Trở Lại Địa Đàng

Chương 10

Jack băng qua chiếc cầu đong đưa. Anh không quan tâm những sợi thừng mốc dọc ở hai bên. Anh không nhìn xuống dưới – mặc dù nhiều miếng gỗ của chiếc cầu đã mục nát và rơi xuống từ lâu. Anh nhấc cơ thể mình đi thăng bằng một cách dễ dàng vì quen thuộc.

Phía trước, gia đình anh sống trên một hòn đảo nhỏ của vùng đầm lầy Touberline. Hòn đảo thật sự không cao hơn một ngọn đồi nhỏ, nổi lên khỏi mặt nước đen ngòm, được vây quanh bởi những thảm tảo và cỏ cưa. Ngôi nhà nằm trên đỉnh của hòn đảo, các gian phòng được xây xiêu vẹo giống một đống đồ chơi lộn xộn. Mỗi gian đánh dấu sự thêm vào và mở rộng của gia tộc Menard, vốn đã phát triển từ một thế kỷ rưỡi trước. Hầu hết các phòng giờ đây đều trống vì cuộc sống hiện đại đã mang các thế hệ trẻ đi khỏi, nhưng cốt lõi của cấu trúc xiêu vẹo vẫn còn đó, một ngôi nhà bằng đá cũ chắc chắn. Đó là nơi cha mẹ anh vẫn sống, vui vẻ ờ tuổi bảy mươi, cùng với vài họ hàng và cháu chắt.

Một chiếc xuồng câu cũ neo ở gần nhà. Nó vẫn nổi – chủ yếu do anh trai anh vẫn muốn giữ lại. Randy ngồi trên ghế vải ở ngoài bến, một tay cầm can bia, nhìn chăm chú chiếc xuồng. Anh để ngực trần, mặc quần soóc đến gối và mang dép lào. Điều duy nhất khiến anh nhận ra Jack đang bước tới chính là lúc anh nhấc can bia lên.

Randy hỏi Jack, “Vậy ta sắp đi săn?”

“Anh đã gọi T-Bob và Peeyot chưa?”

“Họ nghe rồi. Họ sẽ tới đây” – Randy nhìn mặt trời hạ thấp dần, rồi ừ bằng một cái nhún vai – “khi họ đến.”

Jack gật đầu. T-Bob và Peeyot Thibodeaux là hai anh em, lai giữa người Cajun da đen, người Ấn. Họ là những tay săn giỏi nhất vùng đầm lầy mà anh biết. Mùa xuân năm ngoái, họ đã giúp lùng ra một cặp buôn lậu ma túy bỏ tàu trên sông Mississippi và cố tẩu thoát khỏi vùng phù sa. Sau cả ngày hì hục tìm lối ra, bọn đào tẩu còn vui mừng khi anh em Thibodeaux tìm thấy họ

Randy hỏi, “Vậy ta săn gì đây? Chú chẳng nói gì cả.”

“Một con mèo lớn.”

“Mèo rừng?”

“Lớn hơn nhiều.”

Randy nhún vai. “Vậy đó là lí do chú đến đây mang Burt đi.”

“Nó có ở cùng với cha không?”

“Nó có thể ở nơi nào khác?”

Jack đi về phía căn nhà. Anh trai anh đang rất cáu kỉnh. Anh không biết tại sao, nhưng anh có thể đoán ra căn nguyên. “Anh không nên uống nếu chuẩn bị đi cùng tụi em.”

“Tao bắn giỏi hơn khi trong người có chút bia.”

Jack trợn tròn mắt. Không chừng anh trai anh nói đúng.

Tới nhà, anh xoay chốt mở cửa. Anh đã không sống ở đây từ hơn một thập kỷ. Anh có nơi ở riêng gần hồ Pontchartrain, một căn hộ anh mua sau cơn bão Katrina. Anh bước vào phòng khách đằng trước. Đây là nhà – thân thuộc hơn bất kỳ nơi nào khác. Mùi dầu chiên chọi với hỗn hợp đen các loại gia vị. Qua năm tháng, mùi thấm vào vữa đá, trộn với mùi khói gỗ và thuốc lá.

Anh chợt quay về thời thơ ấu hạnh phúc trong tiếng om sòm, hỗn loạn, nhộn nhịp của gia đình. Giờ đây không gian yên tĩnh hơn nhiều, giống như nửa ngủ say, chờ ngày thức dậy.

Một tiếng gọi anh. “Qui c"est q"ça?

Anh đáp lại, “Là con, cha ơi!”

Để tìm cha mình, anh chỉ cần hướng mũi về phía màn khói thuốc nồng nhất và lần theo những âm thanh nhẹ, xạo xạc của nhạc Zydeco. Cha anh đang đọc ở dưới sảnh. Một lò sưởi bằng đá lấp đầy một bức tường; phần còn lại là những kệ đầy sách.

“Con đây rồi, Jack.” Cha anh đang nhấc mình ra khỏi ghế tựa.

Jack vẫy ông ngồi xuống.

Ông ngồi trở lại với một tiếng thở dài. Cha anh gần như liệt bởi chứng viêm khớp. Cơ thể cường tráng trước đây của ông đã lão hóa theo thời gian, chỗ các khớp xương. Lẽ ra ông nên ở trong nhà dưỡng lão, nhưng đây là nơi ông thoải mái nhất, đọc sách, nghe nhạc và ngồi cùng con chó săn già của ông, Burt, con cuối cùng của giống chó săn này. Những con chó là một phần của gia tộc Menard, như bất kì anh chị em nào.

Con chó săn lông màu nâu đen nằm bên lò sưởi lạnh, ườn cả chân và tai ra trên nền đá mát rượi. Trong chín năm, mõm nó chuyển sang màu xám, nhưng nó vẫn khỏe mạnh và mũi nhạy hơn hết thảy các con khác.

Nó có cái mũi mà Jack muốn mượn trong tối nay.

Cha anh nhét thêm thuốc lá vào tẩu. “Nghe nói con bảo mấy đứa bọn nó ra ngoài săn bắn.”

Burt ngẩng đầu, tai vểnh lên, đáp lại lời chào. Đuôi nó lập tức ngoe nguẩy, như thắc mắc xem nó có nghe đúng không. Mũi nó nhạy, nhưng tai thì lãng dần.

Jack trả lời, “Tụi con sẽ đi.”

“Tốt, tốt. Mẹ con đã lau sạch và bôi trơn súng của con. Bà ra ngoài với em họ con để giặt ủi quần áo.”

Jack mỉm cười, mường tượng cảnh bà mẹ lớn tuổi tháo rời súng của anh và lau kĩ từng bộ phận. Là phụ nữ Cajun, bà có thể làm việc đó khi mắt nhắm lại. Thời con gái, mẹ anh là tay bắn cừ nhất trong gia đình. Bà từng cắm cọc một con cá sấu lảng vảng ngoài cửa sổ nhà bếp khi nó lết ra khỏi nước và đuổi theo em trai anh hồi còn bé. Jack quên mất không dòm theo Tom khi cậu chơi quá gần bờ nước. Bà đã nhắm một phát thẳng vào mắt con cá sấu, bỏ nó chết trong lúc tháo chạy. Sau khi mắng em trai Jack và quật vào mông anh vì tội bỏ bê trách nhiệm, bà quay lại nấu nướng.

Ký ức lờ mờ hiện qua nụ cười của Jack. Bà đã gắng hết sức để bảo vệ họ, mãnh liệt như bất cứ bà mẹ nào, nhưng rồi bà đã không thể bảo vệ họ khỏi chính bản thân họ. Trên đường xuống sảnh, anh đi ngang qua phòng ngủ của anh và em trai. Giờ không ai xài nó cả. Nó trở nên giống một gian thờ. Các giải thưởng và những chiếc cúp của Tom vẫn nằm yên trên kệ, cùng với bộ sưu tập vỏ sò, sách và đĩa ghi âm cũ của cậu. Có rất ít kỉ vật lưu lại của Jack trong phòng đó. Anh bị đè nặng bởi những đau buồn và ký ức.

Cha anh chắc đã nhận ra gì đó trên mặt Jack. “Cha nghe nói con đã gặp con bé đó hôm nay. Con bé mà… mà từng cặp với Tommy.”

Anh bắt đầu hỏi bằng cách nào cha anh biết điều đó; rồi anh nhớ lại đây là vùng đầm lầy thôn quê. Lời nói, đặc biệt là tin đồn, lan nhanh qua vùng đầm lầy nhanh hơn bất kì cơn bão nào. Bây giờ anh đã hiểu thái độ tiếp đón lạnh lùng và cáu kỉnh của Randy.

“Cô ấy đang giúp con làm một vụ. Một đường dây buôn lậu động vật. Không có gì đặc biệt.”

Jack cảm thấy mặt anh nóng lên, bối rối không chỉ bởi sự thật nửa vời mà vì điều không thành thật lớn hơn bị vùi lấp trong quá khứ của anh. Cái chết của em trai anh đã quy vào tai nạn do say rượu. Lorna đã lái xe. Phần đó của câu chuyện đúng. Rất ít người biết phần còn lại. Lorna bị tố cáo, ăn một cái tát hầu như vì lời khai riêng của Jack với thẩm phán. Mặc dù vậy, gia đình anh, chưa bao giờ tha thứ cho cô.

Cha cậu ngậm tẩu thuốc lẩm bẩm, “Con bé có vẻ là một cô gái ngoan.”

Jack lúng túng đáp, “Lúc đó chúng chỉ là trẻ con.” Anh đã hứa không kể với bất kì ai ngoài thẩm phán về sự thật.

Vì cả hai.

Cha anh nhìn chằm chằm vào Jack. Ánh mắt của ông cho thấy ông nghi ngờ còn gì đó về câu chuyện này.

Một tiếng gọi từ một phía khác của ngôi nhà phá vỡ khoảnh khắc khó xử. Mẹ anh gọi, “Jack. Con ở đâu? Mẹ gói một thùng lạnh cho con với mấy đứa đây. Có một giỏ đầy heo quay và xúc xích nữa!”

“Con tới ngay!”

Ánh mắt dò xét nặng nề của cha đuổi theo khi anh bỏ đi. Anh thở phào khi xuống đến sảnh. Khi anh bước ra, điện thoại rung lên trong túi. Mừng vì đánh lạc hướng, anh kê điện thoại lên tai.

Đó là Scott Nester, người phó chỉ huy dưới cấp của anh cùng nhân viên CBP. “Chúng tôi tìm thấy người trông thấy con báo chết tiệt đó.”

“Ai? Ở đâu?”

“Một thằng nhóc trên xuồng. Nó đã bắn chỉ thiên vào một trong các trực thăng tìm kiếm của chúng ta để gây chú ý.”

“Có chắc đó là mục tiêu của ta không?”

“Chắc. Nó mô tả một con báo màu trắng với những cái nanh to. Bảo rằng con báo đã giết cha mình. Chúng tôi đã cử một đội tìm kiếm thi thể.”

Những ngón tay của Jack bấu chặt điện thoại. “Thằng bé có nhìn thấy đối tượng chạy về hướng nào không?”

“Hướng bắc, nó nghĩ vậy. Về phía sông Mississippi.”

“Chính xác là tìm thấy thằng bé chỗ nào?”

“Sếp có bản đồ không?”

“Tôi có thể lấy một cái.”

Scott chỉ anh tọa độ. Sau vài hướng dẫn, Jack gác máy và vội vã đến chỗ anh trai mình cất giữ một tập các bản hải đồ trong một tủ chén gần cửa sau. Nó nhét đầy dụng cụ đánh cá, hộp đồ nghề, và tất cả các loại mồi nhử. Anh chọt ngón cái vào một mũi câu khi anh bới lên bản đồ của vùng châu thổ.

Cầm bản đồ trong tay, anh nén đi cơn tò mò và lau vết máu trên áo. Anh đến chỗ cái bàn, mở tấm bản đồ, dùng bút chì đánh dấu vị trí nơi thằng bé trên xuồng được giải cứu – hoặc xác định gần đúng vị trí trên tấm bản đồ cũ. Vài năm trở lại, hiện tượng cát lở và lũ lụt liên tiếp đã khiến các chi tiết trên những tấm bản đồ khu vực tốt nhất bị sai lệch. Tuy nhiên anh vẫn có thể chỉ ra hòn đảo nơi chiếu tàu mắc cạn. Anh vẽ một đường thẳng giữa các tàu đắm và nơi thằng bé được tìm thấy.

Đường vẽ hướng về phía bắc. Cùng hướng con báo đi đến. Jack kéo dài nét đứt về phía bắc từ vị trí của thằng bé. Anh vẽ đường thẳng đến tận chỗ sông Mississippi. Đường thẳng kết thúc tại một thị trấn ven sông nhỏ có tên Port Sulphur. Anh đánh dấu X trên bản đồ. Anh biết thị trấn này. Nó đã gần như bị xóa sổ bởi cơn bão Katrina. Một số căn đã cuốn đi xa khỏi móng cả trăm mét.

Nhoài ra sau, Jack nghiên cứu bản đồ.

Randy đẩy cửa sau và đến tham gia cùng anh.“T-Bob và Peeyot vừa mới tới bằng ca nô.” Anh chỉ vào dấu X vẽ trên bản đồ. “Chúng ta đến đó à?”

“Đó là nơi chúng ta bắt đầu. Chúng ta sẽ tập hợp mọi người tại Port Sulphur và hướng về phía nam vùng đầm lầy.” Anh nhìn chăm chăm vào đường đứt nét. Con báo nanh kiếm phải ẩn nấp đâu đó dọc theo đường đó.

“Vậy làm sao chúng ta đến đó?” anh trai anh hỏi và vỗ vào vai anh. “Laissez les bons temps rouler.”

Jack gấp bản đồ lại. Trước khi anh có thể làm theo lời khuyên của anh trai “cứ thoải mái đi”[2] anh có một việc nữa phải làm là giữ một lời hứa khiên cưỡng.

“Em phải đón một người trước đã.”