Vài giờ sau, Lorna đứng trong khu biệt lập của bệnh viện thú y tại ACRES. Điện đã trở lại. Những ngọn đèn trên tường chiếu sáng những cái lồng thép không gỉ đặt ở bức tường. Khu vực này đã được trưng dụng để tiến hành kiểm dịch các động vật cứu sống từ con tàu đó.
Chỉ còn lại năm con… cùng với ổ mười một trứng trăn.
Mặc đồ khử trùng, cô ẵm con báo đốm con trong tay mình và cho nó bú một bình sữa. Nó bú và gặm núm vú cao su, mắt nhắm nghiền. Tiếng gầm gừ nhỏ vang lên những khi cô dốc sữa quá nhiều. Chú báo bé nhỏ rất đói. Đây là bình thứ ba của nó từ lúc đến đây sáu tiếng trước.
Cô đã dành hầu hết thời gian ở đây và thích thú làm điều này. Sau tất cả những cái chết, có sự xoa dịu nào đó khi dành thời gian ở cùng những con thú, giúp chúng ổn định, kiểm tra, và cho ăn. Như mọi khi, cô đã tìm thấy cảm giác thoải mái và an ủi khi săn sóc những bệnh nhân của mình.
Là nhà khoa học, cô hiểu tại sao. Có hàng ngàn nghiên cứu về mối ràng buộc giữa con người và động vật, việc vuốt ve một con mèo giúp giảm huyết áp của một người, việc thăm hỏi những con chó khiến các bệnh nhân nằm liệt giường phản ứng và phục hồi. Tuy không ai có thể thật sự giải thích mối liên hệ này, nó vẫn có thực và xác định được.
Nhưng với Lorna, nó thậm chí còn sâu sắc hơn thế. Khi được vây quanh bởi thú vật, cô cảm thấy được là chính mình, sống động hơn, thậm chí giác quan của cô có vẻ nhạy bén hơn: ngửi thấy mùi sữa trong hơi thở của chó con, cảm giác thô ráp của lưỡi mèo ở mu bàn tay mình, tiếng gầm gừ của con chó đang sợ hãi, cảm nhận nhiều bằng bàn tay hơn cả lắng nghe. Cô đã luôn như thế, được trở về thời ấu thơ. Từ lớp ba, cô biết mình muốn trở thành bác sĩ thú y. Và qua thời gian, khi các đồng nghiệp khác thấy mệt nhoài, niềm đam mê của cô càng mạnh thêm.
Trong khi Lorna tiếp tục cho con báo bú, cô đi lại những cái chuồng. Cặp khỉ dính liền ở chuồng chính giữa. Hai con nắm chặt nhau, buồn ngủ, rúc trong đống khăn ấm. Cô để ý những miếng băng trắng trên khuỷu tay chúng, chỗ họ lấy vài mẫu máu và truyền dịch để bổ sung nước cho hai con vật đã bị ngược đãi. Một cái đĩa thép trong góc chuồng đựng thức ăn cho khỉ cùng vài miếng chuối tươi.
Lorna đã xem tài liệu bệnh án trên bìa kẹp hồ sơ đặt bên dưới cái lồng. Xét nghiệm hóa về máu và CBC của chúng không đáng chú ý. Thiếu máu nhẹ và men gan tiết ra nhiều, nhiều khả năng do tình trạng suy dinh dưỡng kéo dài. Nhưng bất chấp sự sợ hãi môi trường mới xung quanh, hai con đã ăn rất ngon sau lần xét nghiệm đầu.
Cô phát hiện thấy ai đó đã điền vào tên của các con vật bị bệnh. Họ viết nguệch ngoạc Huey và Dewey.
Cô mỉm cười. Quá hời hợt về chuyên môn. Nhưng cô khó có thể phàn nàn. Cô đu đưa con báo trong tay như một đứa bé. Cô gọi nó là Bagheera dựa theo tên của con báo trong Quyển sách rừng xanh của Kipling.
Thế nhưng, mặc những cái tên hấp dẫn, trụ sở có một bí ẩn cần giải quyết về những động vật này. Ai đó đã nỗ lực tạo ra thứ hàng hóa kỳ dị này. Máu đã đổ để che đậy sự việc. Nhưng tại sao và kết cuộc là gì – – và quan trọng hơn họ là ai?
Lorna cảm giác câu trả lời giấu bên trong những con vật. Ngay sau khi đến nơi, từng con đã trải qua một xét nghiệm tổng quát, bao gồm cả quét toàn cơ thể bằng thiết bị MRI – thiết bị quét cộng hưởng từ. Dữ liệu MRI vẫn đang được soạn lại bởi một chương trình của mô hình máy tính đời mới, sử dụng các dữ liệu này để tạo ra hình ảnh ba chiều của tất cả nội tạng. Cô trông chờ được xem kết quả.
Họ có thể tìm thấy những bất thường gen nào khác?
Phía sau khu biệt lập, một đường cỏ khô chạy dài quanh con cừu con, một con cái nhỏ. Nó nằm trên đống rơm, trông nó tuyệt vọng khi không có mẹ. Đôi mắt nâu to nhìn chằm chằm Lorna khi cô đi qua. Cô thấy lo cho con cừu. Nó không chịu uống bình sữa nào.
Trước khi Lorna nghĩ ra cách khác để con cừu chịu bú sữa, một tiếng kêu quang quác khó chịu thu hút sự chú ý của cô đến bệnh nhân cuối cùng. Cô quay về phía sinh vật sống sót cuối cùng từ con tàu. Một nhân viên chuyên về chim xác định nó là vẹt xám châu Phi giống đực, một loài thuộc rừng mưa miền Tây và Trung Phi. Mặc dù không hề có lông hoặc lông vũ, các đặc điểm đó vẫn còn chưa chắc chắn. Phán đoán này vẫn dựa trên đặc tính tròng mắt đen của loài chim. Tương phản với đồng tử màu đen và lớp da xanh xám, gam màu này làm cho đôi mắt biểu cảm quá mức.
Cô biết nó muốn ra khỏi lồng. Con vẹt này đã từng trốn thoát một lần. Ngay sau khi đến đây, nó đã dùng mỏ và vuốt bật chốt và xoay mở cửa ra. Họ tìm thấy con chim đậu trên đỉnh mấy cái chuồng, kêu inh ỏi khi có bất kì ai đến gần. Họ phải dùng lưới bắt nó và nhốt lại vào trong lồng, cửa lồng giờ đã được khóa cẩn thận.
“Xin lỗi, Charlie,” cô nói khi bước tới gần.
Con vẹt nhảy tới trước những chấn song và sáng rực mắt, con ngươi màu đen lóe lên và yếu đi trong vẻ giận dữ.
“Igor!” con chim hét cô bằng một thứ tiếng người kỳ lạ. “Igor… tốt, Igor… Igor, Igor, Igor…”
Lorna nhận ra nó đang cố nói chuyện. Cô mỉm cười. “Vậy ra chàng trai nhỏ bé tên là Igor.” Cô nhấn mạnh từ cuối cùng, thật rõ tên của con vẹt.
Mắt nó dừng sáng lên. Con chim gật gù, nhìn cô giễu cợt hơn, giống như ai đó đang cân nhắc có nên chia sẻ bí mật hay không.
Cái tên phù hợp một cách khó chịu. Igor là một trợ lý dị dạng của Tiến sĩ Frankenstein. Ai đó ngoài kia có óc hài hước pha sự độc ác.
Con vẹt quay đầu sang một bên, nhìn cô bằng một mắt. “Muốn đi. Đi khỏi. Xin lỗi.”
Một cơn ớn lạnh thoáng qua cùng lời nói của nó. Cô hiểu loài vẹt, chúng có tỉ lệ giữa bộ não và phần thân bằng với loài tinh tinh. Vẹt là loài thông minh nhất trong tất cả loài chim về khả năng nhận thức, một số nghiên cứu cho thấy chúng ngang với đứa trẻ năm tuổi.
Những lời nói hoảng loạn của Igor nhắc cô nhớ đến một nghiên cứu nổi tiếng về Alex, một con vẹt xám châu Phi thuộc sở hữu của Tiến sĩ Irene Pepperberg, một giáo sư tâm lý tại Đại học Brandeis. Alex vận dụng khoảng một trăm năm mươi từ và thể hiện một khả năng tuyệt vời trong giải quyết vấn đề. Nó có thể trả lời những câu hỏi, đếm số, thậm chí hiểu được khái niệm số không. Và hơn thế, con chim cũng có thể biểu hiện cảm xúc của khá rõ ràng. Khi Alex bị bỏ lại ở bệnh viện thú y để chuẩn bị cho thủ tục giải phẫu, con vẹt đã nài nỉ chủ: Lại đây. Tôi yêu bạn. Tôi xin lỗi. Tôi muốn trở lại. Tiếng Igor trong khu cách ly vọng một cách kỳ lạ với cùng kiểu nhận thức và hiểu biết đó.
Tò mò, cô đặt con báo con trở lại chuồng.
Con báo đã bú xong bình sữa và nửa ngủ thiếp đi.
Igor tiếp tục quan sát cô, theo dõi cô khi cô bỏ Bagheera vào một cái tổ chăn len. Khi cô đặt con báo xong, cô quay lại chỗ con vẹt và cúi gần hơn.
Cô nói nhẹ nhàng. “Xin chào, Igor.”
“Xin chào,” nó bắt chước lại và nhảy lên xuống những chấn song, rõ ràng vẫn sợ hãi môi trường mới.
Cô gắng sức suy nghĩ cách giúp nó bình tĩnh lại – rồi nhớ lại lần viếng thăm khoang tàu của mình và chợt có một ý tưởng. Cô trượt chiếc PDA khỏi túi áo và bấm máy tính. Cô nhấn vào biểu tượng ký tự Hy Lạp quen thuộc.
Khi sẵn sàng, cô hỏi, “Igor, pi là gì?”
Con vẹt đứng yên trên cửa lồng, mắt nhìn cô lần nữa, rồi nhảy trở vào sàn gỗ của mình. Nó nhìn cô qua một con mắt, rồi nhìn tiếp bằng mắt còn lại.
“Nào, Igor. Pi là gì?”
Nó lại kêu quang quác, đầu nó gật gù một vài lần, rồi nó bắt đầu chuỗi ngân nga quen thuộc. “Ba Một Bốn Một Năm Chín Hai Sáu Năm…”
Đầu nó tiếp tục lắc lư theo mỗi con số, nhịp nhàng và đều đặn. Cô nhìn chăm chăm vào màn hình máy tính. Đó là hằng số toán học pi. Dãy số chính xác. Phản ứng con vẹt chậm dần nhưng nó vẫn tiếp tục, đọc tiếp những con số vượt khỏi màn hình PDA của cô. Nó thụt xuống trên thanh sào và cúi xuống nhìn móng vuốt, rõ ràng tìm kiếm chút khuây khỏa trong sự tập trung lặp lại của mình, giống như một người đan len hay một ông lão đang giải ô chữ.
Nó cứ tiếp tục, cuốn vào một giai điệu gần như thôi miên.
Cô không đếm những con số nó đọc nữa.
Nó phải dài hơn một trăm số.
Cô không biết dãy số tiếp theo có vô nghĩa không, nhưng cô định lặp lại thử nghiệm ở lần đầu. Cô lắng nghe khoảng vài phút trong sự im lặng đến sững sờ, nhận ra cô cần vài trang giấy để viết hằng số toán học này để biết con vẹt có đúng hay không.
Độ dài dãy số nó nhớ được là bao nhiêu? Và ai đã dạy nó?
Trước khi cô có thể xem xét việc này thêm, cánh cửa dẫn đến khu cách ly đẩy mở ra kèm theo một tiếng bốp nhỏ. Igor lập tức im lặng. Cô quay lại khi dáng người gầy của Tiến sĩ Carlton Metoyer bước vào khu cách ly.
“Carlton,” cô nói, ngạc nhiên bởi chuyến viếng thăm không báo trước của vị giám đốc. “Sếp làm gì dưới này?”
Ông trả lời cô bằng một nụ cười ấm áp của người cha. “Tôi thấy cô đã cho Bagheera bú xong.” Ông nhấn mạnh vào cái tên mới của con báo, mắt nhấp nháy thích thú.
Cô thầm lẩm bẩm. Cô chỉ nói tên con báo cho trợ lý nghiên cứu của mình, nhưng như thường lệ, tin đồn lan nhanh trong ACRES. Cô cảm thấy má nóng ran. Cô được xem là một tiến sĩ tốt nghiệp, không phải một cô nhóc với một con mèo mới.
“Bụng nó no căng,” cô nói. “Ít nhất trong vài giờ nữa. Rồi nó sẽ lại kêu đòi sữa.”
“Điều này cho phép phòng thí nghiệm có đủ thời gian hoàn tất các phân tích gen của chúng.”
“Đã tìm ra được gì rồi ạ?”
Cô lo lắng đợi bất kỳ thông tin nào. Sau khi đến ACRES cùng với những con thú, cô dành toàn thời gian ổn định những con vật suy nhược và hỗ trợ lấy các mẫu máu và mô. Trong khi cô thực hiện các khám nghiệm tổng quát, mẫu ADN đã biến vào trong phòng thí nghiệm gen chính – khu độc quyền của Tiến sĩ Metoyer. Vị giám đốc nổi tiếng khắp thế giới vì sự tiên phong của ông khi nhân bản vô tính và cấy phôi giữa các loài khác nhau.
“Chúng ta chỉ mới nghiên cứu sơ sài trên bề mặt,” Carlton nói. “Nhưng xét nghiệm nhiễm sắc thể ban đầu cho thấy sự trùng hợp kỳ lạ. Chúng ta đang lặp lại những thí nghiệm ngay bây giờ, nhưng tôi muốn xuống đây và tìm cô. Có vài thứ cô nên tự xem xét.”
Ông ra hiệu và đi về phía cửa. Rõ ràng ông thích thú điều gì đó và sự hào hứng đó lan sang cô.
Cô theo sau, gần như run lên vì sự tò mò. Khi rời đi, cô liếc nhìn và nhận ra Igor đang nhìn lại cô, lại ngồi trên cửa. Nó run lẩy bẩy trở lại.
Cô nghe nó thì thầm sau lưng mình.
“Muốn về nhà.”