Lorna theo Malik trở lại văn phòng của hắn. Đôi chân cô lảo đảo theo mỗi bước đi, và cô gần như ngã sấp mặt xuống sau khi trượt bước chân đầu tiên xuống khỏi ghế nằm. Bennett giữ cô lại và đề nghị khoác tay đỡ cô đi. Cô ghét phải nhận lấy, nhưng lựa chọn duy nhất còn lại là được đỡ đến đó.
Ít ra việc di chuyển giúp đầu cô nhẹ nhàng hơn.
Vào lúc cô với lấy cái ghế trước bàn của Malik, cô cảm thấy đủ khỏe để tách khỏi tay của Bennett và đến chỗ ngồi. Vết đau nóng ran lên ở lưng dưới của cô cũng đã giảm đi thành cơn đau nhẹ âm ỉ. Cô trượt mình xuống ghế khi Malik lấy điều khiển và chỉ vào các màn hình trên tường.
“Đây là một camera độ phân giải cao để theo dõi trực tiếp khu sinh quyển mà chúng tôi dựng lên ở hòn đảo lân cận. Nơi lưu giữ các con thú được nối với bên này bằng một dải cầu đất, nhưng chúng tôi đã lập nên một hàng rào điện giữa hai hòn đảo và cho người theo dõi liên tục 24 giờ. Hòn đảo kia là nơi thí nghiệm lý tưởng để đánh giá trí thông minh mới này biểu hiện như thế nào trong môi trường thật.”
Màn hình plasma ở giữa hiện lên. Hình ảnh rõ nét đến mức trông như thể đó là cửa sổ dẫn qua thế giới khác – và có lẽ là vậy. Khung cảnh hiện lên ở một nơi quang đãng trong khu rừng nguyên sơ. Các chòi lợp bằng lá cọ thô sơ vây quanh bìa rừng, và ở giữa, một ngọn lửa bùng lên cùng đám than hồng.
Một cặp trần truồng thu mình gần đống lửa. Chúng có kích cỡ bằng những đứa trẻ lớn, trần truồng nhưng lông phủ gần hết. Con đực đứng lên hai chân như thể đánh hơi được sự quan sát. Nó tìm kiếm xung quanh. Nó có mũi rộng và phẳng, trán cao và lộ rõ che lấy đôi mắt. Hàm nó nhô ra trông như được tạo hóa điêu khắc sơ sài, lai giữa vượn và người.
Bất chấp sự yếu ớt của mình, Lorna lại đứng dậy như bị mê hoặc mặc cho sự ghê tởm của cá nhân cô khi nghĩ đến nghiên cứu ở đây. Cô nhận ra sinh vật đó. Đó là một ví dụ sống cho thi thể cô nhìn thấy trước đó. Một phiên bản người nguyên thủy giống với người hominid. Như thể cảnh giác, con đực giúp con cái đứng dậy. Cặp vú của con cái trĩu nặng xuống. Nó đặt một tay ở trước cái bụng đang phình ra.
“Nó có thai,” Lorna ngạc nhiên nói.
“Cũng lâu rồi,” Malik đồng ý. “Chúng ta may mắn nhìn thấy con cái. Thường nó chỉ trốn bên trong và chỉ ra ngoài vào ban đêm.”
“Tôi đặt tên nó là Eva,” Bennett nói với vẻ mơ hồ tự hào của người cha trong giọng nói của ông ta.
Malik tròn xoe mắt một chút trước cách đặt tên dí dỏm này. “Con cái là con đầu tiên trong số chúng có mang ngoài hoang dã. Chúng tôi thường bố trí cho sinh sản thông qua thụ tinh nhân tạo ở phòng thí nghiệm. Chúng tôi rất tò mò nó sẽ sinh ra kiểu con nào.”
“Nó mấy tuổi rồi?”
“Con đực tám, con cái bảy.”
Cú sốc chắc đã hiện rõ trên gương mặt Lorna.
“Các mẫu vật trưởng thành ở tốc độ rất nhanh,” Malik giải thích.
Phía sau cặp người, một bóng đen to lớn bước ra khỏi cánh rừng tối. Nó cúi thấp xuống đất, bước nhẹ trên những bàn chân lớn, đuôi duỗi thẳng phía sau, tai căng ra. Nó rình theo cặp đôi không nghi ngờ. Nó là một phiên bản lông đen của con báo nanh kiếm bị giết ở vùng đầm lầy. Qua dáng vẻ đó, nó là một con sắp trưởng thành. Dù vậy, con báo con này đã nặng đến hơn năm mươi kí, hầu hết cơ thể là cơ bắp. Đôi mắt nó lườm về phía hai mục tiêu – rồi dùng cơ bắp phóng thật mạnh, nó tấn công chúng.
Lorna lùi lại một bước sợ hãi.
Con đực bỗng quay qua. Con báo trượt dừng lại và nhanh chóng cuộn mình lại, rướn cổ ra lắc lư vui vẻ trên mặt đất. Con cái cúi xuống xoa vào cằm của con báo, một tay kia đỡ lấy lưng dưới của mình. Một nụ cười nhẹ nhàng lan tỏa trên gương mặt nó. Con cái có đặc điểm mềm mại hơn nhiều so với con đực. Đuôi con báo ngoe nguẩy vui sướng.
Bennett bước đến bên cạnh Lorna. “Và cừu cùng sư tử sẽ nằm chung với nhau...”
Malik giải thích bằng cách ít triết lý hơn. “Tất cả bọn chúng đều có mối ràng buộc. Khu sinh quyển được lập nên một năm trước. Ban đầu có vài cái chết, nhưng qua thời gian, các mẫu vật thiết lập nên thành một vài kiểu liên kết lẫn nhau như gia đình, chúng tôi cho rằng chúng được kết nối bởi sự tương đồng về mặt thần kinh, cùng chia sẻ ở một tầm mà chúng tôi không thể hiểu được.”
Lorna nghe thấy sự khát khao trong giọng của hắn – không nằm ngoài ham muốn trải nghiệm điều đó, nhưng nó vượt khỏi sự mong muốn tìm hiểu và sử dụng khả năng đó.
Khi cô quan sát, ba bóng dáng khác bước vào bãi đất quang. Một mang theo cây giáo thô sơ, hai con khác kéo theo một con heo nhỏ ở giữa.
“Chúng tôi nuôi hươu và heo trên hòn đảo,” Bennett nói. “Để nuôi bọn chúng.”
“Chúng cũng ăn cả dừa dại và xoài và uống nước từ con suối sạch,” Malik nói thêm vào. “Nhưng ngoài việc đó và chỗ trú tạm thời, chúng tôi để cho chúng tự bảo vệ mình. Để quan sát cách chúng thích nghi, để tồn tại, và dùng trí thông minh kì lạ của chúng giải quyết vấn đề. Chúng tôi lập nên các thử thách hàng tuần và kiểm tra và đánh giá khả năng của chúng.”
Phía sau bộ ba đi săn, một tá chó sủa inh ỏi khỏi rừng. Gầy còm, đuôi rậm lông và tai nhọn, trông chúng như những con sói thu nhỏ, bằng cỡ giống chó cốc Tây Ban Nha. Những con chó ùa vào bãi đất trống, nhưng thay vì chạy náo loạn và ồn ào, có một sự phối hợp kì lạ trong sự di chuyển của chúng. Chúng chạy một vòng quanh khu đất trống rồi nhanh chóng dừng lại một cách kì lạ, đồng loạt ngồi xuống như một đàn chim cùng đậu lên cành cây.
Một nhóm người hominid xuất hiện từ các chòi, bị thu hút bởi tiếng động. Lorna đếm.
Ít nhất mười.
“Ở nhiều góc độ,” Bennett nói, “nơi này đích thực là Địa Đàng. Tất cả các sinh vật của Chúa – dù to hay nhỏ – sống chan hòa với nhau.”
Malik nhìn nhận vấn đề ít thiên về Kinh thánh. “Thứ chúng ta đang quan sát là một biểu hiện của trí thông minh chiết hình, trong đó sức mạnh của một khối lớn hơn tổng thể của các thành viên gộp lại. Chúng tôi tin rằng chúng đã phát triển thành trí thông minh bầy đàn, trong đó các cá thể trong khu sinh quyển hoạt động như một đơn vị sống. Đó có lẽ là lý do chúng chưa phát triển khả năng nói. Chúng hiểu được ý nghĩ lẫn nhau.”
“Và có lẽ đó là cách thế giới đã từng tồn tại,” Bennett nói. “Trước khi chúng ta bị loại khỏi Địa Đàng.”
Thay vì bỏ qua câu suy ra từ Kinh thánh, lần này Malik gật đầu. “Ngài Bennett có lẽ đúng. Có thể thứ chúng tôi đang tìm kiếm là nguồn gốc thần thoại về một thiên đường trên quả đất trước đây, nói theo cách ngôn, là Vườn Địa Đàng. Các dị bản của truyền thuyết tồn tại ở các nền văn hóa trên khắp thế giới. Tại sao vậy? Có lẽ nó bắt nguồn từ kí ức của các chủng tộc về sự hợp nhất trước đây. Chỉ vì chúng ta có các tinh thể từ tính trong não – lập nên bởi các chiết hình của mạng nơron cũ này – có lẽ bằng cách nào đó chúng ta nhớ lại thiên đường buổi ban đầu.”
“Và có lẽ nó còn hơn cả kí ức đơn thuần,” Lorna nói, cô phát hiện mình vô tình mắc kẹt vào điều kì lạ mà cô đang quan sát.
Malik quay qua cô để tìm hiểu thêm.
Cô gật đầu nhìn màn hình. “Trong thập kỷ trước, các nhà nghiên cứu động vật và các nhà tâm lý học về con người đã bắt đầu tìm hiểu mối liên hệ giữa con người và động vật – sự quan tâm kì lạ và sâu sắc mà con người dành cho động vật. Không ai thực sự hiểu được nguồn gốc của việc này. Chúng ta biết rằng nó vượt khỏi tình cảm thông thường hay sự đòi hỏi về tình bạn. Các nghiên cứu mới cho thấy cơ thể con người phản ứng thể chất với sự hiện diện của các con thú theo một cách tích cực.”
“Tích cực theo ý cô là sao?” Bennett hỏi.
Cô đưa ra vài ví dụ. “Những người nuôi động vật có nồng độ cholesterol trong cơ thể thấp và ít có rủi ro mắc bệnh tim mạch hơn. Chỉ cần nuôi một con mèo sẽ lập tức làm giảm huyết áp. Đưa những vật nuôi làm bạn vào trong bệnh viện và nhà tế bần giúp đẩy nhanh thời gian điều trị và tăng cường hệ miễn dịch của bệnh nhân. Nhưng bí ẩn vẫn tồn tại rằng tại sao chúng ta có phản xạ về mặt cơ thể này.
Cô chỉ tay lên màn hình. “Có lẽ đó là câu trả lời. Có lẽ còn hơn cả kí ức về các giống loài chung sống ở Địa Đàng bên trong chúng ta. Có lẽ cơ thể chúng ta cũng đã ghi nhớ nó về mặt thể chất. Kí ức được khóa cả ở trong bộ não và cơ thể.”
“Đó là một quan điểm thú vị đó Tiến sĩ Polk. Và có thể cô đúng. Có lẽ đã tồn tại mối liên kết mờ nhạt nào đó, sự rung cảm còn sót lại từ các mảnh tinh thể từ tính lưu giữ bên trong kết nối tất cả lại với nhau.” Malik thở dài và tư lự nhìn những con thú trên màn hình. “Vẫn là phần cơ thể làm chúng tôi dậm chân tại đây.”
Cô hiểu được khi sắp xếp các chi tiết lại với nhau trong đầu. “Cú nhảy lùi về gen,” cô nói với Malik rồi quay qua Bennett. “Ông đã đề cập rằng Lầu Năm Góc quan tâm đến việc tăng cường khả năng của con người. Ông vẫn chưa thực hiện được điều đó. Với những đột biến lại giống, ông không thể tiếp tục cuộc nghiên cứu.”
Bennett gật đầu. “Đúng vậy.”
“Đó là Chén Thánh của cuộc nghiên cứu,” Malik nói. “Tạo ra con người mà không làm đảo ngược đồng hồ tiến hóa.”
“Thậm chí Lầu Năm Góc có biết các người đang thử nghiệm trên người không?”
Bennett nhún vai. “Họ biết rằng không nên giám sát quá chặt. Đó là lý do chúng tôi vận chuyển các con thú trên tàu đánh cá, để cho thấy chúng tôi vẫn tiến triển và dùng nguồn quỹ để nghiên cứu. Chúng tôi đã đến gần với việc nhận ra đầy đủ mục tiêu. Cô có thể tưởng tượng nếu chúng ta có thể khai thác nguồn lực này không? Quân lính không chỉ thông minh hơn mà còn là một khối thống nhất hơn bất cứ quân đội nào khác.”
“Nhưng đó không chỉ là chướng ngại duy nhất của chúng tôi,” Malik nói. Hắn nhìn chằm chằm khi nhóm săn mồi ném con heo vào trong than nóng của đống lửa. “Dường như Địa Đàng của chúng tôi cũng có con rắn của riêng nơi đây.”
“Ý anh là sao?”
“Để tôi chỉ cho cô.”
Malik chỉ điều khiển vào các màn hình khác vây quanh màn hình plasma. Từng hình ảnh hiện lên. Hầu hết là hình ảnh về các vết thương chảy máu trên nhiều đàn ông và phụ nữ khác nhau, một số người mặc áo khoác trắng phòng thí nghiệm, những người khác mặc quần áo liền bộ của công nhân hay đồng phục kaki. Nhưng một màn hình chiếu một đoạn phim ban đêm, hình ảnh tối, có sắc bạc. Một hình dạng – một trong số các hominid – nhảy xuống một bãi biển tối và phóng lên trên một bảo vệ đang hút thuốc. Nó xé toạc cổ họng hắn bằng răng và móng vuốt. Sự tàn bạo làm cô sốc. Thậm chí sau khi tên lính gác ngã xuống, sinh vật đó tiếp tục cào vào mặt hắn, làm rách mất một mảng của má.
“Việc đó xảy ra đêm qua,” Bennett nói.
“Dấu hiệu hung dữ thái quá,” Malik giải thích. “Chúng vùng lên không lời cảnh báo, không khiêu khích, không lý do thỏa đáng. Một trong số chúng có thể hòa nhã hôm nay nhưng đột nhiên tấn công viên kĩ thuật ngày hôm sau. Đó là một trong số các lý do chúng tôi quyết định cách ly khỏi lục địa để đến hòn đảo ở xa. Chúng trở nên quá nguy hiểm khi giam giữ ở đây. Phụ trách an ninh của chúng tôi muốn giết chúng hơn, nhưng vẫn còn nhiều thứ chúng tôi tìm được khi nghiên cứu chúng. Từ khoảng cách an toàn.”
Cô hình dung những vết sẹo chằng chịt của Duncan. “Đó có phải là điều xảy ra với gương mặt anh ta? Anh ta bị tấn công phải không?”
“Duncan?” Bennett lắc đầu. “Cậu ta bị thương từ trước đó rất lâu, hồi chúng tôi mới cứu các mẫu vật. Bị thương nặng nề. Trải qua một tuần bị hôn mê và hàng giờ liền dưới dao phẫu chỉ để vá lại gương mặt.”
Chẳng lạ gì khi tên khốn ghét chúng nhiều như vậy,cô nghĩ.
Bennett nói tiếp: “Nhưng đó là bản năng của con thú. Cá nhân tôi tin rằng vấn đề hung dữ mà chúng tôi gặp phải ở Địa Đàng phát sinh vì các vật thí nghiệm có một mối liên hệ phi tự nhiên với động vật hoang dã. Sự liên hệ đã làm ô uế kế hoạch của Chúa. Làm lũng đoạn tính người ít ỏi sót lại trong chúng. Nếu chúng ta có thể thanh lọc điều đó, chúng ta sẽ giàu có.”
“Và tôi không thể không xét đến điều đó,” Malik thêm vào. “Vẫn tồn tại một khía cạnh hoang dã của chúng mà chúng tôi không thể thuần hóa. Có lẽ nó xuất phát từ sự kết hợp giữa thú và người này. Nếu vậy, chúng tôi sẽ giới hạn chặng nghiên cứu kế tiếp tập trung vào con người. Đó là lý do chúng tôi cần nhiều nguồn gen sạch.”
Lorna không thích nghe giọng điệu đó. Cơn đau ở các nang của cô nhắc nhở cô về nơi họ sẽ thu hoạch nguồn gen mới.
“Nhưng chúng tôi xem trọng bất cứ quan điểm nào mà cô có thể có về con rắn nằm lẫn trong chúng tôi,” Malik nói. “Ngài Bennett và tôi đã bàn bạc về việc sử dụng tài năng của cô.”
Nói cách khác, phần hai trong cuộc kiểm tra của cô đã bắt đầu.
Mắt Lorna nhìn vào màn hình ở giữa. Ngôi làng hiện lên cùng với lá và đá khi ảnh con heo tan biến. Cô nhìn thấy một phiên bản Igor khác trên một cái cây, nó đang xé nhỏ lá cây cọ bằng mỏ của mình. Cảnh về con vẹt không có lông làm cô nhớ đến tất cả những thứ cô đã mất, cả sự vô vọng về tình trạng của cô.
Thứ gì đó trong khu rừng chắc vừa tạo ra tiếng động. Đột ngột tất cả ánh mắt – của chó, mèo, chim và người – đổ dồn về hướng đó, chuyển động như một sinh vật duy nhất. Cảnh phần còn lại của khu sinh quyển dừng lại. Tất cả dường như chằm chằm nhìn vào máy quay, thẳng vào cô.
Cơ thể cô lạnh toát.
Malik đặt một bàn tay trấn an lên vai cô. Như thể cú chạm đó làm phá tan bùa chú lên cô, ngôi làng biến mất khỏi màn hình và họ quay lại nỗ lực phối hợp. Nhưng Lorna không thể thoát khỏi cái nhìn với vẻ đe dọa đó.
“Đừng lo,” Malik nói. “Cô sẽ không phải làm gì với chúng. Nơi đó nằm ngoài giới hạn. Bị cách ly khỏi khu sinh quyển, chúng dần trở nên khép kín, nguy hiểm với bất kì ai bên ngoài gia đình liên kết của chúng. Sẽ là tự tử nếu bước chân vào đó.”
Dù mối nguy hiểm được đặt ra, cô không thể ngừng nhìn vào màn hình. Dù vậy, cô hiểu được vấn đề an ninh. Từng làm việc với Vườn Thú New Orleans, cô biết các trở ngại và thách thức khi phải nuôi giữ an toàn các động vật hoang dã, đặc biệt là thú săn mồi.
Cô vui vì ai đó đã trông coi cẩn thận nơi đó.