Suốt ngày còn lại, Henrích và Khơlưnốp lang thang trong thị trấn K. Họ đi dạo khắp các đường phố, tán gẫu về mọi chuyện linh tinh với những người dân địa phương, tự xưng là khách du lịch. Khi thành phố đã lặng yên, họ lại đi vào núi. Quãng nửa đêm, họ đã leo lên con đường dốc thoải dẫn vào khu vườn của Stuphe. Họ quyết định sẽ khai là những nguời du lịch bị lạc đường, nếu như cảnh sát chú ý đến họ. Nếu họ bị bắt thì cũng chẳng có gì nguy hiểm: cả thành phố có thể xác nhận tình trạng ngoại phạm của họ. Sau phát súng bắn từ bụi cây, khi đã nhìn thấy rõ đầu Garin vỡ tan thành từng mảnh và chỉ bốn mươi phút sau là cùng, họ đã có mặt ở thành phố.
Họ đã bò qua hàng dậu thấp, lẩn sau các bụi cây, đi vòng quanh quãng rừng thưa rồi bước về phía nhà Stuphe. Họ dừng lại, liếc nhìn nhau, không hiểu gì hết. Trong vườn và trong nhà vẫn yên tĩnh và bình lặng. Một vài ô cửa sổ sáng ánh đèn. Chiếc cửa lớn dẫn thẳng vào vườn vẫn mở toang. Ánh sáng dìu dịu tỏa xuống hàng bậc đá. Ở bậc thềm trên cùng, một người to béo đang khe khẽ thổi sáo. Bên cạnh ông ta là một chai rượu đặt trong lưới bện. Đấy chính là người mà sáng nay đã bất ngờ xuất hiện trên con đường hẻm gần đài phát sóng và khi nghe thấy tiếng súng đã lảo đảo chạy về phía ngôi nhà. Giờ đây, ông ta đang ung dung, dường như chẳng có gì xảy ra hết.
- Ta đến đi, - Khơlưnốp thầm thì, - phải tìm hiểu mới được.
Henrích lầu bầu:
- Tôi không thể bắn trượt đâu.
Họ đi về phía bậc thềm. Đến nửa chừng, Khơlưnốp thấp giọng hỏi:
- Xin lỗi vì đã làm phiền ông... Ở đây không có chó chứ?
Stuphe buông sáo xuống, quay đầu lại, vươn cổ ra nhìn hai bóng người lờ mờ.
- Có đấy, - ông ta kéo dài giọng, - chó ở đây dữ lắm.
Khơlưnốp giải thích:
- Chúng tôi bị lạc đường, chúng tôi muốn tham quan khu di tích "Bộ xương cùm xích"... Ông cho phép ngồi nghỉ một lát.
Xtuphe đáp lại bằng một tiếng ầm ừ mơ hồ. Henrích và Khơlưnốp cúi chào rồi ngồi xuống bậc thềm phía dưới - cả hai đều cảnh giác, hồi hộp. Stuphe từ bên trên nhìn họ.
- Các ông biết không, - ông ta lên tiếng, - hồi tôi còn giàu có, tôi cho thả chó vào vườn. Tôi không ưa những kẻ càn rỡ và những vị khách ban đêm. (Khơlưnốp nhanh nhẹn bóp chặt tay Henrích ra ý bảo: đừng nói gì hết). Bọn Mỹ đã làm tôi phá sản và khu vườn biến thành con đường qua lại của những kẻ vô công rồi nghề, mặc dù đâu đâu cũng treo biển cảnh cáo là phạt đến một nghìn mác. Nhưng nước Đức không còn là đất nước của những người dân tôn trọng luật pháp và quyền sở hữu nữa. Tôi đã bảo người thuê biệt thự của tôi như thế này: hãy dùng dây thép gai bao quanh khu vườn và hãy thuê lấy một người gác. Nhưng ông ta không chịu nghe tôi và chính ông ta có lỗi...
Henrích nhặt một viên đá ném vào bóng tối và hỏi:
- Ông đã gặp một chuyện gì khó chịu vì những vị khách ấy phải không?
- Nói "khó chịu" thì quá nhấn mạnh, nhưng buồn cười thì có. Và mới sáng hôm nay thôi. Dù sao chăng nữa thì quyền lợi kinh tế của tôi không bị động chạm đến, và tôi sẽ đắm mình trong trò giải trí của tôi.
Ông ta đưa sáo lên môi và thổi vài âm thanh chói tai.
- Suy đến cùng thì việc ông ta ở đây hay say sưa ở Côlônhơ nào có quan hệ gì đến tôi. Ông ta trả tiền sòng phẳng... Không một ai dám trách móc ông ta điều gì hết. Nhưng ông ta hóa ra là một người nóng nảy. Lẽ ra trong thời gian chiến tranh đã phải quen với tiếng súng rồi... Ông ta thu xếp hết đồ đạc rồi từ biệt tôi... Được thôi, xin cứ việc mà đi...
- Ông ta đi hẳn rồi à? - Khơlưnốp bỗng hỏi to.
Stuphe nhỏm dậy nhưng lại ngồi xuống. Có thể thấy rõ má ông ta được ánh sáng trong phòng hắt ra chiếu sáng bỗng nhòa ra, béo phị - ông ta mỉm cười giễu cợt. Chiếc bụng phệ của ông ta rung rung.
- Quả đúng như ông ta đã báo cho tôi biết trước: nhất định sẽ có hai quí ông đến hỏi tôi về việc ông ta ra đi. Ông ta đi hẳn, đi hẳn rồi, các quí ngài ạ. Nếu các ngài không tin, tôi sẽ cho các ngài xem phòng của ông ta. Nếu các ngài là bạn ông ta thì xin các ngài cứ việc mà xem... Đấy là quyền của các ngài vì căn phòng đã được trả tiền rồi...
Stuphe lại định đứng dậy, nhưng hai chân ông ta chỉ chực khuỵu xuống. Không thể khai thác được gì có ích ở ông ta nữa. Henrích và Khơlưnốp trở lại thành phố. Suốt dọc đường, họ không nói với nhau một lời nào. Mãi khi đến chiếc cầu qua dòng sông đen sẫm phản chiếu ánh đèn, Henrích mới đột ngột dừng lại, bóp chặt nắm tay:
- Quỷ quái thật! Chính tôi nhìn thấy đầu y vỡ tan kia mà...
Một người nhỏ bé, rắn chắc, bộ tóc hoa râm chải mượt, đeo đôi kính xanh che lấp cặp mắt đau, đứng cạnh lò sưởi lát gạch men và cúi đầu nghe Khơlưnốp nói.
Lúc đầu, Khơlưnốp ngồi trên đi văng, sau đó anh chuyển sang ngồi trên bậu cửa sổ, rồi anh bắt đầu rảo bước đi đi lại lại trong phòng khách nhỏ của sứ quán Liên Xô.
Anh kể chuyện Garin và Rôlinh. Câu chuyện của anh chính xác và nhất quán, nhưng chính anh cũng cảm thấy tất cả những biến cố lộn xộn ấy thật khó lòng tin nổi.
- Cứ giả dụ tôi và Henrích sai lầm đi. Thế thì tuyệt quá, chúng tôi có những kết luận sai lầm. Nhưng dù sao thì khả năng xảy ra tai nạn vẫn là năm mươi phần trăm. Chúng ta phải quan tâm đến năm mươi phần trăm ấy. Với tư cách là đại sứ, đồng chí có thể thuyết phục, gây ảnh hưởng, giải thích... Tất cả những chuyện đó đều hết sức nghiêm trọng. Bộ máy kia là có thực. Đồng chí Senga đã sờ tận tay rồi. Cần phải khẩn trương hành động ngay lập tức. Đồng chí chỉ còn có hơn một ngày đêm thôi. Đêm mai, tất cả những chuyện đó nhất định sẽ xảy ra. Henrích ở lại K. Anh ấy đang làm tất cả những gì có thể làm được để báo trước cho công nhân, các công đoàn, nhân dân thành phố và ban quản trị các nhà máy. Đương nhiên là không một ai tin cả... Đấy, ngay cả đồng chí nữa...
Đại sứ vẫn cúi đầu im lặng.
- Tại tòa soạn báo địa phương, họ đã cười giễu chúng tôi đến chảy nước mắt. May lắm thì họ coi chúng tôi là hai gã điên rồ...
°
Khơlưnốp ôm chặt lấy đầu - những món tóc rối bù nhô lên qua kẽ ngón tay. Mặt anh hốc hác, dính đầy bụi. Cặp mắt trắng nhợt dừng lại, như trước một ảo ảnh ghê sợ. Đại sứ thận trọng ngước nhìn anh qua đôi kính:
- Tại sao đồng chí không đến gặp tôi sớm hơn?
- Chúng tôi chưa có các sự việc cụ thể... Những giả thuyết, những kết luận - những thứ đó rất gần với trí tưởng tượng huyễn hoặc, điên rồ... Ngay bây giờ tôi cũng luôn có cảm giác là tôi sắp thức tỉnh và sẽ thở phào nhẹ nhõm. Nhưng tôi cam đoan với đồng chí là đầu óc tôi hoàn toàn tỉnh táo. Đã tám ngày đêm nay tôi và Henrích không ngủ.
Sau một lát im lặng, đại sứ nghiêm trang nói:
- Tôi tin rằng đồng chí không phải là kẻ lừa gạt, đồng chí Khơlưnốp ạ. Chắc hẳn đồng chí đã bị ám ảnh bởi một ý tưởng gì đó, - ông lập tức giơ tay lên để chặn cử chỉ tuyệt vọng của Khơlưnốp, - nhưng tôi bị thuyết phục vì khả năng năm mươi phần trăm của đồng chí. Tôi sẽ làm tất cả những gì thuộc khả năng của tôi...
Ngày hai mươi tám, từ sáng sớm, trên quảng trường thành phố K, dân chúng tụ tập lại thành từng nhóm, người thì nghi hoặc, người thì có phần sợ hãi, họ thảo luận về những bản cáo thị lạ lùng dán bằng bột mì nhão trên các bức tường nhà tại khắp các ngã tư.
"Cả chính quyền lẫn ban quản trị các nhà máy và các nghiệp đoàn đều không muốn lắng nghe lời kêu gọi khẩn thiết của chúng tôi. Hôm nay, - chúng tôi tin chắc như vậy, - các nhà máy, thành phố và toàn thể dân chúng đứng trước một tai họa chết chóc. Chúng tôi đã cố gắng ngăn chặn nó, nhưng lũ khốn kiếp bị bọn chủ ngân hàng Mỹ mua chuộc đã tỏ ra quá xảo quyệt. Đồng bào hãy tự cứu lấy mình, hãy rời khỏi thành phố, chạy ra vùng đồng bằng ngay. Vì cuộc sống của đồng bào, vì tính mạng của con cái đồng bào, hãy tin lời chúng tôi".
Cảnh sát đã đoán ra ai là người viết các bản cáo thị này, họ lùng kiếm Henrích. Nhưng anh đã biến mất. Đến trưa, chính quyền thành phố ra thông báo, cảnh cáo là trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được rời bỏ thành phố và gieo rắc kinh hoàng, bởi vì rõ ràng rằng đêm nay bọn vô lại có ý định cướp phá các ngôi nhà bỏ trống.
"Thưa toàn thể dân chúng, các người đang bị lừa gạt. Hãy tỏ ra tỉnh táo. Ngay hôm nay, bọn vô lại sẽ bị phát hiện, bị bắt giữ và bị xử lý theo pháp luật".
Chính quyền đã đạt được mục đích: điều bí ẩn đe dọa kia hóa ra thật giản dị. Dân chúng lập tức yên tâm và thậm chí còn tự giễu cợt nữa: "Mưu mẹo kể cũng khá thật đấy - bọn vô lại sẽ tha hồ mà làm mưa làm gió trong các nhà, các cửa hàng. Còn lũ ngu muội chúng ta thì sẽ sợ run lên suốt đêm ngoài đồng bằng, ha ha".
Buổi tối hôm ấy cũng hệt như hàng nghìn buổi tối khác, ánh hoàng hôn soi sáng các ô cửa sổ trong thành phố. Chim chóc đã im tiếng trên các cây cối. Ngoài sông, ếch nhái kêu ộp oạp trên đôi bờ ẩm ướt. Ánh sáng êm dịu chiếu qua cửa sổ các hàng quán, đám khách quen ung dung nhúng bộ ria trong bọt bia. Cả người chủ quán ăn ngoại thành "Trên đường dẫn tới bộ xương cùm xích" cũng đã dịu bớt, ông ta vừa đi đi lại lại trên khu gác sân vắng vẻ vừa nguyền rủa chính phủ, nguyền rủa bọn đảng viên xã hội và dân Do Thái, ra lệnh đóng kín cửa rồi lên xe đạp đi về thành phố.
Đúng lúc đó, trên sườn đồi phía Tây, một chiếc xe hơi không bật đèn, gần như không có tiếng động cơ, lao vun vút trên con đường ít người qua lại. Hoàng hôn đã tắt, các ngôi sao vẫn chưa thật sáng, phía sau các ngọn núi tỏa lan một vừng sáng lành lạnh - trăng lên. Ở vùng đồng bằng, đây đó lập lòe ánh lửa vàng vàng. Chỉ ở phía các nhà máy là vẫn rộn ràng, nhộn nhịp.
Henrích và Khơlưnốp ngồi bên dốc đứng ở cuối khu di tích lâu đài cổ. Họ đã một lần nữa lục soát mọi ngõ ngách và trèo lên ngọn tháp vuông - không hề thấy chỗ nào có dấu vết công việc chuẩn bị của Garin. Đã có lúc họ cảm thấy như xa xa có tiếng xe hơi chạy. Họ lắng nghe, chăm chú nhìn. Buổi tối êm ả, đượm vẻ thanh bình cổ xưa của trái đất. Đôi lúc, những dòng không khí chuyển động, mang đến hơi ẩm của hoa lá từ phía dưới.
- Tôi đã xem bản đồ rồi, - Khơlưnốp nói, - nếu chúng ta đi xuống theo hướng Tây thì chúng ta sẽ cắt ngang con đường sắt tại một ga xép, nơi chuyến xe thư thường đỗ lại, vào lúc năm rưỡi. Theo tôi thì ở đấy không có cảnh sát gác đâu.
Henrích đáp:
- Toàn bộ câu chuyện này đã kết thúc một cách lố bịch và ngu ngốc. Con người chỉ mới chuyển từ tư thế bò bằng tứ chi lên tư thế đứng thẳng bằng hai chân và nó còn bị đè nặng bởi hàng triệu thế kỷ sống trong tình trạng man rợ tăm tối. Đám đông dân đen không được một tư tưởng lớn hướng dẫn thì thật đáng sợ. Không thể để mặc mọi người chịu cảnh không có người hướng dẫn được. Họ luôn luôn có khuynh hướng trở lại tư thế bò.
- Ý anh muốn nói gì đấy, Henrích?
- Tôi mệt rồi, - Henrích đáp rồi ngồi xuống đống đá, tì chiếc cằm rắn chắc vào hai nắm tay, - Chẳng lẽ anh không một giây phút nào nghĩ rằng vào ngày hai mươi tám, chúng ta sẽ bị bắt như những tên bịp bợm và ăn cướp hay sao? Nếu như anh nhìn thấy những kẻ đại diện chính quyền đã đưa mắt nhìn nhau như thế nào khi tôi ra sức chứng minh cho họ thấy tai họa có thể xảy ra... Chà! Sao tôi lại ngu ngốc đến thế. Và họ có lý, vấn đề là như vậy. Họ không bao giờ biết được chuyện gì đang đe dọa họ...
- Nếu như không có phát súng của anh, Henrích ạ...
- Thật quái quỷ... Nếu như tôi không bắn trượt... Tôi sẵn sàng chịu án mười năm khổ sai, miễn là chứng minh được cho lũ ngu ngốc ấy...
Giọng Henrích giờ đây âm vang trong khu thành quách đổ nát. Cách họ ba mươi bước - hệt như người đi săn lần mò theo tiếng gà rừng - Garin đang men theo bóng tối của bức tường đã đổ một nửa. Y nhìn rõ bóng hai người bên dốc đứng, nghe rõ từng câu nói của họ. Đến khoảng trống giữa ngọn tháp và cuối bức tường, y nằm xuống bò. Ở chỗ giáp giới giữa chân ngọn tháp và chiếc hang mái vòm "Bộ xương cùm xích" còn sót lại một khúc cột bằng sa thạch Garin lần ra sau khúc cột đó. Có tiếng đá lạo xạo và tiếng sắt gỉ kêu ken két. Henrích nhảy bật dậy:
- Anh nghe thấy không?
Khơlưnốp nhìn đống đá, nơi Garin vừa độn thổ. Họ chạy đến chỗ đó. Họ đi một vòng quanh ngọn tháp.
- Ở đây có cáo, - Henrích nói.
- Không, chắc đấy là tiếng chim đêm.
- Ta phải đi thôi. Chúng ta bắt đầu mắc chứng ảo giác rồi đấy...
Khi họ bước đến gần con đường dốc dẫn từ khu di tích xuống con đường núi, thì một tiếng động thứ hai vang lên - dường như một cái gì đó rơi xuống và lặng đi. Henrích run bắn lên. Họ nín thở lắng nghe hồi lâu. Hình như bản thân sự tĩnh mịch cũng vang lên trong tai họ.
- Ta đi đi.
- Đúng đấy, thật ngu ngốc.
Lần này, họ quả quyết rảo bước, không ngoái đầu lại. Và do đó một người đã thoát chết.
Henrích không hoàn toàn sai khi đoán chắc rằng anh đã nhìn thấy những mảnh xương sọ của Garin bắn tóe ra. Khi Garin im lặng khoảng một giây trước micrô, vươn người lấy điếu xì gà đang tỏa khói ở mép bàn, thì chiếc ống nghe bằng êbônít mà y áp chặt vào tai để kiểm tra giọng nói của mình, bỗng tan ra từng mảnh. Đồng thời, y nghe thấy một tiếng súng đanh gọn và cảm thấy đau nhói bên trái đầu. Y lập tức ngã nghiêng xuống rồi nằm sấp và lặng đi không nhúc nhích. Y nghe thấy tiếng Stuphe rú lên và tiếng chân người chạy đi.
"Ai - Rôlinh hay Senga?" - y cố sức giải đáp câu hỏi đó khi ngồi trên xe phóng về Côlônhơ khoảng hai giờ sau. Nhưng chỉ bây giờ, khi nghe thấy câu chuyện của hai người ngồi bên dốc đứng, y mới đoán ra được. Senga khá thật... Nhưng dù sao cũng không nên dùng những thủ pháp không cho phép như vậy...
Y đẩy khúc cột sang bên - khúc cột này che lấp một nắp cửa sập han gỉ, rồi y bò xuống đất và bật đèn pin, đi theo những hàng bậc vỡ nát lên chiếc "túi đá" - một hốc nhỏ ăn sâu vào bức tường của ngọn tháp thời Noócmăng. Đấy là một ngăn xà lim, dài rộng mỗi bề chừng hai bước chân. Trong tường còn giữ lại được những chiếc vòng và cùm xích bằng đồng. Cạnh bức tường đối diện, bộ máy đặt trên một chiếc bệ gỗ ghép thô lại với nhau. Phía dưới là bốn hộp sắt tây chứa đinamít. Phần tường đối diện với nòng bộ máy bị đục thủng, nhưng lỗ thủng bị "Bộ xương cùm xích" che kín từ phía ngoài.
Y tắt đèn pin, đẩy nòng bộ máy sang bên, rồi thò tay qua lỗ hổng, gạt bộ xương đi. Chiếc sọ tung lên, lăn lông lốc. Qua lỗ hổng, có thể nhìn thấy ánh đèn của các nhà máy. Mắt Garin rất tinh. Y thấy được cả những bóng người nhỏ bé đang đi đi lại lại giữa các tòa nhà. Cả người y run lên. Răng y nghiến chặt. Y không ngờ rằng tới được giây phút này lại khó khăn như vậy. Y lại chĩa nòng bộ máy vào lỗ hổng và lắp khít vào. Y tháo nắp phía sau ra, kiểm tra các khối chóp than. Mọi việc đều đã chuẩn bị xong xuôi trước đó một tuần lễ. Bộ máy thứ hai và mô hình cũ nằm trong chiếc xe đỗ ở phía dưới, trong rừng.
Y đóng nắp lại và đặt tay lên cần động cơ điện dùng để đốt cháy tự động các khối chóp than. Người y run lên suốt từ đầu đến chân. Không phải lương tâm (còn lương tâm gì được nữa sau chiến tranh thế giới), cũng không phải nỗi sợ hãi (y quá khinh suất) cũng không phải lòng thương xót đối với các nạn nhân của y (họ ở quá xa) đã khiến y cảm thấy vừa ớn lạnh vừa nóng bừng bừng. Y hiểu hết sức rõ rệt rằng chỉ cần quay một vòng tay lên thôi là sẽ trở thành kẻ thù của nhân loại.
Y thậm chí bỏ bàn tay khỏi cần gạt và thò vào túi lấy thuốc lá. Nhưng khi ấy, bộ óc hồi hộp của y trả lời cử chỉ của tay y: "Ngươi trùng trình, ngươi thích thú, đấy là sự điên rồ..."
Y quay manhêtô. Lửa trong bộ máy bùng lên, kêu xèo xèo. Y chậm rãi vặn chiếc vít đo vi lượng.
Khơlưnốp là người đầu tiên chú ý đến luồng ánh sáng trên trời cao.
- Kia lại thêm một luồng sáng nữa, - anh khẽ nói.
Họ dừng lại giữa đường và ngẩng đầu nhìn. Phía dưới luồng sáng đầu tiên, bên trên các vòm cây đã xuất hiện luồng lửa thứ hai, nó vừa để rơi những tia lửa như chiếc pháo sáng đang tắt vừa hạ thấp xuống.
- Đó là chim bị bốc cháy đấy, - Henrích thầm thì, - anh nhìn kìa.
Bên trên khu rừng, một con chim đang bay thong thả, loạng choạng trên dải sáng của bầu trời. Nó bốc lửa, chao đảo rồi rơi xuống.
- Chúng bị chạm vào dây điện.
- Dây điện nào kia?
- Chẳng lẽ anh không nhìn thấy ư, Henrích?
Khơlưnốp chỉ một sợi dây lấp lánh thẳng tắp như mũi tên. Nó chạy từ khu di tích trên cao về phía các nhà máy của Công ty hóa chất anilin. Đường đi của nó được đánh dấu bằng những chiếc lá bốc cháy, bằng những con chim biến thành lửa. Giờ đây, nó sáng chói lọi, một đoạn dài của nó đang cắt đứt hàng thông đen dày đặc.
- Nó hạ xuống kìa! - Henrích hét lên.
Cả hai đã hiểu sợi dây đó là gì. Họ chỉ có thể sững sờ theo dõi hướng đi của nó. Đòn đầu tiên của tia sáng giáng vào ống khói nhà máy - ống khói đung đưa, gẫy đôi rồi rơi xuống. Nhưng cảnh đó xảy ra rất xa, không nghe thấy tiếng rơi.
Gần như ngay lập tức, ở phía bên phải ống khói, một cột hơi nước bốc lên, bên trên mái tòa nhà dài, nó đượm hồng và trộn lẫn với khói đen. Dịch sang bên trái một chút là tòa nhà năm tầng. Đột nhiên, tất cả các ô cửa sổ của nó đều tắt phụt. Khắp bề mặt tòa nhà, suốt từ trên xuống dưới là những đường chữ chi lửa chạy vùn vụt...
Khơlưnốp la hét như điên dại... Tòa nhà đổ sụp, bộ khung nhà chìm trong lửa khói.
Mãi đến lúc này, Henrích và Khơlưnốp mới lao ngược lại về phía núi, về phía tòa nhà đổ nát. Họ chạy qua con đường ngoằn ngoèo, bò lên những bờ dốc dựng đứng rậm rạp cây cối. Họ ngã xuống rồi lại bò tiếp. Họ la hét, chửi rủa - một người bằng tiếng Nga, một người bằng tiếng Đức. Rồi bỗng vọng đến tai họ là một tiếng động âm vang như tiếng thở dài của trái đất.
Họ quay đầu lại nhìn. Giờ đây đã nhìn rõ toàn bộ nhà máy trải dài nhiều cây số. Một nửa các tòa nhà đang bốc cháy như bằng bìa cứng. Bên dưới, ngay sát thành phố, khói vàng sẫm bốc lên như chiếc nấm khổng lồ. Tia sáng của bộ máy khủng khiếp lồng lộn giữa cảnh đổ nát này, lần tìm con mồi chính là các kho chứa chất nổ bán thành phẩm. Ánh hồng loang ra đến nửa bầu trời. Những đám khói dày đặc, những bó tia lửa màu vàng, màu hung, màu trắng bạc cuồn cuộn bốc lên cao hơn núi.
- Chà, chậm mất rồi! - Henrích kêu lên.
Họ nhìn thấy một khối gì đó sống động tràn ra từ thành phố theo những dải đường trắng mờ. Đoạn sông phản chiếu toàn bộ đám cháy khủng khiếp hình như gợn lăn tăn vì những chấm đen. Đấy là dân cư trong thành phố hốt hoảng bỏ chạy ra vùng đồng bằng.
- Chậm rồi, chậm mất rồi! - Henrích tiếp tục kêu lên. Bọt và máu trào ra cằm anh.
Chạy trốn lúc này quả là đã muộn. Cánh đồng cỏ nằm giữa thành phố và khu nhà máy lợp những hàng mái ngói chạy dài đột nhiên như nâng cao lên. Mặt đất phình ra. Đấy là cảnh tượng đầu tiên mà mắt họ nhìn thấy. Ngay lập tức, từ trong lòng đất, những lưỡi lửa phụt lên qua các khe nứt. Rồi cũng ngay lập tức, lửa bùng cao thành một cột lửa và hơi đốt nóng bỏng, chói lọi và rực rỡ đến mức chưa ai thấy bao giờ. Bầu trời dường như bay lên cao tít bên trên toàn bộ vùng đồng bằng. Khắp khoảng không tràn ngập làn ánh sáng xanh xanh, hồng hồng. Trong làn ánh sáng đó, hệt như vào lúc nhật thực, hiện rõ từng cành cây, từng bụi cỏ, từng tảng đá và hai mặt người trắng bệch như hóa đá.
Một tiếng nổ dữ dội. Những tiếng ầm ầm vang rền. Đất toác ra. Núi non rung chuyển. Trận cuồng phong làm cây cối chao đảo và rạp xuống. Đất đá cùng những khúc gỗ cháy vỡ bay tứ tung. Những đám khói dầy đặc phủ kín vùng đồng bằng.
Trời tối lại, và trong bóng tối vang lên tiếng nổ thứ hai, còn khủng khiếp hơn nữa. Cả bầu không khí mờ khói đều thấm đượm một thứ ánh sáng ảm đạm, ghê sợ.
Gió, những mảnh đá và những cành cây khiến Henrích và Khơlưnốp ngã lộn nhào rồi kéo băng họ xuống chỗ dốc đứng.