"Mình mới được tin thằng Vịnh bị bắt".
"Bị bắt…"
Tôi ngừng đọc và gập trang sách lại.
"Nó đi thế nào mà đến Phùng thì bị lọt. Nó định đi từ đó xuống Chương Mỹ sang Trầm đi Bương Cấn. Nhưng vừa ở xe bước xuống nó bị tóm vì khả nghi. Mình tính mai đi thăm nó xem thế nào".
"Sao không mặc nó?"
"Sao lại mặc? Cậu có quen ai ở đấy không? Quận Đan Phượng đó".
Tôi mở trang sách đọc dở rồi cứ để nguyên mà nhìn vào đó.
"Lại để cho bị bắt. Đồ tồi".
"Nó trông thấy lạ mặt thì bắt chứ gì. Tụi nó đóng đồn quen mặt từng người dân chứ cậu tưởng. Nó thấy lạ là sinh nghi ngay. Nó bị thì nguy lắm, rồi không chịu được mà phun ra tiểu tổ ở thành, nhớ tên ai khai tên ấy thì chết cả đống. Mình tìm cậu mấy ngày không gặp. Thế sao địa chỉ để ở hàng Than mà không có, đón ở trường cũng không. Bây giờ ở đâu?"
"À ở…"
Tôi tìm cách lảng sang chuyện khác. Tôi biết việc giấu nhà nhiều khi thật phiền phức, nhưng tôi không biết tính sao. Địa chỉ ở hàng Than là nhà một người quen. Khi Trương nhắc đến chuyện Vịnh tôi thấy bận tâm. Tôi chợt nhớ đến một người bạn cũ tên là Trần Văn Hoàng, cách không lâu tình cờ gặp nhau anh ta cho biết hiện đang làm thư ký ở Đan Phượng. Một điều không ngờ, rất có thể tôi sẽ nhờ được Hoàng. Tôi nói với Vịnh điều đó rồi dặn:
"Sáng mai đi, bến xe Kim Mã 8 giờ, chờ mình ở đó, đi đâu hồi này tôi lo lắm, vô phúc gặp xe nó bắt lính ẩu thì cứ yên tâm mà được đưa đi liền. Có gì lạ không?"
"Chán nản. Không còn múi chúi mũi vào mấy xác chết nữa".
"Vậy thì làm gì? Nên yên phận cho xong".
"Muốn bay nhảy".
"Bay nhảy? Thì ra ngoài như thằng Vịnh. Bây giờ chúng mày cũng muốn đi đến kết luận đó. Tham gia vào những chuyện bí mật ở thành chẳng qua là chúng mày có cái mặc cảm với kháng chiến. Thấy công việc có nhiều người đang làm mà không thấy có mình ở trong thì cho mình là bị bỏ rơi, là cái thành phần chống lại. Nghĩa là muốn đứng vào một đám đông để những rung động lớn thấy mình được che chở. Riêng mình thấy không cần thiết. Dù sao chúng ta bị khép lại ở giữa nhưng không bắt buộc chúng ta phải đứng vào phía nào".
"Nhưng nó là đám đông. Có lẽ thằng Vịnh nói đúng".
"Nhưng rồi nó thế nào? Lịch sử sẽ chuyển như thế nào?"
Trương bỏ lửng câu hỏi, chúng tôi đứng lên đi dạo trên những lối đi nhỏ. Trời tháng Tư oi bức. Tôi nhớ về những người thân của Trương nên hỏi:
"Thu hắn thế nào, hôm trước nó bỏ nhà quê ra đây phải không?"
"Nó ra bảo mình thu xếp để nó và thầy mình ra ở đây. Ở nhà quê không chịu nổi. Sống một cổ hai ba tròng. Ban ngày thì tụi Pháp nhờ bọn chức dịch cai trị bòn mót đè ép dân, nào phu phen, thuế má, tụi ba-ti-giăng quấy phá, xách nhiễu bóc lột, đêm thì thu mình về đồn cố thủ, tụi du kích theo bóng tối trở về thu thuế, học tập, bắt cóc. Thật không còn khổ nào hơn. Tụi ở đồn được mật báo tới nơi thì nó lại đi rồi, còn lại mấy thằng dân bị tra khảo đánh đập muốn làm ăn yên phận cũng không được. Năm trước Pháp về càn quét bắn chết mẹ mình. Mình cũng muốn mang thầy và em mình ra đây cho xong. Nhưng ở đây thì đã hẳn gì yên ổn…, và đời sống nữa".
"Đáng ra những chuyện đó mình không phải lo, nhưng sự thật nó bắt ngó vào… tuổi trẻ… người ta sống thản nhiên cả đó…"
"Cái thản nhiên bẩn thỉu, trưng diện, xa hoa, cười đùa bên những xác chết. Cậu khuyên mình như vậy sao?"
"Mình không trách họ. Có lẽ họ chán chiến tranh quá rồi, nên nếu có cơ hội thì họ cố gắng để quên… Đáng ra phải làm gì chứ…"
"Làm gì?"
"Thì chính mình cũng tự hỏi như thế. Không có lý tưởng nào say mê được mình mà cái gì cũng như tạm bợ. Mình đã không có hay là đã bị mất đi một cái gì. Mình muốn đi tìm lại cái đó".
"Có lẽ tại sách vở, có lẽ phải sống đã…"
Câu chuyện bao giờ cũng say mê tưởng như không dứt, tất cả là những thắc mắc nêu ra, nhưng tuyệt nhiên không ai nghĩ đến chuyện giải quyết - hay không thể trả lời được.
Đời sống của Trương chật vật và lúc nào cũng bất mãn. Là con một điền chủ giàu có, chủ mấy lò gạch ở Văn Điển. Đời sống sung túc xưa kia ở quê nhà cho Trương chứng kiến sự nghèo khổ, nhọc nhằn và bất mãn của kẻ nghèo. Chiến tranh tàn phá nhà cửa, ruộng vườn, của cải. Bố và em Trương không có nhiều hoa lợi. Trương bỏ quê ra tỉnh sống tự lập, học hành. Nhưng đến khi có thêm những trách nhiệm nhỏ thì Trương lúng túng nhất là trong đời sống khó khăn hiện tại. Có lẽ tất cả những thằng trong chúng tôi đều như vậy. Chúng tôi đi ngược ra đầu đường Quan Thánh. Buổi chiều đang soi sáng trên mặt hồ Tây. Từ đó tôi đi theo đường Cửa Bắc trở về hàng Đậu. Trương rủ tôi xuống ngồi ở một quán cà phê ở Ngõ Trạm. Buổi chiều tái dần. Dưới ánh đèn mờ mờ tôi soi mặt vào ly cà phê: những bóng tối sóng sánh trên một khuôn mặt buồn thảm. Trương đốt thuốc thở lên trần nhà. Chúng tôi im lặng cho đến lúc chia tay. Tôi lủi thủi theo Đường Thành trở về. Thành phố chỉ vui lên một chút buổi tối rồi tắt ngay. Con đường chạy ven Thành không còn ai. Tiếng gõ của hàng sực tắc điểm vào cái yên lặng ngây ngất. Mấy tiệm khiêu vũ ở Cửa Đông ồn ào tụi lính Tây say rượu. Chúng ca hát và gọi nhau vang động. Lũ phu xe chầu chực rước khách… tôi vừa định rẽ sang Cống tréo hàng Lược thì nghe thấy tiếng hô đứng lại trong bóng tối. Hai người lính sen đầm cầm súng chĩa vào người, soi đèn pin vào mặt đòi xem giấy và khám xét.
"Anh đi đâu giờ này?"
"Tôi đi thăm một người quen".
"Anh quên đường này cấm đi lại sớm".
"Xin lỗi vì tôi không được rõ".
Một đứa vuốt người tôi, suốt từ đầu đến chân. Tôi nghe thấy tiếng kêu của đàn bà phát ra ở một góc tối nơi ven cầu. Tôi rùng mình rảo bước. Tôi rẽ vào ngõ Gậm Cầu. Ngay đầu ngõ tôi trong thấy đứa con gái Tàu lai ở căn nhà bên tôi. Nước da nó trắng, người lẳn có đôi vú chắc và tròn. Một lần trông thấy nó tắm, tự nhiên tôi thèm muốn được ngủ với nó. Tôi trông thấy cái thân hình khêu gợi ấy thường ngày. Tôi trở vào nhà. Ông tôi đang cất hộp tiền vào tủ. Ông nhìn tôi không nói gì. Lũ em đang nghịch thấy tôi vội im lặng lui ra mỗi đứa một nơi. Tôi hỏi thím tôi:
"Có tin gì của chú không ạ?"
Tôi không nghe thấy tiếng ai trả lời. Tôi ngồi vào ăn cơm nghe tiếng bát đĩa khua động. Con chó ngồi ở bên ông tôi.
Tôi lên gác chong đèn đọc sách. Tôi nhớ những điều về Vịnh rồi thiếp đi.
Sáng hôm sau tôi trở dậy mặc quần áo xuống nhà, những đứa em vẫn chưa trở dậy. Ông tôi nằm trong màn ho khan. Tôi cầm tay đứa em nhỏ đau ở trong màn và nói với thím tôi.
"Trưa cháu không ăn cơm ở nhà. Hôm nay thứ Bảy có lẽ chú về".
Tôi hé cánh cửa ra ngõ rồi khép nhẹ lại. Đứa con gái Tàu lai đã trở dậy đang vươn mình tập thể thao. Tôi tự hỏi: Sao không dám ôm lấy nó?
Tôi ra phố rồi ăn bánh cuốn. Ớt và dấm chua làm tôi chảy nước mắt, tôi suýt soa như trời rét, bà hàng nhìn tôi mỉm cười.
Tôi đi xe điện xuống bờ hồ, rồi lên tiếp xe điện ra Kim Mã. Trương đợi tôi ở ngay quán phở đầu bến xe. Tôi nhìn thấy những bộ mặt của lũ gái làm tiền ngồi ở đấy. Ăn xong tôi ra đường uống một cốc nước chè tươi nóng. Buổi sớm thắp lên một điếu thuốc, trời dịu và êm đềm lạ. Lúc đó tôi nghe tiếng kẻng ở trong nhà Tiền đổ hồi, cánh cổng mở rộng và một đoàn xe tù binh đi ra, những người nhà quê đủ già trẻ chen nhau trong lòng xe, bên những mũi súng gắn lưỡi lê tua tủa. Xe phóng nhanh, còi kêu inh ỏi, khói phun và bụi tung đầy làm tôi như muốn ngạt thở. Bến xe vắng, người phu xe tâm sự:
"Không có người đi. Chỉ toàn người chạy về thành phố. Buôn bán không có nên xe chạy không đủ ăn, chuyến đi nhiều khi không có ai. Bỏ ruộng bỏ vườn về đây rồi thóc gạo đâu mà ăn. Cơ này không chết vì bom đạn rồi cũng đến ăn thịt nhau mà chết…"
Trong chuyến xe tôi và Trương đi chỉ có thêm một người về đến Diễn là xuống. Chúng tôi đi hết đường; khi xe ra khỏi Cầu Giấy phải dừng để khám. Ở đây chúng tôi thêm một ông cụ làm bạn đường.
Chuyến xe chạy nhanh giữa những đồng ruộng. Chúng tôi ngó thấy những đồn binh có ụ cao, cột cờ vươn lên. Qua bốn trạm gác chúng tôi về tới Phùng. Đồng hồ của Trương chỉ 10 giờ, trong suốt lúc xe chạy mọi người trong xe đều bận suy nghĩ riêng không ai muốn nói một lời; tôi được dịp quan sát quang cảnh nhà quê sau cơn loạn, những sinh hoạt nằm bên trục giao thông chính Hà Nội - Sơn Tây. Chúng tôi bước xuống bến xe trong vẻ tiêu điều ở đó.
Những con đường đá xưa kia bây giờ trở thành đất, từng ổ gà lớn, những con đường này trong khi Pháp tấn công đã bị phá hủy bằng những hầm hố, ụ đất. Về sau được san phẳng thì những bánh xe lớn, xe tăng chà nghiến khiến, mặt đường bị những chuyến xe nhà binh chạy hoài hoài. Những người nhà quê đương sợ sệt tránh vào những hiên chợ.
Tôi bảo Trương:
"Chúng mình đi xuống dưới này một chút đã".
Chúng tôi đi coi quanh một vòng, xưa kia đây là một huyện lỵ, nay thành quận với các cơ quan hành chính và quân sự. Sự tan hoang hiện rõ ở bề ngoài. Đình, chùa, miếu mạo đều trở thành đồn bót.
Trương nói:
"Ở đây chỉ qua sông Đáy đã là miền không kiểm soát được rồi. Tây chỉ ở bên này sông và những con đường chính, từ đây xuống ngã ba Thá còn lộn xộn lắm, dù là đồng bằng. Chúng tôi ghé vào một quán nước ăn bánh tẻ rồi mới trở vào. Quận lỵ đặt ở một ngôi đền chung quanh có bốn năm đồn canh cao bao bọc những dãy nhà tôn bằng hàng rào dây thép gai và hào nước. Chúng tôi đến cửa quận thì có hai người lính chặn lại, tôi hỏi ông Hoàng.
Tôi nhận là em nuôi muốn gặp, người lính già dẫn chúng tôi vào quận. Đi qua một khoảng đất trống đầy cỏ hoang chúng tôi đến một dãy nhà tôn dài, người lính chỉ chúng tôi vào căn nhà đầu rồi lên tiếng:
"Có khách anh Hoàng ơi".
Từ ngoài cửa sổ tôi thấy Hoàng cởi trần ngồi trên ghế vải vặn máy hát, một bài ca cải cách vừa bắt đầu. Nghe tiếng gọi Hoàng đứng dậy ra ngoài và gặp chúng tôi.
"Ô kìa, ngọn gió nào đưa anh vào đây. May hôm nay tôi lại có mặt ở đây. Mời hai anh vào chơi".
Tôi giới thiệu:
"Đây là anh Trương. Đây anh Hoàng, đều là bạn cả".
Trương và Hoàng bắt tay nhau, chúng tôi kéo ghế ngồi xuống. Hoàng thu cái máy hát lại rồi cầm cái áo cánh mặc vào người:
"Các anh về chắc có việc gì?"
"Tôi có việc phiền anh".
"Ở đây buồn tẻ lắm. Một cái thứ "ven trời đất trích" mà".
Qua vài câu chuyện vặt tôi mới bắt đầu nói cho Hoàng nghe về chuyện Vịnh và nhờ Hoàng hỏi thăm hộ và nếu được thì giúp đỡ.
"Tôi làm ở đây thuộc về hành chính, còn sự bắt bớ an ninh thuộc về bên quân sự. Nếu có thì tôi có thể giúp đỡ được. Hai anh ngồi chơi để tôi xem thế nào".
Hoàng sốt sắng mặc quần áo rồi đi ngay. Tôi ngồi với Trương nhìn gian nhà vách ván lợp tôn. Nó là một thứ trại lính tạm bợ - có lẽ vì vấn đề an ninh nên được dùng làm chỗ ở cho những viên chức và gia đình họ.
Tôi vặn máy hát nghe một bài cò lả và Hoàng trở lại lúc đó.
"May quá. Tôi nhận với trưởng đồn là bạn tôi. Có lẽ bị nhốt mấy hôm nên đòn đau. Tiếc quá tôi không được tin sớm hơn. Ở đây mà ai bị bắt thì thế nào cũng bị đánh… bổn phận họ…"
Chúng tôi theo Hoàng đi sang phía đồn đóng ở trên đê đối diện với quận. Chúng tôi đi men theo một con đường nhỏ dưới chân đê. Suốt dọc hai bên lối đi hàng rào dây thép gai và cỏ dại mọc đầy. Những lính Tây rạch mặt đen như cột nhà cháy vác súng đi đi lại lại phía trong và trên những chòi cao có đèn pha, những họng súng ngó xuống. Tôi có cảm tưởng đang ở một vùng trận địa nguy hiểm mà trận ác chiến có thể xảy ra bất cứ giờ phút nào. Cả ba người không nói gì. Trương lấy thuốc ra hút truyền cho Hoàng và tôi. Qua một cây cầu xi măng chúng tôi tới bót. Hoàng nói chuyện với người lính gác rồi dẫn chúng tôi theo vào trong bàn giấy, viên phó trưởng đồn người Việt tiếp Hoàng niềm nở. Hoàng giới thiệu chúng tôi. Chờ một lúc thì có hai người lính dẫn Vịnh lên. Người phó trưởng đồn phân trần:
"Rất tiếc là chúng tôi không được biết sớm ông đây là chỗ bà con quen biết và vô tội. Bây giờ vấn đề an ninh chung chúng tôi phải thi hành phận sự…"
Trông Vịnh gầy tọp hẳn đi - dù Vịnh đã gầy sẵn. Khuôn mặt hốc hác có vài vết thâm tím và đôi mắt trũng sâu. Chúng tôi ngầm hiểu một chuyện gì đau đớn. Khi đứng lên ra về hỏi đến mấy thứ đồ đạc của Vịnh thì không còn gì. Tôi cầm lấy vai và hỏi Vịnh:
"Có đủ sức để đi không?"
Vịnh không nói. Chúng tôi cảm ơn viên phó trưởng đồn rồi cáo từ. Chúng tôi trở lại nhà Hoàng cho Vịnh uống một ly sữa nóng và nghỉ một chút. Vịnh nói khi Hoàng ra ngoài:
"Chúng nó đi chinh phục kiểu này thì sẽ thất bại. Chỉ khổ tụi dân thôi".
Khi đứng bóng chúng tôi xin phép Hoàng ra xe trở về Hà Nội. Trên khoang xe Vịnh ho rũ, mệt mỏi, lả người vào tôi mà thở.
"Chưa làm được gì. Chưa đi đã bị nó tống cho một trận gần mất xác. Bao giờ lại đi?"
"Khỏi cần hỏi tao đi nữa, đừng dạy tao, không thể sống ở đây mà dương mắt nhìn như chúng mày".
Tôi đưa Vịnh về tận nhà, buổi tối tôi ngủ lại. Người đầu tiên nhìn thấy Vịnh mà chảy nước mắt là người mẹ già, rồi người chị gái. Tôi nói cho hai người nghe về Vịnh:
"Chúng con ở Phùng về, Vịnh yếu có lẽ phải uống thuốc".
Tôi ngồi ăn cơm nơi tấm phản nhỏ căn nhà ở phía bên trong ngõ Yên Thái buồn và vắng hẳn xuống. Vịnh ăn yếu và ho trên bữa ăn. Cả ba người đều ái ngại. Tôi nói: "Cũng may là họ chưa cho đi nhà Tiền, nếu không thì chưa biết đến bao giờ được ra, mà có khi chết bỏ xác".
Vịnh nín lặng và uất ức. Chị Huệ tâm sự:
"Đẻ chị đã bảo Vịnh ở lại với hai người thân duy nhất này. Thầy chị đã chết. Trong gia đình cần sự có mặt của người đàn ông. Đẻ chị đã nhiều tuổi, còn sống được bao nhiêu nữa. Nhưng Vịnh không nghe. Đã chẳng giúp gì cho gia đình, lại làm cho những người thân lo lắng bận bịu thêm".
Chị vừa nói vừa co vạt áo lau nước mắt. Tôi ái ngại.
"Bây giờ buôn bán khó khăn, chị nghĩ thật buồn. Hồi xưa làm ăn khó nhọc cho Vịnh đi học mong làm ra tiền giúp đỡ. Giá Vịnh đi dạy và học thêm thì có hơn không? Nhưng mỗi lần nghe chị nói Vinh lại quát ầm lên: con trai phải lo những chuyện lớn, chị tự nghĩ: chuyện nhỏ còn không làm được thì chuyện lớn sao làm? Em thử nghĩ xem".
Vịnh không nói gì, ăn xong bát cháo Vịnh lên giường nằm xoay mặt vào bóng tối.
Tôi cầm cái cối, giã trầu cho mẹ Vịnh. Tôi nhìn bàn tay nhăn nheo, những nếp nhăn nhằng nhịt, những ngón tay khô nhỏ mốc mếch lần nhẹ chuỗi hạt màu gụ trên tay. Tôi nghĩ đến bao nhiêu thời gian, đến những người mẹ như Vịnh đã bỏ ra để lần chuỗi hạt ấy bao nhiêu lần. Cái vòng tròn kết lại bởi những viên tròn nhỏ ấy. Nếu như nhẩm tính thời gian đằng đẵng nặng nề mà sự vất vả, chịu đựng, đau đớn đã dồn lên cả những ngày già cả còn sống sót lại này; như thế thật không còn gì can đảm hơn nữa.
Có bao nhiêu người mẹ đã mang cả thời son trẻ nuôi nấng các con lớn lên - để về sau cha mẹ không còn một chút quyền lực. Cuộc đời mở ra cho từng cánh chim. Bao nhiêu mong ước về tuổi già yên vui bên đàn con cháu - thời buổi này cũng mang đi cả rồi.
Sự buồn tủi đã là bao nhiêu dày vò mà những giọt nước mắt cũng không còn đủ đọng lại mà lăn trên gò má. Và có lẽ cũng không bao giờ còn hy vọng một ngày mai như quá khứ thần thánh của những người đã sống trước ngày tao loạn - cả cái quá khứ xa xăm và huy hoàng nay chỉ còn là một thứ thế giới để con người lẩn trốn cái thực tại đang vây lấy thân thể. Trong đôi mắt của mẹ Vịnh chừng như cũng đủ đầy nỗi tiếc thương đó. Bà mẹ dừng tay lần tràng hạt nói với tôi:
"Loạn lâu quá. Bác muốn ở nhà quê trông nom mồ mả tổ tiên. Nhưng ở đó cũng chả yên. Các con thì chật vật, giá như thanh bình thì Huệ nó cũng có gia đình rồi… nó vất vả quá".
"Vâng thưa bác, bây giờ thật không biết thế nào mà nói trước được. Cuộc sống khó khăn thêm mãi. Thật chúng cháu chưa biết gì là sung sướng".
"Không biết rồi có mau yên không, nhiều khi bác nghĩ thật chán. Có lẽ không trọn được đời người. Thằng Vịnh thì nó chả ngó ngảnh gì đến ai. Bác buồn quá…"
Khi tắt đèn đi ngủ, lên giường nằm một lúc lâu tôi thấy Vịnh trở mình. Tôi hỏi nhỏ:
"Chưa ngủ sao?"
"Chưa".
"Mình hỏi thật cậu - Vịnh! Có phải chúng ta bất cứ ai cũng phải gạt bỏ những ràng buộc nhỏ bé để trở thành kẻ phi thường chăng? Hay là chúng ta đang sống trong một cơn mê sảng bị chài ngải bởi những tên phù thủy".
"Mày tưởng…"
"Có thể cậu cho là sai lạc. Nhưng mình vẫn phải bày tỏ điều đó, còn sự chấp nhận thì chúng ta hoàn toàn vô thẩm quyền về nhau".
"Trách nhiệm thuộc về từng đứa, tao thừa biết như thế".
"Mình không tin. Trách nhiệm là trách nhiệm chung. Chưa hẳn là hỏng hết. Cá nhân không thể vượt ra khỏi những ràng buộc cố hữu chỉ trừ khi chúng ta tự lừa dối chúng ta. Hãy suy nghĩ để khỏi phải hối hận. Chúng ta không có một mái chuông nhà thờ nào để xưng tội và hối hận. Chắc biết như thế".
"Tao chán chường những điều của chúng mày rồi. Mày đừng kéo lịch sử trở lại nữa nếu không muốn bị vứt ra ngoài. Tao muốn có mặt trong thành phần những người tạo lịch sử mới…"
"Mình muốn nghĩ thêm một chút nữa về cái phần cá biệt của mỗi cá nhân - những phần riêng tư của nó khi nó bị đứng chung vào một hàng ngũ, mặc cùng một bộ đồng phục, chung một thứ tiếng nói. Nhưng cái gì bắt người ta nhất loạt phải suy nghĩ giống nhau nếu như không tự giả dối che đậy. Trừ khi tất cả những người ấy không còn là người nữa. Như thế thì mỗi kẻ đều có trách nhiệm - dù ở bất cứ đâu hay ở đây". Nói xong tôi thấy như tôi đã nói dối Vịnh - nhưng là một thứ lừa dối quá thành thật. Tôi đã nghĩ như thế. Riêng tôi cũng chưa làm được gì cho ai. Từ bao giờ vẫn tàn nhẫn với một người ông. Bất lực không giúp đỡ được cho chú thím và các em nhỏ. Tôi muốn có một gia đình như Vịnh, như thế tôi có thể giúp đỡ một người mẹ, một người chị. Chỉ có khung cảnh thuận tiện mới cho người ta có cơ hội để phát huy đức tính. Tôi biết tôi không được như Vịnh, như Thịnh say mê một cái gì mà dấn thân vào. Như vậy ít ra Vịnh sống cũng còn có mục đích, có công việc say mê cần thiết cho một đời sống. Tôi rơm rớm nước mắt nghĩ về bố và mẹ tôi.
Vịnh ho về khuya. Tôi ngoảnh mặt ra ngoài nhìn ngọn đèn dầu lạc thắp ở bàn thờ. Khoảng nửa đêm tôi nghe tiếng chó cắn, tiếng giầy đinh của một toán lính đi tuần. Tôi mở mắt nhìn bóng tối. Chị Huệ trở dậy sửa soạn gánh hàng tấm lúc đồng hồ hàng xóm đổ 5 giờ. Chị nhóm lửa nấu cháo. Bà mẹ Vịnh trở dậy thắp hương tụng kinh.
Tôi ăn cháo đường trước khi trở về nhà.
Tuần lễ tiếp theo tôi đi học đều - những ngày buồn kéo dài. Tôi cố học và quên đi nhiều điều. Chú tôi vẫn chưa về. Mỗi bữa đi học về tôi cầm tay đứa em bị đau và hỏi nhỏ thím tôi: "Chắc em vẫn như thế".
Ông tôi bị sốt, đứa ở đứng ở cửa bảo tôi:
"Cụ bị sốt. Cậu đi đón ông lang Canh cho cụ".
Tôi nhìn nó như quát: "Biết rồi".
Ông tôi nằm ở giường. Mùi thuốc bắc xông lên khắp nhà, ông tôi yếu hẳn, vuốt những đồng bạc chậm chạp miệng không còn muốn chửi bới về mấy người góp tiền thiếu, tuyệt nhiên tôi cũng không muốn hỏi han. Tôi nhớ một điều: quát cho những đứa em ngồi từng chỗ riêng và im lặng.
Buổi chiều tôi ngồi trên gác học, khi mệt thì nằm ngủ, có một buổi trưa tôi nằm mê thấy bố tôi về trợn mắt mà hỏi: "Mày cũng điên sao?".
Tôi vừa định mở miệng cất tiếng phân trần thì sực tỉnh dậy, thân thể mệt mỏi, ê chề như hâm hấp sốt. Mỗi bữa cơm tôi trở xuống ngồi bên mâm và thấy mặt từng người.
Có đêm nằm không ngủ được tôi định mở cửa sang nhà con bé Tàu lai. Lòng rạo rực thèm muốn, tôi trở dậy mở cửa, khi nhìn lên mặt cầu có người lính gác vác súng đi thì rùng mình. Tôi đứng ở cửa nhìn sang lò thịt quay ở mé bên kia gậm cầu, lò than đang đỏ rừng rực và mùi mỡ cháy bốc thơm phức. Tôi nuốt nước bọt trở vào nhà.