Mỗi sáng, tôi đến gần Holland Park để viết và thế là tôi không còn ở London nữa, mà ở trước ga Bắc và bước đi dọc theo đại lộ Magenta. Giờ đây, ba mươi năm sau, ở Paris, tôi tìm cách thoát khỏi cái tháng Bảy năm một nghìn chín trăm chín mươi tư này để trôi về phía mùa hè năm ấy, khi cơn gió nhẹ dịu dàng ve vuốt tán lá cây trong Holland Park. Bóng râm và ánh nắng tương phản mạnh tới nỗi tôi không bao giờ còn được thấy lại điểu gì tương tự nữa.
Tôi đã thành công trong việc rũ bỏ ảnh hưởng của Blackpool Sunday, nhưng tôi thấy biết ơn Michael Savoundra vì đã gây nên ở tôi một cái gì giống như gây lửa. Tôi hỏi Linda xem có thể gặp anh không. Một tối, chúng tôi gặp lại nhau, anh, Jacqueline, Linda và tôi, ở quán Rio khu Notting Hill, một nơi có nhiều người Jamaica lai vãng. Tối hôm ấy, chỉ có chúng tôi là người da trắng, nhưng Linda biết rất rõ quán này. Chính đây, tôi nghĩ thế, là nơi cô kiếm được cần, mùi của nó tẩm đẫm các bức tường căn hộ của cô.
Tôi nói với Savoundra rằng tôi đã chữa các lỗi tiếng Pháp trong phần kịch bản của anh diễn ra ở Saint‒Germain‒des‒Prés. Anh lo lắng. Anh tự hỏi Rachman có cho anh tiền không và chẳng biết có phải tốt hơn hết là nên liên lạc với các nhà sản xuất bên Paris. Họ thì vốn luôn luôn sẵn sàng tin tưởng “những người trẻ tuổi”...
‒ Nhưng có vẻ như Rachman cũng yêu quý những người trẻ trung mà, tôi nêu nhận xét.
Và tôi nhìn Jacqueline, nàng mỉm cười vói tôi. Linda nhắc lại, vẻ tư lự:
‒ Đúng thế... Ông ấy yêu quý những người trẻ trung...
Một anh chàng Jamaica chừng ba mươi tuổi, nhỏ con, dáng vẻ như nài ngựa, đến ngồi bên cạnh cô. Anh ta quàng tay qua vai cô. Cô giới thiệu anh ta với chúng tôi:
‒ Edgerose...
Tôi còn nhớ tên anh ta, qua suốt chừng ấy năm. Edgerose. Anh ta bảo rằng anh ta rất vui vì được gặp chúng tôi. Tôi nhận ra cái giọng trầm đục của người gọi Linda sau cánh cửa, trong phòng cô.
Và đúng vào lúc Edgerose nói với tôi rằng anh là nhạc công và vừa đi diễn bên Thụy Điển về, Peter Rachman bỗng xuất hiện. Ông bước về phía bàn chúng tôi, ánh mắt đăm đăm chĩa ra từ sau cặp kính đồi mồi. Linda thoáng có một cử chỉ giật mình. Ông đứng sững trước mặt cô, và dang tay tát cô bằng mu bàn tay.
Edgerose đứng dậy, đưa ngón tay cái và ngón tay trỏ lên véo má trái của Rachman. Rachman lắc đầu hất tay anh ta ra và làm rơi mất cặp kính đồi mồi. Savoundra và tôi cố tách họ ra. Những người khách Jamaica khác kéo đến bu quanh bàn chúng tôi. Jacqueline vẫn bình thản và có vẻ hoàn toàn thờ ơ với toàn bộ màn kịch ấy. Nàng châm một điếu thuốc lá.
Edgerose cứ thế véo má Rachman lôi ra cửa, giống như thầy giáo đuổi khỏi lớp một đứa học sinh cứng đầu. Rachman cố tìm cách thoát ra và, bằng một động tác dột ngột bên tay trái, đấm vào mũi anh ta. Edgerose bèn buông tay. Rachman mở cửa quán cà phê, rồi đứng sững ở đó giữa vỉa hè.
Tôi đi ra chỗ ông, chìa cho ông cặp kính đồi mồi mà tôi đã nhặt trên sàn nhà. Đột nhiên, ông có vẻ rất bình tĩnh. Ông xoa xoa má.
‒ Cám ơn, anh bạn, ông nói với tôi. Chẳng việc gì phải đi lo lắng cho bọn gái điếm Anh đâu...
Ông rút từ túi áo vest chiếc khăn mùi soa màu trắng và cẩn thận chùi hai bên mắt kính. Rồi ông chỉnh lại nó, bằng một cử chỉ thành kính, hai tay giữ chặt gọng.
Ông leo lên chiếc Jaguar. Trước khi nổ máy, ông hạ kính xuống:
‒ Điều duy nhất mà tôi chúc cậu, anh bạn ạ, là vợ chưa cưói của cậu không giống như tất tật lũ gái điếm Anh này...
Quanh bàn, mọi người đều im lặng. Linda và Michael Savoundra có vẻ lo lắng. Edgerose bình thản hút một điếu thuốc lá. Có một giọt máu đọng ở một bên cánh mũi của anh ta.
‒ Peter sẽ xấu tính lắm đây, Savoundra nói.
‒ Sẽ mất vài ngày, Linda vừa nói vừa nhún vai. Rồi xong thì thôi.
Chúng tôi, Jacqueline và tôi, liếc mắt nhìn nhau. Tôi cảm thấy chúng tôi đang cùng tự đặt những câu hỏi giống nhau: có nên tiếp tục sống ở Chepstows Villas không? Thật ra thì chúng tôi đang làm gì cùng ba con người này? Đám bạn Jamaica của Edgerose đến chào anh ta và càng lúc càng có thêm người, thêm tiếng ồn trong quán cà phê. Nhắm mắt lại, có thể tưởng như đang ở quán cà phê Dante.
Michael Savoundra nhất định đòi đi cùng chúng tôi một đoạn đường. Chúng tôi đã để Linda lại, Edgerose và bạn bè họ rốt cuộc cũng lờ chúng tôi đi, như thể chúng tôi là những kẻ lén lút xâm nhập.
Savoundra đi giữa Jacqueline và tôi.
‒ Chắc hai bạn nhớ Paris lắm, anh nói.
‒ Không hẳn, Jacqueline đáp.
‒ Tôi thì khác, tôi nói với anh. Sáng nào tôi cũng ở Paris.
Tôi giải thích với anh rằng tôi đang viết một cuốn tiểu thuyết và đoạn đầu của nó lấy bối cảnh khu phố quanh ga Bắc.
‒ Tôi lấy cảm hứng từ Blackpool Sunday đấy, tôi thú nhận với anh. Đó cũng là câu chuyện về hai người trẻ tuổi...
Nhưng anh có vẻ không trách cứ gì tôi. Anh lần lượt nhìn hai chúng tôi.
‒ Đó là câu chuyện của hai bạn à?
‒ Không hoàn toàn đâu, tôi đáp.
Anh có vẻ lo lắng. Anh tự hỏi, chuyện của mình với Rachman có ổn thỏa hay không. Có khả năng sáng mai, ông sẽ đưa anh ba mươi nghìn bảng tiển mặt đựng trong một cái va li, mà không buồn đọc kịch bản. Hoặc sẽ từ chối anh, vừa từ chối vừa phà khói xì gà vào mặt anh.
Theo anh, cảnh tượng chúng tôi vừa chứng kiến thường lặp đi lặp lại. Trong thâm tâm, trò ấy khiến Rachman thấy vui. Đó là một cách giúp ông bứt khỏi trạng thái bạc nhược thần kinh của mình. Hẳn ta có thể dựa vào cuộc đời ông để viết một cuốn tiểu thuyết. Rachman tới London ngay sau chiến tranh, cùng những người tị nạn khác từ phía Đông. Ông sinh ra ở đâu đó quanh đường biên mịt mù giữa Áo‒ Hung, Ba Lan và Nga, tại một trong những thành phố đồn trú bé nhỏ từng nhiều lần đổi tên.
‒ Cậu có thể hỏi ông ẫy, Savoundra nói vói tôi. Có lẽ ông ấy sẽ trả lời đấy, nếu là cậu...
Chúng tôi đã đi đến Westbourne Grove. Savoundra gọi một chiếc taxi chạy ngang qua:
‒ Các bạn thứ lỗi cho tôi vì đã không đi cùng tiếp nhé... Nhưng tôi mệt bã rồi...
Trước khi biến mất vào chiếc taxi, anh viết lên một vỏ bao thuốc lá địa chỉ và số điện thoại của anh.Anh trông chờ tôi có tin tức cho anh càng sớm càng tốt, để chúng tôi có thể cùng nhau xem những chỗ tôi sửa trong Blackpool Sunday.
Rồi lại chỉ còn chúng tôi, hai chúng tôi.
‒ Ta dạo thêm một lát trước khi về đi, tôi nói với Jacqueline.
Ớ Chepstows Villas điều gì đang chờ đợi chúng tôi ? Rachman ném đồ đạc trong căn hộ qua cửa sổ như Linda từng kể? Hoặc có thể ông đang rình để bắt quả tang cô, cô cùng đám bạn Jamaica của mình.
Chúng tôi đến trước một quảng trường nhỏ mà tôi đã quên tên. Nó nằm gần căn hộ và tôi thường dò bản đồ London để tìm lại nó. Là Ladbroke Square, hay nằm xa hơn, về phía Bayswater? Các mặt tiền nhà bao bọc lấy nó tối om và đêm hôm ấy, nếu đèn đường có tắt thì hẳn chúng tôi vẫn định hướng được nhờ ánh trăng rằm.
Người ta đã quên không rút chìa khỏi ổ khóa cánh cửa nhỏ bằng lưới sắt. Tôi mở cửa ra, chúng tôi bước vào quảng trường và từ bên trong, tôi xoay chìa khóa lại. Chúng tôi bị nhốt ở đây và sẽ chẳng còn ai đến được nữa. Cảm giác lành lạnh chiếm lấy chúng tôi, như thể chúng tôi đang bước vào một con đường rừng. Những tán cây trên đầu rậm đến nỗi chỉ vài tia sáng trăng lọt xuống được, cỏ đã không được xén từ rất lâu rồi. Chúng tôi phát hiện một cái ghế bằng gỗ xung quanh rải sỏi. Chúng tôi ngồi xuống. Mắt tôi quen dần với bóng tối và tôi nhìn thấy, ở giữa quảng trường, cái bệ trên đó hiện ra bóng dáng một con thú bị bỏ lại, tôi tự hỏi là một con sư tử cái hay một con báo gấm, hay chỉ là một con chó.
‒ Ở đây thích quá, Jacqueline nói với tôi.
Nàng dựa đầu lên vai tôi. Những tán cây che mất các ngôi nhà quanh quảng trường. Chúng tôi không còn cảm thấy cái nóng ngột ngạt mấy ngày vừa rồi đã ập xuống London, cái thành phố nơi chỉ cần rẽ ở góc phố là đã tới một khu rừng.