T-Bob ngồi ở phía trước xuồng trong khi em trai mình điều khiển xuồng bơi đi bằng mái chèo ở phía sau. Đôi mắt khép hờ, T-Bob lắng nghe vùng đầm lầy. Anh không cần mấy loại kính hỗ trợ tiên tiến đó để đi săn như hai nhân viên ban Tuần Tra Biên Giới cùng ngồi trên xuồng. Anh ngửi thấy mùi dầu cạo râu, mùi tinh bột trong quần áo của họ. Anh không cần dùng cặp kính.
T-Bob được sinh ra ở vùng đầm lầy – gần như được sinh ra trên một chiếc xuồng như cái này. Anh đã đi săn từ khi chập chững bước đi. Vùng đầm lầy cũng thân thuộc với anh như em trai mình.
Khi họ băng qua đầm lầy, anh lắng nghe khu rừng xung quanh. Đêm tối trong vùng đầm lầy rất ồn ào. Anh nghe thấy tiếng ễnh ương, cú, tiếng ríu rít từ những tổ chim. Ở hai bên, cỏ cưa và lau sậy kêu lạo xạo khi em trai anh đẩy mái chèo đưa xuồng băng qua những chỗ rậm rạp. Ở gần hơn, tiếng muỗi vo ve quanh tai anh.
Từ xa, anh vẫn nghe thấy tiếng gào đói của lửa đang gặm nhấm khu rừng, nhưng nó bị giảm đi khi họ tiến sâu vào rừng. Dù vậy, sức nóng và khói tiếp tục đuổi các con thú ra khỏi rừng. Một cặp thỏ vùng đầm lầy nhảy ra khỏi đám sậy và phóng qua lạch nước. Một lúc sau, một con hươu đỏ chạy theo, quẫy chiếc đuôi trắng vào họ.
T-Bob quan sát hướng đi của chúng.
Những con thú không hoàn toàn hoảng sợ, vậy lửa vẫn còn ở xa. Từ con đường và hướng đi của các sinh vật đang bỏ trốn, anh lần theo được chỗ lan ra của lửa.
T-Bob hoàn toàn tự tin anh có thể tìm được đường đi quanh làn lửa. Anh kiểm tra nước bằng đầu ngón tay, phán đoán dòng nước và ra hiệu chỉ dẫn em trai bằng tay. Anh tránh các con kênh có vẻ chảy quá chậm, biết rằng họ sẽ đi vào ngõ cụt ở một cái đầm nhỏ. Thay vào đó, anh theo hướng dòng nước đi thành vòng cung quanh làn lửa.
Khi anh xoay xuồng đi vào dòng nước khác, một mùi là lạ xộc vào mũi anh. Mặc dù mờ nhạt, nhưng nó vẫn như cú vỗ vào mặt anh. Mùi của đầm lầy quen thuộc như cơ thể mỏng manh của vợ anh. Anh biết từng hơi thở của vùng đầm lầy, bất kể mùa nào hay thời tiết nào. Mũi anh nhăn lại. Thứ mùi đó không phải ở đây.
Anh nhấc một tay và giơ hình nắm đấm. Peeyot xoay chèo và giảm tốc độ chiếc xuồng đến khi ngừng hẳn.
“Tại sao chúng ta – ?” một trong số những người còn lại hỏi.
T-Bob bảo anh ta im lặng bằng một cú lườm mắt và bàn tay giơ lên. Với cặp kính đang đeo, người nhân viên nhìn giống côn trùng hơn người.
Tên couyon[6] ngu ngốc.
T-Bob quay lại chú ý cánh rừng tối. Anh để những người khác tiếp tục nhìn bằng thứ đồ dùng công nghệ cao của họ. Giác quan của anh còn sắc bén hơn.
Thứ gì đó vừa băng ngang qua đây.
Nhưng nó còn quanh quẩn ở đó không?
T-Bob lại nhắm nghiền mắt, dùng cả cơ thể lắng nghe tiếng nước bắn, tiếng chim, tiếng răng rắc và tiếng xạo xạc. Một bức tranh về vùng đầm lầy hiện lên trước đôi mắt trong đầu anh. Khi anh chìm vào sâu hơn, anh cảm nhận được luồng âm thanh từ xa, hình dáng được vẽ nên bởi cả tiếng ồn và sự im ắng: một tràng tiếng lõm bõm của ếch nhái, âm thanh ngắt quãng đột ngột của gõ kiến, tiếng con sóc chuyền qua cành cây.
Thứ gì đó ngoài kia đang tiếng đến.
Chậm rãi, rón rén.
Có vẻ nó tiến về phía đám cháy, hơn là bỏ trốn.
Tiến về phía họ.
T-Bob chỉ tay, và em trai anh đẩy xuồng qua vùng nước bùn. Cậu chèo đẩy chiếc xuồng thành thục xuôi theo con kênh được chỉ dẫn. T-Bob không còn tránh làn lửa. Anh hướng chiếc xuồng thẳng tiến đến lòng của địa ngục đó. Đó là cơ hội duy nhất của họ, bằng cách tan biến vào hơi nóng và khói, hi vọng kẻ đi săn không lần theo được.
Nhưng để thành công, họ cần di chuyển thật nhanh và êm.
Phía sau anh ta, tiếng điện đàm vang lên – sau đó một giọng nói cất lên. “Đội Một. Báo cáo.”
Nhân viên ban Tuần Tra đặt tay lên điện đàm, nhưng T-Bob dừng anh ta qua việc tắt nó đi và lắc đầu. Bốn người trên xuồng chết lặng, mắt trừng về phía trước. Họ chờ được hít thật sâu.
Chỉ trừ tiếng lửa đang gặm nhấm, đầm lầy trở nên im bặt xung quanh họ.
* * *
“Tôi không nhận được trả lời từ đội Mansour,” Scott báo lại.
Ngồi cứng người trong chiếc xuồng, Jack định trả lời khi có tiếng súng trường bắn vọng qua vùng đầm lầy. Nghe như ở gần sát cái cây bên cạnh, nhưng anh biết âm thanh phát ra ở cách đó ít nhất một dặm.
Họ đã có câu trả lời.
Lorna đã đúng. Con báo ở đó.
Jack nhấc bộ đàm lên. “Còn bao lâu nữa trực thăng mới đến đây?”
“Ước chừng năm phút.”
“Bảo trực thăng bay về phía đông. Theo hướng những người kia đi.” Anh nhớ lại lo lắng của Lorna về ánh đèn trực thăng, tiếng cánh quạt và tiếng động cơ sẽ làm con báo sợ. Anh cầu cho cách đó sẽ hiệu quả. “Bảo phi công hạ càng thấp xuống hàng cây. Gây tiếng ồn hết cỡ.”
Randy gọi từ phía sau xuồng. “Có chuyện gì vậy?”
Jack vẫn đặt bộ đàm trên môi. “Còn nữa, Scott, quan sát mọi người quanh đó. Đưa mọi người trở lại tàu.”
“Đã xong rồi. Chúng tôi đang quan sát cả hai bên bờ biển. Sếp quay lại tàu chưa?”
Jack cảm thấy ánh mắt của những người khác nhìn mình. “Không. Chúng tôi sẽ đi tiếp. Cố gắng đi bọc qua đám cháy để đến hỗ trợ những ai đang mắc kẹt ở nông trại. Họ sẽ cần súng đạn của ta để chống lại con báo.”
“Vâng, thưa sếp. Đã rõ.”
Jack bỏ bộ đàm xuống.
Randy nói giọng nghiêm nghị, “Vậy là chúng ta đi tiếp?”
Anh gật đầu. “Chúng ta gần như đi vòng quanh đám cháy.”
Jack nhìn chăm chăm qua cặp kính. Sức nóng và ánh sáng từ cái địa ngục đó toát ra qua rừng cây. Anh ghét phải quay lưng với anh em nhà Thibodeaux và những thành viên khác, nhưng họ sẽ mất nhiều hơn năm phút để rút khỏi đầm lầy và thậm chí lâu hơn để lần theo dấu của chiếc xuồng còn lại ở đằng xa bên kia con kênh.
Jack chỉ tay về một dòng chảy rộng hơn thẳng về hướng nam. Nếu nó hoàn toàn thẳng, họ có thể dùng nó để đi men theo đám cháy và đến được nông trại cá sấu.
Randy thở dài và đẩy xuồng đi tiếp. Hai người khác cũng bơi chèo. Chiếc xuồng bơi vào con kênh và họ lại đi xa khỏi đó. Jack lần theo sự xâm lấn của đám cháy.
Không may, con kênh trở nên hẹp hơn và các khúc cây hạ thấp, đến khi tưởng chửng họ đang băng qua thác nước, và thậm chí cảm nhận rõ hơn qua tầm nhìn hẹp của cặp kính. Jack núp xuống thấp, và những cành cây thấp đập vào mũ của anh và hàng ria của đám rêu quấn lấy mặt anh. Randy chửi sau lưng anh.
Nhưng ít ra lửa vẫn ở phía đông của họ.
Không may là dòng nước chảy quanh co hơn, đột ngột xoắn lại và chảy vào một hồ nước đọng. Đom đóm bay quanh quẩn trong đêm, tạo nên những đám mây màu xanh bạc quanh kính của anh.
Gần như bị che kín bởi bầy đom đóm, Jack không nhìn thấy cành cây. Nó quật vào mặt anh và cứa vào má. Anh nhấc nó ra khỏi tầm mắt, chỉ ngay sau đó anh nhận ra lỗi lầm của mình.
Cành cây mềm, và phủ bằng vải.
Thi thể rơi xuống khỏi cây, qua đầu và va vào phía trên xuồng. Những khúc xương sườn quấn lại; các thành viên hét lên ngạc nhiên và sợ hãi. Jack tháo cặp kính ra và hét lên bảo mọi người bình tĩnh.
Thi thể chìm một nửa trong nước, mặt úp xuống, trên một bờ của xuồng. Bị mất một chân, một tay.
Randy chỉ một mái chèo phía trước.
Jack quay người lại. Ánh sáng từ đám cháy gần đó chiếu sáng một khung cảnh đáng sợ. Hai thi thể khác treo trên cây như những vật trang trí Giáng sinh ma quỷ. Khi anh nhìn kĩ, những giọt máu sệt nhễu xuống nước.
Jack liếc mắt khỏi. Cách đó khoảng mười tám mét, một hàng rào chặn ngang dòng nước. Một biển báo treo ở đó. Mặc dù trời tối, anh vẫn có thể đọc được dòng chữ màu đỏ: Cấm vào.
Đó chắc là hàng rào của nông trại cá sấu.
Họ đã làm chúng. Để xác nhận, Jack nghe thấy tiếng người la từ xa. Tiếng lửa cháy ngăn không nghe thấy gì. Nhưng Jack cảm nhận được những giọng thanh giữa những tiếng ầm ĩ.
Trẻ em.
“Đi tiếp!” Jack nói.
Hai người đàn ông ném thi thể xuống. Mái chèo làm bắn nước và chiếc xuồng đã tiến về phía trước luồn bên dưới những thi thể treo lơ lửng. Một giọt lạnh buốt rơi xuống tay Jack. Anh nhìn xuống vệt đỏ thẫm, và nhìn lại các xác chết. Vị trí của các xác chết rất gần nông trại dường như có chủ ý, như thể đó là lời cảnh báo, con báo đánh dấu lãnh thổ của mình.
Chính xác thì con thú này thông minh đến mức nào?