội, chỉ lão ô ba lần tìm đến Ngân Hoa Cốc báo thù, song cả ba lần đều thất bại dưới tay lão ma, vì vậy mới giả vờ cam lòng thuần phục, nhẫn nhục sống trong Ngân Hoa Cốc để chờ đợi thời cơ, nếu công tử đến Tứ Xuyên ắt sẽ chạm mặt Dị lão ma, thử hỏi công tử làm sao đương cự nổi lão ma ấy? Vậy thì dòng họ Khúc đảo chủ sẽ đoạn tuyệt rồi còn gì?

Lý Thuần Như nghe giọng điệu đối phương quá thành khẩn, lòng càng thêm hoang mang:

- Vậy đến bao giờ vãn bối mới theo kịp võ công của Dị lão ma?

- Lão ô không dám khẳng định, nhưng hiện công tử đang nằm trên chiếc giường được chế tạo bằng Huyền Băng vạn năm, giúp ích rất nhiều cho người luyện võ, chỉ cần công tử cố gắng chịu đựng nằm trên ấy bảy ngày, công lực vốn có sẽ được khôi phục, còn sau này thì tùy ở cơ duyên của công tử mà thôi. Sau khi lão ô giải huyệt, xin công tử hãy nhớ kỹ là trong vòng bảy ngày bảy đêm, dù đau đớn đến mấy cũng không được rời xa nửa bước, ngay cả khom người cũng không được. Bằng không, e rằng công tử cũng khó có thể khôi phục lại công lực trước đây.

Nói đoạn lão vung tay giải huyệt cho Lý Thuần Như.

Lý Thuần Như từ nảy giờ đã tập trung tâm thần lắng nghe Tây Môn Thất kể về bí mật thân thế mình nên đã quên mất nỗi đau trên người, giờ huyệt đạo được giải, chàng liền cảm thấy hơi lạnh len vào cơ thể hết sức đau nhức khó chịu, song nhớ đến lời nói của Tây Môn Thất, cho dù giả dối thì mình cũng chẳng thể từ nay trở thành phế nhân, nỗi đau khổ này bắt buộc phải chịu đựng thôi. Do đó, chàng cắn chặt răng, cố gắng nhận chịu, còn Tây Môn Thất thì đi loang quanh trong thạch thất, vẻ mặt hết sức nghiêm nghị.

Hơn nửa giờ sau, da thịt Lý Thuần Như đã tê dại, song nỗi đau khổ càng khó chịu hơn, chàng bèn cố vận chân khí và đưa mắt nhìn Tây Môn Thất, chỉ thấy ông ta thỉnh thoảng lại đứng nơi cửa thất nhìn ra ngoài và ngưng thần lắng nghe, vẻ mặt mỗi lúc càng thêm kinh ngạc, hiển nhiên ông ta đã phát hiện bên ngoài có động tịnh gì đó và không chỉ một lần.

Lý Thuần Như tự biết võ công của mình so với Tây Môn Thất chẳng khác một trời một vực, dù có tiếng động gì chàng cũng chẳng nghe thấy được, chàng chỉ mong được bình an vô sự, cho dù phải chịu đựng đau khổ suốt bảy ngày bảy đêm thì chàng cũng cố gắng hầu có thể khôi phục công lực.

Song sự đời luôn trái ý người. Đột nhiên, Tây Môn Thất sầu mặt, tung mình đưa tay lấy từ trên vách ra một chiếc túi vải rất dài, chỉ nghe “choang choang” hai tiếng, trở ra cửa thạch thất trầm giọng quát:

- Kẻ nào đã năm lần bảy lượt rình rập bên ngoài Ngân Hoa Cốc, hãy để lại danh tánh.

Tiếng quát vọng đi rất xa, liền sau đó chỉ nghe tiếng nữ nhân từ xa vọng lại, tuy khẽ nhưng rất rõ ràng, nói:

- Dám hỏi Ngân Hoa Cốc chủ, Dị lão tiên sinh có trong cốc không?

Lý Thuần Như vừa nghe tiếng nói liền giật mình kinh hãi, Tây Môn Thất cũng biến sắc mặt, ngoảnh lại nói:

- Khúc công tử, bất luận bên ngoài xẩy ra chuyện gì, công tử cũng phải nhớ là tuyệt đối không được rời khỏi giường, khi lão ô ra khỏi đây, sẽ phong bế lối vào ngay, chỉ cần công tử tỉnh dưỡng là được rồi.

Vừa nói lão vừa từ trong túi vải lấy ra hai món binh khí kỳ dị sáng lóa.

Binh khí ấy gồm có năm đoạn, cấu trúc gần giống như côn tam khúc, mỗi đoạn dài chừng một thước và có khoen nối liền nhau, nhưng không phải là khoen tròn mà là ba mặt ngạnh sắc nhọn.

Danh hiệu Tây Môn Thất đã vang lừng võ lâm, món binh khí độc môn Truy Hồn Ngũ Sát Tiên của ông ta, dĩ nhiên nhìn là biết ngay. Tây Môn Thất ngoại hiệu là Quỷ Bất Kiến Ảnh và Đơn Đao Song Tiên, nghe đâu đôi Truy Hồn Ngũ Sát Tiên khi thi triển không cần dùng đến hai tay, mà chỉ cần một tay là đủ, tay kia còn có thể xử dụng ngọn Nhạn Linh Đao xuất thần nhập hóa, kể như hai tay cùng lúc thi triển ba món binh khí, thật hiếm có trong võ lâm.

Lý Thuần Như bởi đã nhận ra tiếng nói của nữ nhân kia bèn vội nói:

- Tây Môn tiền bối hãy hết sức cẩn thận.

Tây Môn Thất cười:

- Với danh tiếng của Dị lão ma trong Ngân Hoa Cốc này, liệu bọn họ có dám lộng hành không?

Nói đoạn lão quấn đôi Ngũ Sát Tiên vào lưng, phi thân ra ngoài, đến chỗ khe nứt, bưng lấy một tảng đá to bít lại, rồi mới chậm rãi đi đến gần cửa cốc, đứng lại nói:

- Ngân Hoa Cốc xưa nay không hề lai vãng với các vị, các vị đến đây có việc gì?

Tây Môn Thất vừa dứt lời, chỉ thấy cửa cốc bóng người nhấp nhoáng, đã có ba người xuất hiện. Ba người này thảy đều đeo mặt nạ đỏ như máu, chính là Tát Thị Tam Ma ở Quý Châu.

Người mập lùn là lão đại Tát Nguyên Bá, người mảnh khảnh là lão nhị Tát Đằng, nữ nhân là út tên Tát Băng Tây Môn Thất đã từng gặp họ mấy lần tại Quý Châu khi xưa, nên chẳng xa lạ gì, bèn lạnh lùng nói:

- Thì ra là các vị, đến đây có việc gì?

Tát Thị Tam Ma không đáp, bỗng cùng đưa tay gỡ mặt nạ xuống.

Tây Môn Thất giật mình, bất giác lùi ra sau ba bước, bởi khi xưa ông từng nghe nói, Tát Thị Tam Ma này, lão đại và lão nhị trước kia đều là quan Thố ty ở Miêu Cương, về sau theo lời đồn đại trên chốn giang hồ, đệ nhất dị nhân giới hắc đạo là Hắc Linh Thần Quân ngao du Miêu Cương và đã ở lại rất lâu nên mới thu nhận ba người làm độ đệ.

Thế nhưng, Tát Thị Tam Ma chưa bao giờ đề cập đến sư thừa với người khác, một khi động thủ là không bao giờ để sống còn, do đó cũng chẳng ai rõ về nguồn gốc võ công của họ.

Tuy nhiên, bọn họ chẳng những bản thân thích đeo mặt nạ, mà cả khi tiếp xúc với người trong giới hắc đạo, cũng đòi hỏi đối phương phải đeo mặt nạ, giống hệt như thói quen của Hắc Linh Thần Quân khi xưa, nên mới có lời đồn đại là Hắc Linh Thần Quân đã thu nhận đồ đệ ở Miêu Cương.

Mặt nạ của Hắc Linh Thần Quân khi xưa tuy không phải màu đỏ, song có lệ là khi gỡ mặt nạ xuống, tức chứng tỏ có thâm thù đại hận với đối phương, ra tay ắt cũng vô cùng tàn bạo.

Tây Môn Thất bởi nhớ đến lời đồn đải trong võ lâm, nên vừa thấy Tát Thị Tam Ma gỡ mặt nạ xuống, ông không khỏi kinh hãi, chỉ thấy ba người chẳng phải xấu xí như đã tưởng tượng, ngũ quan đều rất ngay thẳng, tuổi tác cũng chừng từ bốn đến năm mươi.

Tây Môn Thất không đoán ra được họ đến đây vì việc gì bèn hỏi:

- Ba vị từ xa xôi đến đây, có điều chi chỉ giáo, xin hãy thẳng thắn cho biết.

Lão đại Tát Nguyên Bá buông tiếng đằng hắng rồi nói:

- Các hạ phải chăng chính là Tây Môn Thất đã từng gặp tại Quý Châu khi xưa?

Tây Môn Thất nghe giọng điệu đối phương không có vẻ dữ dằn, thầm thở phào nhẹ người, bởi đối phương những ba người, còn mình thì chỉ có một, thắng nổi họ hay không, quả là một vấn đề lớn, ông ta bèn nói:

- Ba vị trí nhớ khá lắm, tại hạ đúng là Tây Môn Thất.

Tát Thị Tam Ma đưa mắt nhìn nhau, bỗng “keng” một tiếng, ném mặt nạ trong tay xuống đất, thì ra mặt nạ của họ được đúc bằng kim khí, sau đó cùng quì sụp xuống trước mặt Tây Môn Thất.

Tây Môn Thất cả kinh, ngỡ là họ định giở trò quái quỷ gì, vội tung mình ngược ra sau, lùi xa ngoài hai trượng, đồng thời từ nơi lưng rút đôi Ngũ Sát Tiên ra cầm tay.

Song chỉ thấy Tát Nguyên Bá ngẩng đầu lên nói:

- Tây Môn bằng hữu xin hãy yên tâm, bọn này ngoại trừ sư tôn, chưa bao giờ hành trọng lễ như vậy với bất kỳ ai khác, hiện có một việc phải cần các hạ giúp cho nên mới đến đây, nếu được các hạ chấp thuận, dù phải làm trâu ngựa cũng không quên đại ân.

Tây Môn Thất nghe giọng nói của y hết sức thành khẩn, không hề có sự dối trá, không khỏi càng thêm thắc mắc, thầm nghĩ mình tuy chưa từng động thủ với ba người, song họ là nhân vật đứng đầu võ lâm vùng Vân Nam và Quý Châu, biết bao kẻ cùng hung cực ác giới hắc đạo không dám bén mảng đến vùng Vân Quý, chính là vì sự có mặt của họ tại đó. Nay vì việc gì mà họ lại hành đại lễ với mình như vậy?

Tây Môn Thất bèn vội nói:

- Ba vị xin hãy mau đứng lên, có gì cứ nói.

Tát Nguyên Bá kiên quyết nói:

- Nếu chưa được các hạ chấp thuận, bọn này quyết không đứng lên.

Tây Môn Thất vốn lão luyện giang hồ, biết là họ quả tình có việc cầu khẩn, song chẳng sao đoán ra được việc gì, đành nói:

- Thôi được, ba vị hãy nói đi, thật ra là việc gì?

Tát Nguyên Bá mừng rỡ nói:

- Các hạ hiện đang có mặt trong Ngân Hoa Cốc hẳn là quen thân với cốc chủ Dị lão tiên sinh, bọn này cần gặp Dị lão tiên sinh, nhưng xin các hạ dẫn kiến cho.

Tây Môn Thất vốn tưởng có việc hệ trọng liên quan đến tính mạng, giờ nghe vậy bất giác phì cười, nói:

- Các vị thật không may, Dị cốc chủ đã đi khỏi rồi.

Tát Nguyên Bá càng lộ vẻ mừng rỡ hơn, nói:

- Thật ư?

- Tất nhiên, Tây Môn mỗ dối gạt các hạ làm gì?

- Bọn này trên đường có gặp Linh Xà tiên sinh, ông ta bảo là Dị cốc chủ có cứu một nam một nữ mang về đây, đúng vậy chăng?

Tây Môn Thất buột miệng:

- Không...

Ông ta định nói là “không sai”, song chợt nghĩ ba người này đến đây là để gặp Dị Cư Hồ, vậy mà khi nghe Dị Cư Hồ đã đi khỏi, chẳng những không thất vọng mà trái lại còn vui mừng, và bỗng nhiên lại hỏi đến Lý Thuần Như và Đào Lâm, hay là bên trong có sự gian trá gì đây?

Do đó vội đổi lời nói:

- Không... biết.

Tát Nguyên Bá buông tiếng thở dài:

- Các hạ không chịu nói thật ư?

- Tây Môn mỗ luôn có mặt trong cốc, bất kỳ động tịnh gì xảy ra đều biết hết, nhưng việc cứu một nam một nữ thì chưa nghe nói đến.

Tát Nguyên Bá lẩm bẩm:

- Chả lẽ Linh Xà tiên sinh đã dối gạt chúng ta? Ôi, đành chịu vậy thôi.

Ba người bỗng đứng bật dậy, Tây Môn Thất vội vung tay, Ngũ Sát Tiên khua loảng xoảng, chú tâm phòng bị.

Song chỉ thấy Tát Nguyên Bá mặt mày xám ngắt, hai tay vung mạnh, hai người kia thảng thốt la lên:

- Đại ca, chúng ta còn có thể tìm kiếm họ mà.

Tát Nguyên Bá buông tiếng thở dài:

- Trời đất bao la, biết đâu mà tìm, hạn kỳ đã đến, còn mong gặp may mắn nữa ư?

Đoạn lại vung mạnh hai tay, chỉ nghe tiếng răng rắc giòn giã, trán ướt đẫm mồ hôi và lăn dài xuống.

Tây Môn Thất vốn là cao thủ võ lâm, thấy vậy biết ngay là Tát Nguyên Bá đã tự làm gãy hai xương bả vai mình, không khỏi càng thêm thắc mắc, qua lời lẽ vừa rồi của Tát Nguyên Bá, dường như ba người đã bị ai đó cưỡng bức, phải tìm kiếm Đào Lâm và Lý Thuần Như, hơn nữa còn định ra kỳ hạn, nếu không tìm gặp thì phải tự làm gãy hai tay.

Trong chốn võ lâm, dễ mấy ai dám đối địch với Tát Thị Tam Ma, ngay cả chính mình cũng chẳng dám xem thường họ, trừ phi là hạng nhân vật như Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ thì mới có thể cưỡng bức họ được, chẳng rõ người ấy là ai thế nhỉ?

Tây Môn Thất nghĩ vậy bèn vội nói:

- Tát bằng hữu hãy khoan, cho dù không tìm gặp một nam một nữ kia, cớ sao lại phải tự đoạn hai tay?

Tát Nguyên Bá nén đau nói:

- Các hạ đã không biết tông tích của hai người ấy, bọn này có nói ra cũng vô ích.

Nói đoạn lão ngoảnh mặt ra sau quát:

- Hai người chưa động thủ còn chờ gì nữa? Tuy mất hai tay nhưng dẫu sau cũng còn giữ được mạng sống.

Tây Môn Thất nếu là người chính phái, lúc này lòng rất muốn biết Tát Thị Tam Ma bị người nào cưỡng bức, định tìm kiếm Đào Lâm và Lý Thuần Như vì việc gì, nhất định sẽ ngăn cản hai người kia tự đoạn cánh tay, nhưng ông ta vốn là người trong giới hắc đạo, biết một chọi ba khó có thể thủ thắng, chi bằng chờ cho đối phương gãy hết tay thì mình sẽ có thể ung dung xử trí, do đó ông ta chỉ lặng thinh, hai người kia sắc mặt không chút thay đổi, cũng vung mạnh hai tay tự làm gãy xương vai.

Sau đó Tây Môn Thất mới mỉm cười nói:

- Chẳng hay một nam một nữ mà các vị đang tìm họ tên là gì, nếu biết rõ họ tên, có lẽ Tây Môn mỗ còn có thể giúp được.

Lập tức, sắc mặt ba người biến đổi dữ dội, Tát Băng đanh giọng nói:

- Thì ra ngươi biết, sao không chịu nói sớm hả?

Tát Nguyên Bá vội nháy mắt với y thị và nói:

- Tam muội chớ xúc phạm người ta. Hai người ấy nam là Lý Thuần Như, nữ là Đào Lâm.

Tây Môn Thất thấy đối phương trán đổ mồ hôi ròng ròng, mặt mày xám ngắt và hai tay buông rũ, rõ ràng là xương vai đã gãy lìa, không còn e ngại nữa, định tâm bỡn cợt họ một phen, bèn cười ha hả nói:

- Thì ra là hai người ấy, sao các vị không chịu nói sớm.

Tát Nguyên Bá vội hỏi:

- Các hạ biết họ hiện ở đây phải không?

Tây Môn Thất mỉm cười:

- Dĩ nhiên, vừa rồi các vị chỉ nói là cốc chủ đã cứu một nam một nữ, nhưng đâu phải vậy, chính họ đã tự động đến đây mà.

Tát Băng vội tiếp lời:

- Hai người ấy hiện đang ở đâu?

Tây Môn Thất vốn không muốn tiết lộ tông tích của Đào Lâm và Lý Thuần Như, bởi biết đối phương đều là kẻ cùng hung cực ác, hẳn là chẳng có ý định tốt lành gì, song lúc này đã chứng kiến tận mắt Tát Thị Tam Ma đã tự đoạn hai tay, liệu sức một mình cũng có thể đánh hạ họ tại đây, nên chẳng chút e ngại, nói:

- Đào cô nương đã đi theo Dị cốc chủ đến Tứ Xuyên, còn Lý công tử thì hiện đang ở trong cốc.

Tát Thị Tam Ma cùng sấn tới mấy bước, nói:

- Tại sao các hạ không chịu nói sớm?

Tây Môn Thất đắc ý nói:

- Nói sớm ư? Ai biết các vị có ý định gì chứ?

- Thôi được, đành liều mạng với ngươi.

Tát Nguyên Bá động thủ trước tiên, cúi người đâm đầu tới.

Tây Môn Thất cười ha hả nói:

- Ngươi không tay mà còn dám ngông cuồng, muốn chết thành quỷ không tay hả?

Đoạn Ngũ Sát Tiên trong tay chênh chếch quét ra, tuy không phải một chiêu trí mạng, song nếu bị quét trúng thì cũng bay mất một bên má trái.

Tát Nguyên Bá hai tay buông thỏng, đầu nghiêng sang bên, song thế roi của Tây Môn Thất hết sức hung mãnh, ánh roi lấp loáng, mắt thấy Tát Nguyên Bá khó có thể tránh khỏi, nhưng thốt nhiên, hai tay Tát Nguyên Bá vụt vút lên, tay trái đưa ngang ra chộp vào Ngũ Sát Tiên, tay phải một chưởng chớp nhoáng đánh thẳng vào ngực đối phương.

Tây Môn Thất nằm mơ cũng chẳng ngờ có vậy, khi nãy rõ ràng đã chứng kiến đối phương trán đẫm mồ hôi, và mặt đầy đau đớn, hơn nữa xương tay còn kêu răng rắc thế kia, vậy mà bỗng chốc đã trở lại bình thường, thật khó thể tưởng tượng được.

Tây Môn Thất vốn chẳng dễ tin người, song phen này đã gặp đối thủ. Tát Thị Tam Ma quả danh bất hư truyền, thật xảo trá đến cực độ.

Tây Môn Thất cả kinh, may nhờ võ công cao thâm, vội hạ cổ tay xuống, hai ngọn Ngũ Sát Tiên lập tức bật lên, tránh khỏi hai chưởng của Tát Nguyên Bá chỉ trong đường tơ kẻ tóc.

Thế nhưng, Tây Môn Thất đã tránh khỏi một cách hết sức miễn cưỡng. Ngay khi ấy Tát Đằng và Tát Băng cũng từ hai bên lao đến cũng vung tay chụp tới, thì ra hai người cũng chẳng phải thật sự động thủ.

Tát Đằng và Tát Băng thân thủ cũng chẳng phải tầm thường, trong khi Tây Môn Thất lại đang mất thăng bằng, hai người bốn chưởng đánh tới thảy đều trúng vào mạn sườn Tây Môn Thất.

Tây Môn Thất công lực tinh thâm, mặc dù khinh thường đối phương đều đã gãy tay, song vẫn vận tụ toàn thân chân khí, cơ thể hết sức rắn chắc.

Thế nhưng, Tát Thị Tam Ma người nào cũng có mấy mươi năm công lực, Tây Môn Thất liên tiếp bị trúng bốn chưởng, tựa như bốn chiếc búa sắt nện vào mạn sườn, lập tức cảm thấy xây xẩm mặt mày, người loạng choạng suýt nữa ngã nhào.

Ngay khi ấy, Tát Nguyên Bá tay phải vung lên, ngón giữa búng nhanh ra, trúng ngay mạch môn Tây Môn Thất.

Tây Môn Thất trong lúc hoảng loạn chỉ cảm thấy mạn sườn đau nhói, mạch môn lại bị điểm trúng, nửa người tê dại, biết mục đích đối phương là nhằm vào Đào Lâm và Lý Thuần Như, chẳng ngờ mình mấy mươi năm lăn lộn giang hồ mà lại bị họ dối gạt thế này, lòng vô cùng căm hận, biết khó vãn hồi tình thế, bèn đánh liều buông tay, đôi Ngũ Sát Tiên “choang” một tiếng rơi xuống đất, người cũng nhắm mắt ngã ngửa ra sau.

Tát Đằng và Tát Băng buông tiếng cười quái dị, lập tức sấn tới, tung chân đá vào ngực đối phương.

Bỗng nghe Tát Nguyên Bá hét to:

- Hãy cẩn thận, y đã nhiều năm lừng danh trong võ lâm...

Song đã muộn, chỉ thấy Tát Đằng và Tát Băng chân chưa kịp đạp xuống, Tây Môn Thất bỗng chỏi tay xuống đất, hai mắt bừng mở và buông tiếng quát vang, tung người bật dậy, đồng thời tay trái quét ngang, ánh thép lóe lên thành một vòng tròn, máu tươi phun xối xả.

Tây Môn Thất ha hả cười vang, cố nén nội thương lùi mau nửa bước.

Liền theo đó, Tát Đằng và Tát Băng ngã lăn ra đất, cũng may hai người võ công cao thâm, vừa thấy ánh đao lóe lên đã vội đề khí cất người lên cao hơn một thước.

Thế nhưng ngọn đơn đao của Tây Môn Thất dài đến bốn thước, mỏng như giấy và sắc bén vô cùng, cất giấu trong mình bất kỳ chỗ nào, là món binh khí thần xuất quỷ mật khó thể đề phòng. Hơn nữa, chiêu đao vừa rồi lại là Địa Trù Hoành Tảo (giăng phủ mặt đất) nổi tiếng đao xuất là có máu, nên Tát Đằng và Tát Băng đều bị tiện mất nửa bàn chân trái.

Hai người vội bế huyệt chỉ huyết, không còn đối địch được nữa. Tây Môn Thất cố vận một hơi chân khí, thừa lúc Tát Nguyên Bá đến xem xét thương thế hai người kia, lao bổ tới vung đao chém vào sau lưng đối phương, uy thế hết sức kinh người.

Tát Nguyên Bá vội chộp lấy hai người dưới đất, lướt tới trước hơn một trượng, song đó chỉ là hư chiêu, Tây Môn Thất vừa thấy đối phương lướt tới, lập tức phóng đến nhặt đôi Ngũ Sát Tiên.

Chỉ thấy ông ta tay trái đơn đao, tay phải song tiên, đứng đó oai phong lẫm liệt, ngửa mặt lên trời huýt dài, trông như chưa hề thọ thương, nhưng thật sự thì ông đã thọ thương trầm trọng.

Lẽ ra đã thọ thương trầm trọng như Tây Môn Thất, tuyệt đối không nên dùng nội lực phát ra tiếng cười, bởi như thế càng khiến thương thế trầm trọng hơn. Nhưng Tây Môn Thất biết rõ tình thế trước mắt, tuy chỉ còn một mình Tát Nguyên Bá có thể động thủ với mình, nhưng nếu Tát Nguyên Bá bức mình đến gần Tát Đằng và Tát Băng, hai người vẫn có thể sử dụng phách không chưởng tấn công mình, không đầy hai mươi chiêu mình ắt sẽ bại. Còn bây giờ nếu mình giả vờ bình an vô sự và buông lời khiêu khích, rất có thể sẽ khiến Tát Nguyên Bá bởi không nhất định được thương thế của mình mà tạm thời rút lui.

Mặc dù ba người đến đây là có mục đích, nhất định không bao giờ chịu bỏ qua dễ dàng, song dù chỉ có được chút cơ hội để thở, mình cũng có thể cố thủ trong thạch thất thì cũng chẳng đến đổi nào. Do đó, ông chẳng màng mình đang thọ trọng thương, vẫn cố buông tiếng cười vang, cười xong ông vung nhẹ đơn đao nói:

- Tát lão đại khiếp sợ rồi ư?

Tát Thị Tam Ma thời quả đã khiếp sợ trước khí thế của Tây Môn Thất, ba người đưa mắt nhìn nhau, đoạn Tát Nguyên Bá đỡ hai người dậy, cười khẩy nói:

- Tây Môn Thất, ngươi chớ huênh hoang, bọn ta hôm nay thất bại, ngày mai nhất định sẽ lại đến, hãy chờ xem.

Tây Môn Thất ha hả cười vang:

- Bất luận các vị bao giờ đến, Tây Môn Thất này nếu chau mày một cái thì không phải là trang hảo hớn.

Tát Nguyên Bá cười gằn:

- Tốt lắm!

Đoạn lão hai tay dìu lấy hai người, Tát Đằng và Tát Băng dù chỉ còn một chân, phóng đi cũng nhanh khôn tả, thoáng chốc đã ra khỏi Ngân Hoa Cốc thật xa.

Tây Môn Thất biết họ điều thương xong nhất định sẽ quay lại, thầm buông tiếng thở dài, ngụm máu nóng đã nén nơi ngực tự nãy giờ, bởi tinh thần thư dãn, liền tức “ụa” một tiếng phún ra khỏi miệng, máu tươi lốm đốm dính trên chòm râu bạc, khiến ông trong thoáng chốc trông như đã già đi rất nhiều.

Sau khi phún ra một ngụm máu tươi, Tây Môn Thất dùng đao chỏi đất, vừa định đi về phía khe đá, nào ngờ vừa quay đầu lại, bỗng nghe nơi cửa cốc lại vang lên một tiếng đằng hắng.

Tây Môn Thất giật nẩy mình, thầm nghĩ nếu trong lúc này lại có cường địch kéo đến, mình dứt khoát không thể nào ứng phó được nữa.

Nghĩ đoạn, vội dùng tay áo lau sạch vết máu trên râu, đoạn quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một lão nhân nhỏ thó gầy gò, dáng vẻ quái dị đang đứng nơi cửa cốc, tay cầm một con rắn nhỏ cỡ ngón tay út, toàn thân một mầu xanh biếc và dài chừng tám thước, đuôi quấn vào cổ lão ta.

Tây Môn Thất gượng cười nói:

- Linh Xà tiên sinh đến đây có việc gì vậy?

Linh Xà tiên sinh cười hề hề:

- Tây Môn bằng hữu đã thọ thương chẳng nhẹ đấy.

Tây Môn Thất biết Linh Xà tiên sinh này không thường đi lại trên giang hồ, trong giới võ lâm rất ít ai biết đến, song võ công của lão hết sức quái dị và riêng mình một cõi, biết chẳng thể dấu diếm được, cười ảo não nói:

- Đa tạ đã quan tâm, tiên sinh đến đây thật ra có việc gì?

Linh Xà tiên sinh cười quái dị:

- Tây Môn bằng hữu có nhận ra vật này không?

Vừa nói vừa lấy từ ngực áo ra một chiếc ngân lệnh sáng lấp lánh hình tam giác và to cỡ bàn tay.

Tây Môn Thất kinh ngạc:

- Đó là ngân lệnh của cốc chủ, trong võ lâm ai mà chẳng biết?

Linh Xà tiên sinh nhẹ gật đầu:

- Đúng vậy, thấy lệnh như thấy người, xin phiền Tây Môn bằng hữu hãy trao Lý Thuần Như ra cho.

Tây Môn Thất sửng sốt:

- Linh Xà tiên sinh, lệnh này chỉ có thể xử dụng một lần là phải trả cho cốc chủ, vật quí giá như vậy sao tiên sinh lại dùng vào việc này?

- Lão huynh đừng thắc mắc, bổn nhân tự biết liệu định.

Tây Môn Thất hết sức thắc mắc, mình sở dĩ lo cho Lý Thuần Như là bởi rất có thể chàng là ấu tử của Khúc Cầm Phu, nhưng còn Tát Thị Tam Ma và Linh Xà tiên sinh thì cần Lý Thuần Như để làm gì?

Tây Môn Thất ngẫm nghĩ một hồi, đoạn nói:

- Linh Xà tiên sinh thật không may, Lý Thuần Như hiện không có trong cốc.

Linh Xà tiên sinh quơ ngân lệnh trong tay, phản chiếu ánh nắng lấp lóa nói:

- Tây Môn bằng hữu dám trái lời Dị cốc chủ ư?

Tây Môn Thất ngửa hai tay:

- Y đã không còn trong cốc, tại hạ biết làm sao hơn?

Linh Xà tiên sinh cười ha hả:

- Khi nãy đối địch với Tát Thị Tam Ma thì Lý Thuần Như còn trong cốc, chỉ trong chốc lát sao lại biết mất được?

Tây Môn Thất thầm kinh hãi, thì ra Linh Xà tiên sinh đã đến đây cùng lúc với Tát Thị Tam Ma, tuy không biết lão ta tìm Lý Thuần Như làm gì, song chung qui cũng chẳng có ý tốt lành, nên định thần nói:

- Linh Xà tiên sinh biết một mà không biết hai, lúc Tát Thị Tam Ma đến đây là Lý Thuần Như đã không còn trong bổn cốc, chẳng qua tại hạ bỡn cợt họ đó thôi.

Linh Xà tiên sinh nhún vai:

- Tôn giá có thể bỡn cợt Tát Thị Tam Ma thì cũng có thể bỡn cợt bổn nhân, bổn nhân chẳng thể tin được lời tôn giá, phải lục soát Ngân Hoa Cốc này một phen mới được.

Tây Môn Thất sửng sốt, đoạn quát:

- Cả gan!

Linh Xà tiên sinh cười ha hả:

- Lão phu có ngân lệnh trong tay, hiện cũng như cốc chủ, tôn giá thật to gan, dám ngăn trở lão phu ư?

Tây Môn Thất biết là Linh Xà tiên sinh có ngân lệnh trong tay, nếu động thủ với lão ta, Dị Cư Hồ mà biết được sẽ là họa tày trời. Nhưng ông đã hoài nghi Lý Thuần Như chính là đứa con trai duy nhất còn sót lại của Hắc Thủy đảo chủ Khúc Cầm Phu, đại ân nhân khi xưa của mình, lẽ đương nhiên đâu thể trao Lý Thuần Như cho Linh Xà tiên sinh.

Lão bèn lùi ra sau hai bước, đưa ngang đơn đao gằn giọng nói:

- Linh Xà tiên sinh, nếu tiên sinh khăng khăng cậy lệnh hiếp người, tại hạ đành phải đắc tội.

Linh Xà tiên sinh cười vang:

- Tây Môn bằng hữu hiện đang trọng thương, tuy giả vờ trầm tĩnh dọa lui được Tát Thị Tam Ma, nhưng không dọa lui được Linh Xà tiên sinh này đâu. Trong vòng ba chiêu nếu không khiến tôn giá phơi xác tại đây cho, thật uổng với danh xưng Linh Xà tiên sinh.

Dứt lời, lão nhẹ vung tay, con rắn xanh đã quét ra như một ngọn nhuyễn tiên, “vù” một tiếng, nghiêng nghiêng quất vào vai Tây Môn Thất.

Tây Môn Thất thấy mình không dọa được đối phương, không khỏi thầm kinh hãi, vừa thấy Linh Xà tiên sinh dùng rắn làm vũ khí tấn công, liền thụp người và gắng gượng vận đề một hơi chân khí, đơn đao vung lên đỡ gạt.

Linh Xà tiên sinh vung rắn từ trên xuống, hai người xuất thủ đều nhanh khôn tả, chớp nhoáng đao đã chạm vào mình rắn.

Tây Môn Thất mừng rỡ, ngỡ là ngọn đao của mình sắc bén khôn cùng, nhất định sẽ tiện đôi rắn độc, lòng đã tính toán đổi chiêu thế nào sau khi rắn bị tiện đôi.

Ngờ đâu khi đơn đao vừa chạm vào mình rắn, Tây Môn Thất chỉ cảm thấy sức đè của rắn mạnh khôn cùng, loạng choạng lùi sau nửa bước ngước nhìn lên, càng thêm kinh hãi, thì ra tuy lưỡi đao chỏi trên bụng rắn, song chỉ làm lõm vào chứ không đứt đôi, và theo sức gạt của đao, con rắn độc nửa thân trên thòng xuống, đầu rắn nhằm ngay huyệt bách hội trên đỉnh đầu Tây Môn Thất mổ thẳng xuống.

Tây Môn Thất cả kinh thất sắc, vội vung song tiên bên tay phải lên, đồng thời nghiêng đầu sang bên né tránh, song đã chậm một chút, tuy huyệt bách hội không bị mổ trúng, nhưng đỉnh đầu cũng bị mổ một phát như búa nện.

Tây Môn Thất lập tức cảm thấy đầu óc choáng váng, hai mắt tối sầm, loạng choạng lùi ra sau bảy tám bước mới đúng vững lại được.

Tây Môn Thất tuy thọ thương chất chồng, song dẫu sao ông cũng là kỳ nhân bậc nhất trong giới hắc đạo, sau khi đứng vững lại, hai mắt trợn trừng, chỉ thấy Linh Xà tiên sinh đã đuổi theo đến.

Ông buông tiếng quát vang, vừa định tranh trước tấn công hầu dành lại ưu thế, song chưa kịp xuất thủ, thì Linh Xà tiên sinh đã nhếch môi cười quái dị, năm ngón tay bóp mạnh vào đuôi độc xà, bị đau độc xà vụt cất đầu lên, “bộp” một tiếng, đầu rắn lại trúng vào ngực Tây Môn Thất.

Con rắn xanh này da rất cứng, đứng đầu các loài rắn khắp thiên hạ, trên cả Tuyến Xà, và có sức mạnh khôn cùng. Linh Xà tiên sinh đã phải tốn biết bao công sức mới bắt được trong một đầm nước trên Công Sơn tỉnh Vân Nam, lão xem con rắn này như mạng sống của mình, đặt tên là Bích Ngọc Nhất Chi Tiên (ngọn roi ngọc bích).

Tây Môn Thất lại bị đầu rắn va trúng ngực, thọ thương càng thêm trầm trọng, không còn đứng vững được nữa, ngã lăn ra bất động.

Linh Xà tiên sinh buông tiếng cười gằn, bước đến gần nói:

- Tây Môn Thất, ngươi liệu còn chịu được chiêu thứ ba nữa không?

Tây Môn Thất cố điều hòa hơi thở, mấy lần định đứng lên, song bởi thương thế quá nặng, lực bất tòng tâm, đành nằm yên dưới đất, hai mắt ngập đầy lửa giận nói:

- Linh Xà... tiên sinh... sao chưa xuất chiêu thứ ba đi?

- Khá lắm, ngươi quả là rắn rỏi, nhưng để xem ngươi rắn rỏi đến mức độ nào.

Tây Môn Thất nghe đối phương nói vậy, biết nhất định là không để cho mình chết ngay, mà sẽ dùng cách tàn bạo gì đó để hành hạ mình, ý nghĩ chuyền nhanh, cho dù mình có thể ứng phó cho Linh Xà tiên sinh bỏ đi, nhưng khi Tát Thị Tam Ma quay lại thì cũng chẳng còn cách ứng phó, chi bằng thừa lúc huyệt đạo chưa bị kẻ địch phong bế, tự đoạn kinh mạch mà chết, họ chưa chắc đã tìm được Lý Thuần Như, và mình cũng ít chịu đau khổ hơn.

Ý đã quyết, vừa định dồn hết nội lực còn lại vào kinh kỳ bát mạch để tự tuyệt, bỗng nghe bên ngoài vang lên tiếng vó ngựa hối hả, hai người đều là bậc cao thủ, vừa nghe tiếng vó ngựa là biết ngay đối phương đang tiến đến Ngân Hoa Cốc, không khỏi ngẩn người. Ngay khi ấy, tiếng vó ngựa đã đến gần, rồi thì bóng trắng thấp thoáng đã đến cửa cốc.

Linh Xà tiên sinh và Tây Môn Thất cùng quay nhìn ra cửa cốc, chỉ thấy một thiếu nữ áo trắng đẹp như tiên, ngồi trên yên bạc trên lưng con tuấn mã toàn thân trắng như tuyết, ngọn roi bạc trên tay đang khẽ rung động, đó chính là Dị Ngọc Phụng.

Linh Xà tiên sinh vừa trông thấy Dị Ngọc Phụng, nghĩ là Dị Cư Hồ cũng theo sau về, bất giác cả kinh, vội lùi ra sau một bước.

Song Dị Ngọc Phụng chỉ dừng lại chốc lát nơi cửa cốc, rồi thì giật mạnh dây cương, ngựa phóng nhanh vào cốc, nhẹ nhàng vung tay, ngọn roi bạc nhanh như tia chớp quét vào cổ tay Linh Xà tiên sinh.

Linh Xà tiên sinh vội lách người sang bên, song đã chậm mất một bước, chỉ nghe “keng” một tiếng, chiếc ngân lệnh trong tay đã bị cuốn mất.

Linh Xà tiên sinh biến sắc mặt, lùi nhanh ra xa hơn trượng, khích động nói:

- Dị cô nương... ngân lệnh này do cô nương đã tặng... sao bây giờ lại đoạt về?

Dị Ngọc Phụng buông tiếng cười gằn:

- Linh Xà tiên sinh, tôn giá lại dám cầm ngân lệnh của gia phụ đến đây lộng hành, còn chưa mau cút ra khỏi Ngân Hoa Cốc hả?

Linh Xà tiên sinh đỏ bừng mặt, chậm chậm thoái lui, khi đến cửa cốc, ngoảnh lại nhìn, bên ngoài vắng lặng hoàn toàn, như không hề có người theo sau Dị Ngọc Phụng.

Nhưng Linh Xà tiên sinh biết rõ, Ngân Lệnh Huyết Chưởng Dị Cư Hồ tri thức uyên bác, lòng đầy huyền cơ, thật đã đến mức thần xuất quỷ mật, tuy thấy chỉ một mình Dị Ngọc Phụng trở về cốc, nhưng nếu mình không nhẫn nhịn, động thủ với Dị Ngọc Phụng, biết đâu Dị Cư Hồ lại đột nhiên xuất hiện.

Đây hệt như một cuộc đổ bác, chỉ có hai bố cục, thế nhưng cái dùng đặt cuộc lại là tính mạng của lão. Vì vậy, Linh Xà tiên sinh thừ ra một hồi, sau cùng không đủ can đảm động thủ với Dị Ngọc Phụng, quấn con rắn xanh vào cổ, phi thân bỏ đi.

Song lão không trở về Linh Xà Cư, mà chỉ đi khá xa, đảo lộn một vòng rồi vẫn quay về Ngân Hoa Cốc, song chỉ ẩn nấp bên ngoài chứ không vào bên trong.

Linh Xà tiên sinh thích nuôi rắn ngay từ thuở bé, một thân võ công cũng là học được qua các hình thái của rắn, về mặt khinh công càng cao siêu hơn người, lướt đi trên mặt đất nhanh như bay mà không gây ra một tiếng động khẽ, hơn nữa ngoài Ngân Hoa Cốc có rất nhiều cát bụi, nên không để lại chút dấu chân nào.

Sau khi Linh Xà tiên sinh đi khỏi, Tây Môn Thất mới thở phào nhẹ nhõm, ngẩng mặt lên gắng gượng nói:

- Tiểu thư... về đến... thật kịp lúc... đã cứu mạng... lão phu...

Dị Ngọc Phụng thoáng chau mày, như có vẻ rất khẩn yếu, không chờ Tây Môn Thất nói dứt đã ngắt lời:

- Thúc thúc, tên tiểu tử họ Lý đâu? Mau bảo hắn ra đây, cha cần gặp hắn gấp.

Tây Môn Thất ngẩn người, nghĩ mình đối địch với Tát Thị Tam Ma và Linh Xà tiên sinh là chẳng ngoài mục đích là không để cho Lý Thuần Như lọt vào tay bọn họ, bây giờ Dị Ngọc Phụng có vẻ hối hả thế này, Dị Cư Hồ cần đến Lý Thuần Như hẳn cũng chẳng có ý tốt lành gì.

Tây Môn Thất buông tiếng thở dài:

- Tiểu thư, lão phu thật bất tài, sau khi lão gia và tiểu thư đi khỏi, Tát Thị Tam Ma đã đến đây, trong khi lão phu đang đối phó với Tát Thị Tam Ma thì... Lý Thuần Như đã... bỏ trốn mất.

Tây Môn Thất tuy nói dối không chút tần ngần, song Dị Ngọc Phụng thông minh tuyệt đỉnh, thoáng ngẫm nghĩ rồi cười khẩy nói:

- Thất thúc nói dối.

- Tiểu thư, lẽ nào lão phu dám to gan đến vậy? Lý Thuần Như... quả thật đã bỏ trốn rồi.

Dị Ngọc Phụng sầm nét mặt quát:

- Tây Môn Thất, lão vốn là kẻ thù của Ngân Hoa Cốc, gia phụ vì nghĩ tiếc cho một thân công lực của lão nên mới chứa chấp lão trong cốc, và vì thấy lão võ công cao thâm nên Ngọc Phụng này mới gọi lão là thúc thúc, nhưng nếu lão dám giở trò ám muội gì, Ngọc Phụng cũng chẳng buông tha cho lão đâu.

Tây Môn Thất còn định phân bày, song thấy Dị Ngọc Phụng đã vung mạnh ngọn roi bạc trong tay, mặt đầy vẻ tức giận cất bước đi tới.

Tây Môn Thất ngoảnh mặt lại nhìn, bất giác hồn phi phách tán, thì ra Dị Ngọc Phụng đang đi về phía khe đá kia.

Mặc dù trong khe đá có bít một tảng đá to, song bởi Dị Ngọc Phụng đã được gần hết chân truyền của cha, tảng đá ấy chẳng thể nào ngăn cản được nàng ta, nhất định Lý Thuần Như sẽ bị phát hiện.

Tây Môn Thất bởi quá hồi hộp, bất giác buộc miệng nói:

- Tiểu thư hãy khoan.

Dị Ngọc Phụng ngoái lại cười khanh khách:

- Quả nhiên lão đã giấu hắn trong thạch thất của mình.

Tây Môn Thất ngớ người, giờ mới biết chẳng những võ công không bằng Dị Ngọc Phụng, mà ngay cả thông minh tài trí cũng kém xa nàng.

Dị Ngọc Phụng vốn không hề biết Lý Thuần Như ở đâu, song vì Tây Môn Thất nóng lòng lên tiếng, khác nào đã tố cáo nơi ẩn náu của Lý Thuần Như.

Tây Môn Thất thầm buông tiếng thở dài, chỏi tay xuống đất đứng bật dậy, chệnh choạng đi tới vài bước, đứng dựa vào gốc cây.

Chỉ thấy Dị Ngọc Phụng đi đến trước khe đá, ngọn roi bạc vung ra, “bộp” một tiếng, đã quấn vào tảng đá to kia.

Nhưng nàng ta chưa kịp vận kình lực kéo tảng đá ra, đột nhiên “ầm” một tiếng, tảng đá to ít nhất cũng ba ngàn cân đã bay ra phía ngoài.

Lúc bấy giờ Dị Ngọc Phụng đang đứng trước tảng đá, tảng đá đột nhiên bay tới với kình phong như bài sơn đảo hải, ập thẳng vào nàng ta.

Tây Môn Thất thấy vậy bất giác bật lên một tiếng thảng thốt, song Dị Ngọc Phụng công lực quả là kinh người, vẫn đứng yên và tay phải tung ngang, ngọn roi bạc liền kéo tảng đá sang liền ba thước, “ầm” một tiếng vang dội, tảng đá lún sâu xuống đất.

Nhưng nàng ta vừa kéo tảng đá sang một bên, bỗng trước mặt bóng người nhấp nhoáng, ánh kiếm loang loáng, chưa kịp nhìn rõ đối phương là ai, một thanh trường kiếm đã đâm tới trước ngực.

Dị Ngọc Phụng lanh lảnh quát:

- Khá lắm!

Hít mạnh một hơi, ngực liền lõm vào ba tấc, thanh trường kiếm kia đã hết đà, song mũi kiếm vẫn nghếch lên, “soạt” một tiếng, rạch toạc lớp áo ngoài trước ngực nàng ta ba tấc.

Dị Ngọc Phụng đỏ mặt, thuận thế vung roi quấn vào thanh trường kiếm, rồi thì kéo mạnh ra sau.

Người cầm kiếm lao ra vừa thấy vũ khí bị roi bạc quấn lấy, cũng liền kéo mạnh ra sau, thế là đôi bên không ai dành được ưu thế, cùng giật mình kinh hãi, vừa rồi động thủ chớp nhoáng, không người nào thấy rõ đối phương là ai, mãi đến lúc này mới có thời gian nhìn kỹ đối phương, cả hai cũng sửng người.

Dị Ngọc Phụng thầm reo lên:

- Ô, chàng trai này tuấn tú quá.

Thì ra người động thủ với nàng ta là một thanh niên tuổi độ trên dưới hai mươi, mặt vuông tai lớn, tướng mạo anh tuấn, nhưng dáng vẻ hết sức thiểu não, tay phải cầm kiếm, tay trái xách một người, chính là Lý Thuần Như.

Dị Ngọc Phụng liền quát:

- Tôn giá là ai?

Người thanh niên khẽ buông tiếng thở dài:

- Cô nương hãy để cho tại hạ rời khỏi đây, xin đừng hỏi nhiều.

Dị Ngọc Phụng ngớ người, thầm nhủ:

- Hay nhỉ? Ngân Hoa Cốc là nơi ai muốn tự do ra vào cũng được ư?

Chân khí vận chuyển, dồn nội lực vào cánh tay mặt, vận đến tám thành công lực, lại kéo mạnh ra sau, thanh niên kia liền loạng choạng chúi tới trước, song vẫn vung động trường kiếm trong tay, trong tiếng rít gió vun vút, điểm thẳng vào ba đại huyệt trước ngực Dị Ngọc Phụng.

Tây Môn Thất đứng bên xem, vốn cũng chẳng nhận ra lai lịch của thanh niên này, đến khi chàng thi triển chiêu kiếm ấy, Tây Môn Thất chợt động tâm, buột miệng nói:

- Ngươi... là gì của Bát Tiên Kiếm Đào Tử Vân? Sao lại biết Bát Tiên Kiếm pháp?

Dị Ngọc Phụng nghe Tây Môn Thất nói vậy, liền nới lỏng tay, kiếm và roi tách rời nhau ra, lách người sang bên tránh khỏi, đoạn lại đưa mắt nhìn đối phương, buông tiếng cười khẩy nói:

- Thì ra là các hạ.

Chàng thanh niên này chính là Đào Hành Khản, vừa thấy roi bạc không còn quấn lấy vũ khí mình nữa, chẳng nói chẳng rằng, liên tiếp tung ra bốn chiêu, ánh kiếm rợp trời, uy thế hết sức hung hiểm.

Song lần này Dị Ngọc Phụng đã có chuẩn bị, nhẹ nhàng lượn lách tránh khỏi, rồi thì nhắm thật chuẩn xác, ngón giữa búng ra như chớp, “choang” một tiếng, trúng ngay sống kiếm.

Bởi nàng ta đã dùng đến tám thành công lực, nên chỉ lực đã khiến Đào Hành Khản cảm thấy như ngàn cân nện vào thanh kiếm, bạt sang bên ngay.

Chàng vốn tay phải cầm kiếm, tay trái cắp Lý Thuần Như, trường kiếm vừa bị bạt ra, vùng ngực liền để lộ hoàn toàn. Dị Ngọc Phụng thừa cơ vung rơi, ánh bạc lấp loáng, đã xuyên qua nách Đào Hành Khản, đầu roi hệt như linh xà, bỗng ngoặt qua một vòng, quấn chặt vào ngực chàng.

Dị Ngọc Phụng giật mạnh, Đào Hành Khản cảm thấy xương ngực như muốn gãy vỡ, buông tiếng thét to, trở tay vung kiếm chép vào ngọn roi bạc, tuy chém trúng nhưng ngọn roi bạc chẳng chút suy suyển.

Đào Hành Khản thấy thế nguy, trường kiếm liền trượt theo thân ngọn roi, chém vào cổ tay Dị Ngọc Phụng, đó chỉ là tùy cơ ứng biến, không hề có chiêu thức, nhưng trong tình huống này, lại hết sức hữu dụng.

Dị Ngọc Phụng chẳng ngờ có vậy, không khỏi giật mình kinh hãi, trường kiếm đã chém đến, song chỉ nghe “keng” một tiếng, không trúng cổ tay Dị Ngọc Phụng, mà lại chém vào chiếc vòng ngọc đeo nơi cổ tay nàng ta.

Dị Ngọc Phụng thấy mình hết nguy hiểm, song cũng nhận thấy trường kiếm đối phương thật xuất thần nhập hóa, tuyệt đối không thể để cho đối phương giành lấy tiên cơ, vội lùi ra sau một bước, dùng sức kéo mạnh, chỉ nghe đối phương buông tiếng thét vang, một kiếm bổ tới thật hung hãn.

Thế nhưng, ngọn roi bạc của Dị Ngọc Phụng đã trở thành một chiếc vòng thắt chặt vào ngực Đào Hành Khản, khi kéo mạnh càng siết chặt hơn, khiến chàng cơ hồ ngạt thở.

Đào Hành Khản vội vận chân khí chống lại, chiêu kiếm chém xuống đã như tên hết đà, kiếm thế xiêu vẹo, không còn ra kiếm pháp gì nữa.

Dị Ngọc Phụng tay trái vung lên, năm ngón co lại, ngón giữa nhô ra gõ mạnh vào sống kiếm, lại nghe “keng” một tiếng, thanh trường kiếm đã bay bổng lên không.

Dị Ngọc Phụng cười đắc ý:

- Thất thúc, thân thủ của Ngọc Phụng thế nào? Cũng tạm được đấy chứ?

Dứt lời, cổ tay phải trì xuống, đầu roi bỗng cất lên, điểm trúng huyệt Kiên Tỉnh của Đào Hành Khản, đoạn mới rút roi ra, lùi ra sau ba bước, thần thái hết sức ung dung.

Tây Môn Thất xem thấy thân thủ Dị Ngọc Phụng, mặc dù có thâm thù với Dị Cư Hồ và biết rõ tâm địa Dị Ngọc Phụng rất tàn ác, sau khi thủ thắng nhất định không khách sáo với mình và Lý Thuần Như, song cũng không khỏi thật lòng khen:

- Thân thủ tuyệt vời.

Đào Hành Khản tuy bị phong bế huyệt đạo, song vẫn còn nói được, vừa vận chân khí vừa nói:

- Cô nương khống chế tại hạ ở đây là có ý định gì?

Dị Ngọc Phụng nhoẽn miệng cười:

- Bổn cô nương thấy tôn giá diện mạo khá giống Đào Lâm, lại biết sử dụng Bát Tiên Kiếm pháp, phải chăng tôn giá chính là Đào Hành Khản, đã sát hại Lý Bảo tại Đông Xuyên, đang lẩn trốn trên chốn giang hồ? Bổn cô nương có đoán lầm chăng?

Đào Hành Khản nghe đối phương chỉ xuất danh tánh mình, bèn nhắm mắt lại không nói gì nữa.

Dị Ngọc Phụng mừng rỡ:

- Quả nhiên tôn giá chính là Đào Hành Khản, đúng là đi mòn giày sắt tìm chẳng thấy, gặp được lại chẳng tối chút công sức nào.

Đào Hành Khản liên tiếp vận hai lượt chân khí, đã sắp giải khai được huyệt đạo, cố ý kéo dài thời gian để vận lượt chân khí thứ ba, bèn mở mắt ra hỏi:

- Cô nương là ai? Tìm tại hạ có việc gì?

Dị Ngọc Phụng dùng roi bạc điểm huyệt đều là với nội gia chân lực đẩy ra, nếu nội công chưa đạt đến trình độ lư hỏa thuần thanh thì không thể nào dùng chân khí bản thân giải khai được, song vì Dị Ngọc Phụng đã nhận ra đối phương chính là Đào Hành Khản, con trai của Bát Tiên Kiếm Đào Tử Vân, có điều cần hỏi chàng, nên chỉ xử dụng ba thành công lực để chàng còn nói được, chính vì vậy đã tạo cơ hội cho Đào Hành Khản. Nàng ta đâu biết đối phương công lực thâm hậu, chẳng kém nàng ta là bao, có thể vận dụng chân khí xông phá huyệt đạo, bèn tủm tỉm cười nói:

- Đương nhiên là có việc rồi. Xin hỏi, lệnh tôn và lệnh đường hiện đang ở đâu?

Đào Hành Khản buột miệng đáp:

- Không biết!

Dị Ngọc Phụng hai mắt rực tinh quang:

- Tôn giá tỉ thí kiếm pháp với Lý Bảo, vì sao bỗng dưng lại giết chết y, phải chăng là vì...

Nàng ta vừa nói đến đó, Đào Hành Khản đã vận hành xong lượt chân khí thứ ba, bất thần vung tay, ba đốm sáng vàng nhanh như chớp bắn thẳng vào ngực và bụng Dị Ngọc Phụng, đồng thời tung mình lướt nhanh sang bên.

Dị Ngọc Phụng khi đối thoại với chàng đứng cách nhau rất gần, không bao giờ ngờ đến Đào Hành Khản lại tự giải khai được huyệt đạo và phóng ra ám khí, võ công nàng ta có thể tranh cao thấp với bất kỳ cao thủ võ lâm nào, nhưng trong tình huống này cũng không khỏi luống cuống, toan vung roi đỡ gạt thì đã không còn kịp, đành lẹ làng giở ra thế Thiết Bản Kiều, hai chân co lại ngã ngửa ra sau song song với mặt đất.

Ba ngọn ám khí “vút vút vút” lướt qua trên người nàng ta, chỉ cách chừng một tấc, thật là nguy hiểm trong đường tơ kẽ tóc.

Dị Ngọc Phụng bừng lửa giận, khi đứng thẳng người trở lại thì Đào Hành Khản đã vọt ra xa hơi hai trượng, hạ chân xuống ngay cạnh thanh trường kiếm đã bị Dị Ngọc Phụng đánh bay đi khi nãy và lập tức vung chân đá bay đi. Trường kiếm bay vút đi như một vệt sáng bạc, chàng lại phi thân cũng nhanh như trường kiếm, lại vọt ra xa hơi hai trượng, đã đến cửa cốc, đưa tay đón lấy thanh trường kiếm rồi tiếp tục phóng vút đi.

Dị Ngọc Phụng quát to:

- Họ Đào kia, đừng chạy!

Rồi nàng phi thân đến bên bạch mã, tunh mình lên yên, “vút” một roi quất vào mình ngựa, toan với thần câu đuổi theo Đào Hành Khản, bỗng nghe Tây Môn Thất lớn tiếng nói:

- Tiểu thư, không nên đuổi theo!

Dị Ngọc Phụng chau mày buông tiếng cười gằn:

- Hừ, lão với hắn đều là cá mé một lứa, bổn cô nương đuổi bắt được họ xong, sẽ quay về tính toán với lão sau.

Trong khi nói, bạch mã đã phóng đi gần bốn trượng.

Tây Môn Thất vội nói:

- Tiểu thư, đó là lão phu lo cho tiểu thư thôi, tiểu thư đã nhìn rõ ba ngọn ám khí kia là gì chưa?

Dị Ngọc Phụng giật mạnh dây cương, cả người lẫn ngựa hệt như một luồng sáng trắng, từ xa nói với lại:

- Mặc kệ đó là ám khí gì, Ngọc Phụng này quyết phải đuổi theo bắt hắn cho bằng được.

Vừa dứt lời, người và ngựa chỉ còn là một đốm trắng nhỏ, và rồi thoáng chốc đã mất dạng.

Tây Môn Thất buông tiếng thở dài, dùng đao chỏi đất làm gậy, đi tới hơn trượng, cúi xuống nhặt lấy ba vật lấp lánh ánh vàng trên mặt đất.

Đó chính là ba ngọn ám khí do Đào Hành Khản ném ra, Tây Môn Thất để trên lòng bàn tay, thì ra ám khí ấy hình dáng rất kỳ dị, toàn bộ đều bằng vàng, dài hơn một tấc, nhưng râu vuốt đúng là một con rồng.

Tây Môn Thất cầm ám khí trong tay, lại nhìn ra ngoài cốc, buông tiếng thở dài thậm thượt. Vừa định bỏ ba ngọn ám khí tiểu kim long vào ngực áo, bỗng nơi cửa cốc bóng người thấp thoáng, Linh Xà tiên sinh lại xuất hiện nói:

- Tây Môn Thất, kẻ gặp là phải có phần.

Tây Môn Thất đưa ngang đơn đao:

- Linh Xà tiên sinh, trong tay Tây Môn mỗ đang có ba con tiểu kim long này, chả lẽ tôn giá còn dám động thủ ư?

Linh Xà tiên sinh quét mắt nhìn quanh, cười hề hề nói:

- Trong cốc hiện không còn ai khác, cho dù lão phu giết chết ngươi thì ai mà biết được?

Tây Môn Thất mặt chẳng chút sợ hãi, cười ha hả nói:

- Linh Xà tiên sinh, tôn giá ẩn cư nơi Tây Vực biết bao an nhàn tự tại, hà tất nhúng tay vào việc tranh đoạt tàn sát trong giới võ lâm làm gì? Chủ nhân của tiểu kim long này thần xuất quỷ mật, chẳng gì mà không biết, tôn giá muốn qua mặt ông ấy thật còn khó hơn lên trời.

Linh Xà tiên sinh biến sắc mặt, trong lòng cũng không khỏi khiếp hãi, song lập tức lấy lại bình tĩnh nói:

- Tây Môn Thất, ngươi đã đến ngày tận số rồi, huênh hoang khoác lác thì lợi ích gì chứ?

Nói đoạn lão tiến tới hai bước, con rắn xanh trong tay đang bò sát đất đột nhiên quét ra trúng ngay cổ chân Tây Môn Thất.

Tây Môn Thất vốn đã thọ thương rất trầm trọng, cố gắng dùng đao chỏi đất mới đứng vững được, vừa bị quét trúng lập tức ngã lăn ra đất.

Linh Xà tiên sinh sấn tới trước, giơ chân định giậm xuống ngực đối phương. Tây Môn Thất bỗng thấy thấp thoáng bóng ba người từ ngoài phóng nhanh vào, mừng rỡ lạnh lùng nói:

- Có người đến kìa.

Linh Xà tiên sinh lúc này cũng đã nghe thấy tiếng bước chân, bất giác giật mình.

Tây Môn Thất lập tức vung tay, ném ba con tiểu kim long ra ngoài.

Ngay khi ấy, ba người bên ngoài cũng đã vào đến, chính là Tát Thị Tam Ma, vừa thấy ánh vàng lấp lóa, rơi xuống đất lại là ba con rồng vàng nhỏ, cùng mừng rỡ reo lên:

- Thông Thiên Bữu Long!

Đoạn lập tức lao về phía ba con tiểu kim long. Linh Xà tiên sinh vừa thấy Tát Thị Tam Ma đến nhặt ba con tiểu kim long, hốt hoảng lên tiếng nói:

- Khoan đã!

Chẳng màng sát hại Tây Môn Thất nữa, lão quay người như cơn gió lốc, liên tiếp bảy tám vòng đã đến gần Tát Thị Tam Ma, con rắn xanh trong tay phát ra tiếng kêu “chít chít” quái dị, nhằm ba người lăng không quét ngang tới.

Tát Thị Tam Ma kêu lên một tiếng quái dị, cùng tung người ra xa, song lại lập tức lao tới bao vây Linh Xà tiên sinh vào giữa, bốn người động thủ giao chiến ngay, bóng rắn xanh ngang dọc, quả là một cuộc ác chiến hy hữu.

Tây Môn Thất thấy bốn người đã động thủ, đưa mắt nhìn ba con rồng vàng nhỏ nằm im lìm dưới đất, lòng hết sức phân vân do dự. Ba con rồng vàng ấy chính là vật hằng ao ước của bất kỳ những ai học võ, hiện đang ở cách mình không đầy bốn trượng xa. Nhưng ông cũng biết rất rõ, nếu mình đến nhặt ba con rồng vàng ấy, bốn người đang giao chiến để tranh giành nhất định sẽ ngưng tay và cùng kéo đến giáp công mình. Có nghĩa là mình tuy có thể cầm trong tay ba con rồng vàng kia, nhưng lại phải chết trong Ngân Hoa Cốc, cho dù tất cả bảy con rồng vàng trong lời đồn đại đều lọt vào tay mình thì phỏng có ích gì?

Tây Môn Thất thừ ra ngẫm nghĩ hồi lâu, quyến luyến ném cho ba con rồng vàng cái nhìn sau cuối, vẫn với đao thay gậy, chậm chạp đi ra ngoài cốc.

Bốn người đang giao chiến không hề chú ý đến hành động của Tây Môn Thất, với võ công của Tát Thị Tam Ma mà liên thủ đối phó với một mình Linh Xà tiên sinh, lẽ ra họ đã thắng từ lâu, song vì một là Tát Đằng và Tát Băng chân bị thương mới lành, dầu sao cũng có phần bất tiện, hai là Linh Xà tiên sinh nhất quyết giành lấy bằng được ba con tiểu kim long, cho nên lão với mười thành chân lực nắm chặt lấy đuôi con rắn xanh bóp mạnh.

Con rắn xanh bị đau, hung tính bộc phát, Linh Xà tiên sinh chỉ cần nhẹ động cổ tay là con rắn xanh kia tự nhiên tung ra những chiêu thức thần diệu khôn cùng, con người khó thể sánh kịp, khiến Tát Thị Tam Ma không dám thẳng thừng tiếp xúc, vì vậy ba địch một mà cũng chỉ ngang ngửa nhau.

Tây Môn Thất một mình ra khỏi Ngân Hoa Cốc, xa xa hãy còn trông thấy bụi mù bốc cao, nghĩ là Dị Ngọc Phụng vẫn còn đang đuổi theo Đào Hành Khản, lão buông tiếng thở dài, chầm chậm rẽ sang bên tìm chỗ điều thương.

Giờ nói về Đào Hành Khản với thân pháp cực nhanh rời khỏi Ngân Hoa Cốc, Dị Ngọc Phụng giục ngựa đuổi theo sau. Đào Hành Khản hồi mấy tháng trước võ công còn chưa đăng đường nhập thất, nhưng sau biến cố ở nhà Diêm Phùng Hiểu, chàng đã gặp kỳ ngộ nên võ công tiến triển khá nhiều, bằng không lúc nãy trong Ngân Hoa Cốc, trường kiếm của chàng đã bị roi bạc của Dị Ngọc Phụng quấn lấy, mỗi người ra sức kéo mạnh, cũng chẳng thể nào giữ được thế quân bình với Dị Ngọc Phụng.

Tuy nhiên, lúc này chàng đang cắp Lý Thuần Như dưới nách, và ngựa của Dị Ngọc Phụng lại là tuấn mã ngày đi ngàn dặm, sau năm sáu nặm đường đã rút ngắn khoảng cách.

Đào Hành Khản ngoái lại nhìn, thấy Dị Ngọc Phụng cả người lẫn ngựa bay bổng khỏi mặt đất, khoảng cách chỉ còn bốn trượng nữa thôi, biết chẳng thể nào thoát thân được, bèn tung mình sang bên chừng ba trượng, quay người đưa ngang trường kiếm trước ngực nói:

- Dị cô nương, chúng ta không thù không oán, vì lẽ gì cô nương lại một mực dồn ép thế này?

Trong khi nói, Dị Ngọc Phụng đã đến nơi, tay trái nhẹ chỏi trên yên ngựa, nhẹ nhàng tung mình xuống ngay trước mặt Đào Hành Khản, buông tiếng cười khẩy, trỏ Lý Thuần Như nói:

- Tôn giá tự ý xâm nhậm Ngân Hoa Cốc đã là tội lớn, huống hồ còn lại cướp người này mang đi?

Đào Hành Khản buông tiếng thở dài nói:

- Dị cô nương, quả tình là vạn bất đắc dĩ tại hạ mới phải làm như vậy, nếu cô nương có thể nương tay cho, tại hạ cũng không muốn động thủ với cô nương, đôi bên đều có lợi.

Dị Ngọc Phụng cười khẩy:

- Sao? Động thủ chả lẽ bổn cô nương sẽ thua thiệt ư?

Đào Hành Khản mấy máy môi, như định nói gì đó lại thôi, thoái lui một bước đoạn nói:

- Nếu Dị cô nương muốn động thủ thì xin hãy thí chiêu.

Dị Ngọc Phụng thông minh dường nào, sớm nhận ra Đào Hành Khản như có điều gì muốn nói. Nàng ta tuy rất căm giận Đào Hành Khản đã tự ý xông vào Ngân Hoa Cốc và cướp đi Lý Thuần Như, vừa rồi lại còn phóng ám khí suýt nữa đã khiến nàng thọ thương, nhưng sau vụ Đào Hành Khản tỉ võ và hạ sát Lý Bảo, giới võ lâm ai cũng biết, Đào Hành Khản cũng đã trở thành một nhân vật thần bí trong giới võ lâm.

Dị Ngọc Phụng lúc cứu Lý Thuần Như và Đào Lâm từ trong tiêu cục ra, tưởng đâu Lý Thuần Như là Đào Hành Khản, nhưng cuối cùng lại không phải. Lúc này, nàng ta cũng rất muốn tìm hiểu xem chàng thanh niên anh tuấn nhưng sầu tư này thật ra có những tâm sự gì, nên tiến tới một bước và hỏi:

- Vừa rồi tôn giá định nói gì, vì sao lại không chịu thẳng thắn nói ra?

Đào Hành Khản kinh ngạc, như bởi Dị Ngọc Phụng đã hiểu ra tâm sự của mình, bèn thở dài nói:

- Dị cô nương, nếu thật sự động thủ, có lẽ tại hạ không địch lại cô nương, nhưng... nếu cô nương sát hại tại hạ, sẽ rước lấy một kẻ địch hết sức lợi hại, rằng ngay cả lệnh tôn cũng chưa chắc đã dám trêu vào người ấy.