Trở Lại Địa Đàng

Chương 25

Một giờ sau, Lorna ngồi trước màn hình LCD máy tính rộng ba mươi inch mở phần mềm nghiên cứu gen. Rất nhiều cửa sổ chương trình đang mở, nhưng cô nghiên cứu từng cái một tại trung tâm. Một hình ảnh ba chiều của não loài chim xoay trên màn hình, được tổng hợp bởi máy quét cộng hưởng từ trường sau khi quét con vẹt xám châu Phi tên Igor. Cửa sổ bên cạnh để hình ảnh của loài chim không có lông trông giống bò sát.

“Chúng ta đang nhìn gì vậy?” Jack hỏi phía sau cô.

Zoë Trent trả lời anh, cô đứng ở bên kia Lorna. “Một thứ đáng kinh ngạc.”

Nhà sinh học thần kinh cùng sử dụng phòng họp nhỏ nằm ngoài phòng thí nghiệm chính. Chồng cô, Paul, vẫn đang ở phòng thí nghiệm đọc lại bản phân tích ADN về nhiễm sắc thể khác thường đó.

“Có chuyện gì với con chim này vậy?” Kyle hỏi.

Em trai cô ngồi trên ghế đẩu bên cạnh lồng chim nhỏ đang giữ Igor. Con vẹt ngồi ủ rũ, cúi rạp xuống dưới sào. Nó không còn vẻ tươi tỉnh và chú ý xung quanh như lúc ban đầu đến đây. Những giọt lỏng cũng nhỏ xuống đầy dưới đáy lồng của nó.

Chứng tiêu chảy do bị stress.

Một cái nhọt khó chịu, Lorna sốt cả ruột. Các đồng nghiệp lẽ ra phải đợi đến khi cô trở lại để làm thêm các thí nghiệm. Chăm lo sức khỏe và tình trạng của các con thú tại trụ sở là trách nhiệm của cô. Và trách nhiệm này mở rộng ra đối với những con thú cứu được từ chiếc tàu đắm. Những sinh vật này đã chịu đủ khổ sở rồi. Chúng cũng không đáng bị đối xử như chuột bạch ở đây.

“Sao thứ xấu xì này không có lông vũ?” em trai cô hỏi.

Lorna trả lời nhưng không rời mắt khỏi màn hình. “Trước hết, nó không xấu xí. Thứ hai, bọn chị nghĩ đó là một vụ lại giống, khi một đặc điểm di truyền đã biến mất xuất hiện trở lại.”

“Kì quái thật.”

Cô không tranh luận lại. Vụ việc kì quái. Tất cả mọi thứ dính dáng đến nó đều lạ lùng. “Chỉ cần gần gũi với nó. Nó đang hoảng sợ. Nói chuyện với nó.” Vẹt là loài vật có đời sống xã hội và được chứng minh rằng chúng thấy an ủi khi có bạn đồng hành. Kyle nhún vai và chồm đến gần lồng. Em trai cô hạ giọng xuống thành tiếng gù gù. “Vậy ai là con chim xấu xí đây? Không phải mày.”

Igor chớp một mắt dò xét Kyle và đáp trả bằng tiếng cục cục nhỏ, giống tiếng kêu của loài chim.

Cũng như Lorna, em trai cô luôn đối xử tốt với động vật. Và mặc dù hơi hấp tấp, cậu có một trái tim yêu thương, điều đó giải thích cho việc dễ thay đổi tính cách của cậu. Cậu cảm nhận mọi thứ sâu sắc, và cô biết cậu yêu cô rất nhiều, luôn tìm cách bảo vệ cô. Cha họ qua đời khi họ còn nhỏ, cậu đã luôn đảm nhận vai trò của đàn ông trong gia đình – và thậm chí nhiều hơn khi mẹ mất. Cô yêu cậu vì những nỗ lực đó và cũng phản đối điều đó, nhưng trong thế giới tự tôn của đàn ông vùng phía Nam, điều đó trở nên phổ biến trong các kiểu gia đình.

Jack khiến cô chú ý trở lại. Anh nghiêng người qua bên hông tựa lên bàn. “Vậy điều đáng kinh ngạc trong lần quét MRI này là gì?” anh hỏi Zoë. “Sao cô nhất quyết bảo Lorna xem cái này trước?”

Nhà sinh học thần kinh chỉ tay lên màn hình. “Nó giúp giải thích tại sao bọn tôi không chần chừ việc quét điện não đồ. Giọng cô hạ xuống như tỏ vẻ xin lỗi, nhưng điều đó không xoa dịu Lorna.

Cô quan sát hình ảnh đang xoay. Bộ não cũng tương tự hầu hết loài chim, và thực sự nó không khác nhiều so với não động vật có vú. Trên màn hình, dây sống chạy dài từ tủy sống đến tiểu não và thùy não đã được chia thành hai nửa bán cầu. Gần như ngay tức khắc, cô nhận ra điều khác lạ: Có năm vật thể lạ tối hơn xuất hiện, bị cấy giữa lớp vỏ thùy não trước và thùy não trung của não trước, giống với vùng tân vỏ não ở người. Chúng có nhiều nếp nhăn và vỏ cứng, gần như có cấu trúc mạng tinh thể.

Cô xoay hình lại để nhìn từ trên xuống những thứ kì lạ này. Năm vật này tạo thành hình một ngôi sao năm cánh hoàn hảo bên trong mô thần kinh.

“Chúng là gì vậy?” cô hỏi.

Thay vì trả lời, Zoë với lấy bàn phím và nhấn một nút. Bộ não con vẹt biến mất và được thay bằng hình khác. “Đây là não của một con trong cặp khỉ mũ.”

Lorna nhớ lại cặp khỉ song sinh dính liền khi cô cúi xuống gần màn hình. Vấn đề tương tự cũng xuất hiện tại mô não của con khỉ. Cô lật hình lại. Cũng số lượng đó được đặt cố định vào các vị trí trong cấu trúc não. Kiểu đặt cũng tương tự. Một ngôi sao năm cánh hoàn hảo về mặt hình học.

Mặc cho hơi nóng trong phòng, cơn ớn lạnh luồn qua cô.

Zoë lại gần hơn. “Bọn tôi phát hiện các xâm hại kì lạ này trên các con thú khác cứu được từ tàu đánh cá. Tôi có thể cho cô xem kết quả quét khác.”

Lorna lắc đầu, tin tưởng đánh giá của đồng nghiệp. “Chúng được cấy sao?”

“Bọn tôi không nghĩ vậy.” Sự phấn khích trào lên trong giọng của nhà sinh học thần kinh. “Bọn tôi nghĩ đó là đặc tính tự nhiên.”

“Tự nhiên ư?”

“Đúng vậy.” Zoë nhấp chuột phóng lớn một trong những vật thể đó. “Quan sát kĩ hơn. Cô sẽ thấy không có vết sẹo xâm hại nào như cô nghĩ là do phẫu thuật cấy ghép. Cũng không có dấu hiệu mô liên kết hình thành quanh vết thương như thường thấy do cấy ghép nội tạng lạ.”

“Vậy chúng là gì?”

Zoë nhún vai. “Đó là điều mà tiến sĩ Metoyer muốn biết. Jon Greer nghiên cứu về bệnh học, anh ta cũng đang cố cắt nhỏ một phần xác của con báo con đã chết để chúng tôi nghiên cứu. Anh ta cũng đang thực hiện các thí nghiệm tách mô tìm hiểu về sự xâm hại.”

“Tách mô?” Jack hỏi. “Tại sao?”

Zoë vê ngón tay thành vòng tròn quanh các biến dị trên màn hình.

“Ta phát hiện thấy các tế bào thần kinh tập trung nhiều bên trong vùng xâm hại. Tiến sĩ Metoyer muốn xác nhận lại giả thuyết rằng vùng não này được tạo thành bởi nhiều bó nơron thần kinh dày đặc.”

Lorna cũng muốn biết. Cô nhớ lại ánh mắt của con báo và sự xảo quyệt trong đó. Thậm chí khả năng của con vẹt lặp lại dãy số chính xác của số pi. Nhiều nơron thần kinh có thể tạo nên môi trường tiếp hợp phong phú, nó giúp cho khả năng tính toán được khai thác tốt hơn. Khám phá này giải thích tại sao có những con thú dường như thực sự thông minh.

Zoë đứng thẳng người lại và để một tay luôn qua mái tóc đen ngắn của cô. “Giờ cô biết tại sao bọn tôi muốn xét nghiệm EEG. Bọn tôi rất phấn khích. Bọn tôi không thể đợi được.”

Lorna khẽ gật đầu. Bằng cách quan sát biểu đồ điện não, họ có thể tìm ra các khác biệt chức năng liên quan đến vụ xâm hại. “Vậy mọi người tìm ra gì khi quét điện não đồ?”

“Trước mắt không thấy gì. Biểu đồ sóng não của mỗi con thú có vẻ bình thường, vừa đủ, mỗi con đều độc nhất như mỗi dấu vân tay riêng biệt. Dường như không tìm thấy điểm chung.”

Thay vì thất vọng, gương mặt Zoë lại sáng lên vì hào hứng. Lorna biết rằng vẫn còn một thí nghiệm nữa phải làm. Zoë ghé mắt nhìn về lồng của Igor.

Lorna nhìn theo cô, sau đó nhìn trở lại nhà sinh học thần kinh. “Gì vậy?” “Tôi cho cô xem cái này.” Zoë áp sát cô và đánh bàn phím rất nhanh. “Tôi sẽ cho hiển thị bốn kết quả EEG bọn tôi lấy được từ con vẹt, hai con khỉ, và Bagheera – con báo con. Để đơn giản, tôi chỉ cho cô xem một điểm riêng ở mỗi con thú.”

Các chỉ số xuất hiện trên màn hình.

Zoë nhíu một chân mày nhìn Lorna. Cô đọc được câu hỏi của người đồng nghiệp. Cô có thể thấy được điều gì khác ở đây không?

Lorna mất vài giây suy nghĩ. Cô chỉ vào hai chỉ số ở giữa.

“Hai đường này gần như y hệt nhau.” Cô đọc tên tài liệu và nhăn mày. Cebus apella. Vật mẫu A và B. “Các chỉ số này của cặp khỉ song sinh dính liền.”

Zoë gật đầu. “Đúng rồi. Ban đầu bọn tôi nghĩ đó là một lỗi sai. Có lẽ do điện cực đặt trên một con khỉ lấy nhầm mẫu điện từ con còn lại. Hoặc có thể vì chúng mang gen song sinh, hoạt động não bộ cũng giống nhau. Chỉ để chắc chắn, bọn tôi mang tất cả các con thú đến đây và kiểm tra lại.”

Cô đánh bàn phím và bốn chỉ số khác hiện lên. “Đây là những gì bọn tôi tìm được ở bốn mẫu vật trong phòng khi xét nghiệm cùng lúc.”

Lorna cúi xuống gần hơn, đặt đầu ngón tay chạy theo đường biểu đồ. Sự hứng thú tăng lên. Không thể nào.

Jack nói bên cạnh cô. “Tất cả nhìn hoàn toàn giống nhau.”

“Bọn tôi để máy đo trong đúng mười phút mỗi con. Chúng tiếp tục đồng bộ với nhau.”

Lorna cố gắng hiểu điều cô vừa thấy.

“Sau đó,” Zoë nói, “bọn tôi đưa các con thú về chuồng. Ngoại trừ con vẹt ở đây. Bọn tôi kiểm tra Igor lần nữa khi những con khác đi khỏi. Kết quả EEG cho thấy giống với mẫu biểu đồ duy nhất ban đầu.”

Lorna chằm chằm nhìn con vẹt và em trai. “Có phải ý cô là khi bọn chúng ở cùng nhau, kiểu sóng não của chúng bằng cách nào đó cũng đồng bộ hoàn hảo với nhau?”

“Dường như đó là điều đang diễn ra.”

Làm sao như thế được? Cô đã từng nghe những người phụ nữ ở kí túc xá, những người sẽ bắt đầu cùng có kinh nguyệt khi họ ở cùng nhau – nhưng đó là do sự hiện diện của chất pheromone trong không khí, gây ra chu kì kinh nguyệt cùng lúc. Điều gì có thể khiến các con thú có các biểu hiện thần kinh như nhau? Nếu dữ liệu này chính xác, phải có dạng kích thích hoặc giao tiếp nào đó giữa những con thú.

Lorna mở lại dữ liệu MRI trên màn hình. Mô hình ba chiều của não Igor lại hiện lên. Cô lật hình lại để nhìn năm khác biệt kì lạ đó.

“Thứ gì đó đang diễn ra phải có mối liên hệ với các xâm hại này,” Lorna nói. “Tất cả mẫu vật có cùng cấu trúc này.”

Cô chăm chăm nhìn màn hình, hình dung mô các tế bào tập trung rải ra thành hình ngôi sao. Nó khiến cô nhớ ra gì đó. Nhưng là gì? Cô đưa bàn tay lên và xòe năm ngón rộng ra. Sau đó điều gì đó hé mở trong cô. Cô lật tay ra trước và sau.

“Một ăng-ten đĩa vệ tinh,” cô lẩm bẩm.

“Gì vậy?” Zoë hỏi.

“Cấu trúc não của con vật. Chuyện gì xảy ra nếu nó hoạt động như một đĩa vệ tinh truyền dữ liệu nhỏ? Phát ra một tín hiệu sóng có tần số siêu thấp để các con khác đọc được và bằng cách nào đó chúng đều đồng bộ với nhau.”

Zoë chau mày, phân vân giữa sự điều khó tin và khả năng xảy ra.

“Chị đang nói đến một dạng liên lạc bằng sóng não nào đó?” Kyle hỏi, mắt tròn xoe nhìn con vẹt với vẻ nghi ngờ.

“Không.” Lorna trả lời nhanh. “Ít ra không phải vậy. Để các kết quả EEG giống hệt nhau, phải có thứ gì đó điều khiển chúng. Không thể liên quan đến hoóc-môn hay pheromone. Chúng là loài khác nhau.”

“Thêm vào đó thời gian để phản ứng quá ngắn,” Zoë nói thêm, sự nghi ngờ giảm đi.

Lorna gật đầu. “Nhưng một tín hiệu điện yếu có thể làm được. Chỉ đủ để tạo ra một kích thích trong não cả bốn con thú.”

“Nhưng thứ gì có thể làm tất cả điều đó?” Jack hỏi. “Tôi không thấy có nguồn pin nào.”

Zoë trả lời anh. “Không cần pin. Não là một cơ quan sinh điện, tạo ra năng lượng được biết đến như là hoạt động tiềm ẩn của việc bơm các chất hóa học lên và ra khỏi nơron. Một bộ não trung bình tạo ra liên tục được mười đến mười hai oát điện. Buổi sáng, trưa và tối. Đủ để thắp sáng một đèn pin.”

“Và tất nhiên đủ để chuyển các tín hiệu tần số thấp.” Lorna chằm chằm nhìn mô hình MRI và nuốt nước bọt.

Một giọng nói khác vang lên ở cửa vào. “Câu hỏi là loại nào, dĩ nhiên, không cần bàn cãi thêm, cô gái ạ.”

Lorna quay qua sếp của cô, Carlton Metoyer, nghiêng người đứng ở cửa. Ông đã lắng nghe cuộc đối thoại của họ trong bao lâu?

“Câu hỏi gì vậy?” Zoë hỏi.

Ông bước vào phòng trong bộ vét phòng thí nghiệm gọn gàng, ông luôn là mẫu quý ông miền Nam, dù đã thức cả đêm. “Tiến sĩ Polk vừa gợi cho ta một giải pháp mở về cách các bộ não liên hệ với nhau. Điều đó thậm chí đặt ra một câu hỏi lớn hơn.”

Lorna hiểu và lớn giọng hỏi câu hỏi đó. “Tại sao?”

Tại sao những con thú này liên hệ với nhau.