rong tình thế cực kỳ căng thẳng, Lăng Vị Phong móc hai chân vào mõm đá, dùng lực đu người lên, một tay chụp lấy cổ Sở Chiêu Nam tựa như bắt một con gà con, giở y lên khỏi mặt nước, Sở Chiêu Nam tuy có bảo kiếm trong tay nhưng đã đuối sức, nửa thân chìm xuống nước, chẳng thể nào né tránh được, Lăng Vị Phong giở y lên, giật lấy thanh bảo kiếm của y, hai tay bóp vào cổ họng của y. Sở Chiêu Nam kêu ằng ặc, thều thào nói: “Ta đưa Xá lợi tử cho ngươi!”.
Lăng Vị Phong nhìn y, buông tay nói: “Đưa đây”. Sở Chiêu Nam lấy ra cái hộp bằng gỗ đàn hương ướt đẫm nước, Lăng Vị Phong cầm cái hộp, sắc mặt Sở Chiêu Nam rất khó coi, đây là lần đầu tiên y nhận thua trong đời.
Lăng Vị Phong định kéo y lên, đột nhiên nghe ầm một tiếng, một trái cầu lửa đã nổ bên cạnh, Lăng Vị Phong đang đu lơ lửng trên không trung, chẳng thể nào né tránh, vai đã bị lửa táp vào nóng bỏng, mặt cũng có vài chỗ cháy xém, chàng vội vàng một tay đè vào vách đá, lăn người vào vách đá, ngọn lửa mới bị dập tắt nhưng vẫn còn cảm thấy đau đớn. Sở Chiêu Nam thừa thế xoay người trở lại, ngửa mặt nhìn Lăng Vị Phong, Lăng Vị Phong quát lớn một tiếng, rút cây Du Long kiếm trong tay y, Sở Chiêu Nam không dám lao tới, lúc nào chỉ nghe trên bờ vực có tiếng quát tháo và tiếng binh khí chạm nhau.
Cây Xà Diệm tiễn lúc nãy là do một tên vệ sĩ đi cùng Sở Chiêu Nam tên gọi Xích Đại Thụ phóng ra. Cổ Nguyên Lượng thì đã bị Lăng Vị Phong điểm huyệt bị thương, Xích Đại Thụ cùng mọi người chạy ra khỏi thạch động, y thấy Sở Chiêu Nam và Lăng Vị Phong đu người dưới vực, thế là lấy ra một cây Xà Diệm tiễn bắn xuống, cây Xà Diệm tiễn bắn ra một luồng lửa màu xanh, loại ám khí này rất lợi hại, hễ gặp thứ gì cũng bốc cháy, không thể dùng binh khí gạt đỡ, chỉ có thể né tránh. Y nghĩ phen này có thể giết chết Lăng Vị Phong, nếu Sở Chiêu Nam bị thương thì cũng chẳng tiếc.
Hàn Chí Bang và Lưu Úc Phương thấy thế thì cả giận, Hàn Chí Bang giơ thanh đao xông tới, mới đánh được mấy chiêu thì Lưu Úc Phương đã vung ám khí chụp y bị thương, binh khí trong tay Xích Đại Thụ cũng bị Hàn Chí Bang đánh rơi. Y liều mạng xông ra, mới chạy được vài bước thì đã bị hai Lạt ma chặn đầu. Cả hai người này quát lớn lao bổ tới, một người chụp lấy chân y giở ngược lên xoay mấy vòng rồi ném y xuống vực sâu.
Sở Chiêu Nam đang kinh hoảng, chợt thấy có một người rơi xuống, trong lòng cả mừng, mặc địch hay bạn, thế là vươn tay chụp lấy ném xuống nước, lúc cái xác nổi lên lềnh bềnh thì y đề khí, vận đủ nội công lao xuống sông, một chân điểm vào cái xác rồi lao vọt lên vách núi phía đối diện, chỉ trong chớp mắt đã chạy nhanh như luồng khói. Hàn Chí Bang phát ra mấy viên Thiết Liên tử nhưng vì khoảng cách quá xa nên không trúng.
Sở Chiêu Nam vội vã bỏ chạy, Hàn Chí Bang mắng: “Tên gian tặc lại chạy thoát!” Lưu Úc Phương nói: “Cứ mặc y, xem thử Lăng Vị Phong thế nào!” Hàn Chí Bang không nói một lời, bước đến bờ vực, chỉ thấy sóng vỗ vào bờ dữ dội, trên vách có một bóng người đang đu đưa. Hàn Chí Bang đánh đá lửa lên, Lưu Úc Phương nhìn thấy Lăng Vị Phong đang từ từ bò lên rất khó khăn, nàng thất kinh rung giọng kêu lên: “Y đã bị thương”. Nàng tháo Cẩm Vân Đâu ném xuống, Cẩm Vân Đâu là một sợi dây bằng thép dài đến mấy trượng, ở đầu mút có cột lưới thép, khi làm ám khí có thể quăng ra để chụp người khác, giờ đây lại là công cụ cứu người. Lăng Vị Phong leo lên được một nửa, Lưu Úc Phương đã móc chân vào mép vực đu người xuống, sợi dây thép chạm vào tay Lăng Vị Phong. Lăng Vị Phong giữ chặt lấy, Lưu Úc Phương kêu lên: “Cẩn thận!” rồi nàng dùng lực rút một cái, kéo Lăng Vị Phong ném lên. Lăng Vị Phong vọt người lên cao, Lưu Úc Phương thu người, cuộn sợi dây thép lại, đỡ Lăng Vị Phong ngồi xuống đất. Bọn Lạt ma khen rằng: “Hảo công phu”. Bọn họ không biết Lưu Úc Phương đã dùng xảo kình.
Lưu Úc Phương không trả lời, nàng nhìn kỹ lại Lăng Vị Phong chỉ thấy trên vai của chàng đã bị cháy xém, da thịt sưng tấy, Lăng Vị Phong quay đầu lại. Bọn Lạt ma kêu hoảng, khuôn mặt của chàng vốn có hai vết đao, nhưng giờ đây bị cháy đến nỗi vừa đen vừa sưng tấy lên, trông càng đáng sợ hơn. Lăng Vị Phong cười nói: “Tôi vốn đã khó coi, dù có xấu hơn một tí cũng chẳng sao”. Lưu Úc Phương nói: “Huynh cảm thấy thế nào?” Lăng Vị Phong nói: “Chẳng qua chỉ cháy có một chút da thịt, không hề gì!” rồi chàng lấy ra một hộp gỗ đàn, đưa cho một Lạt ma, mỉm cười nói rằng: “May mà đã cướp lại được Xá lợi tử!” bọn Lạt ma vội quỳ xuống bái tạ. Lạt ma thủ lĩnh rất cẩn thận, mở hộp gỗ ra, chỉ thấy bên trong chỉ có vài viên trân châu phát ra ánh sáng. Lạt ma nhìn kỹ lại thì kinh hoàng thất sắc, rung giọng kêu lên: “Bọn chúng đã đổi Xá lợi tử!” Lăng Vị Phong cũng thất kinh, hỏi: “Thế nào? Chẳng phải là Xá lợi tử ư?” Lạt ma nói: “Đây là trân châu, Xá lợi tử không phát ra ánh sáng!”.
Té ra Trương Thiên Mông rất giỏi tâm kế, y đã thấy Ngô Tam Quế trao Xá lợi tử cho các Lạt ma, bởi vậy mới len lén làm một cái hộp bằng gỗ đàn giống y hệt, bên trong bỏ trân châu. Y vốn là định đi trên đường vạn nhất có người cướp đoạt thì đem ra thay thế. Đêm nay y nghe Sở Chiêu Nam nói như thế thì cũng nổi lòng phản bội Ngô Tam Quế, bởi vậy khi Sở Chiêu Nam nguy cấp y đã ra tay cướp Xá lợi tử của Lạt ma, định rằng sẽ dâng lên Hoàng đế lập công. Sau đó y bị Lăng Vị Phong đuổi sát theo chẳng còn lối thoát, đã sử dụng kế ve sầu lột vỏ, ném hộp Xá lợi tử giả cho Sở Chiêu Nam để Lăng Vị Phong thay đổi mục tiêu.
Lăng Vị Phong gằn giọng nói: “Gặp thằng giặc này một lần nữa, tôi sẽ lột da y!” chàng lại xin lỗi bọn Lạt ma. Các Lạt ma cũng rất ái ngại, bái tạ mấy lần rồi nói: “Tuy không đoạt được Xá lợi tử, nhưng ngài đã dốc sức vì chúng tôi, ơn đức này mãi mãi không quên!” bọn họ thấy Lăng Vị Phong đã bị thương, lại đang nôn nóng về Tây Tạng nên không muốn quấy rầy chàng nữa, thế là cáo từ bỏ đi.
Lưu Úc Phương và Hàn Chí Bang đỡ Lăng Vị Phong về thạch động, vừa vào động thì Lăng Vị Phong kêu ối chao một tiếng, ngồi xuống đất. Lưu Úc Phương vội vàng chạy tới, đỡ chàng nói: “Sao thế?” Lăng Vị Phong nói: “Cô nương hãy đưa tay nải cho tôi!” chàng lấy ra hai viên thuốc màu xanh nuốt vào nói: “Không sao cả, Xà Diệm tiễn của tên tiểu tử ấy là lửa lưu huỳnh, lửa độc công tâm hơi khó chịu, mấy viên thuốc này được bào chế từ Thiên Sơn Tuyết Liên, có thể giải lửa độc”. Lưu Úc Phương không yên tâm, thấy mặt chàng đã nổi nhiều đốm nước, lại lấy dược cao của mình bôi lên cho chàng. Lăng Vị Phong quay đầu đi, tựa như không muốn. Lưu Úc Phương thấy chàng né tránh thì cười rằng: “Chúng ta đều đi lại trên giang hồ, đừng khách sáo như thế”. Rồi nàng giữ Lăng Vị Phong lại, dịu dàng nói: “Ngồi yên, người bệnh phải nghe lời. Huynh không nghe lời tôi sẽ giận!” Lăng Vị Phong nhắm mắt để cho nàng bôi. Đột nhiên Lưu Úc Phương run rẩy, bình dược cao rơi xuống đất, Hàn Chí Bang nói: “Lưu cô nương mệt ư? Để tôi giúp!”.
Lăng Vị Phong xoay người, nói: “Tôi đã bảo không cần”. Lưu Úc Phương im lặng không nói, cứ ngồi yên như pho tượng, đôi mắt cứ nhìn đăm đăm vào mặt Lăng Vị Phong rất lâu, đột nhiên nói: “Trước đây chắc chắn huynh không phải như thế này!”.
Lăng Vị Phong nói: “Đương nhiên không phải, tôi đã bị thương, lại bị lửa đốt, vốn đã rất xấu xí”. Lưu Úc Phương lắc đầu nói: “Không phải! Lúc này tôi có thể nhìn rất kỹ, trước đây huynh chắc chắn rất anh tuấn, vả lại còn giống một người bằng hữu của tôi ở Hàng Châu!” Hàn Chí Bang lạnh lùng hừ một tiếng, Lăng Vị Phong cười rộ lên: “Tôi chưa hề đến Hàng Châu!” thật ra tiếng cười ấy cố che đậy sự lo lắng trong lòng chàng. Lưu Úc Phương nửa tin nửa ngờ, đột nhiên thấy Hàn Chí Bang đang nhìn mình đăm đăm, vẻ mặt không vui. Nàng đột nhiên sực nhớ lại, nếu Lăng Vị Phong chẳng phải người khác, mình bàn luận sự xấu đẹp của một nam nhân, có thể nói là mất thân phận của một Tổng đà chủ, cũng sẽ bị Hàn Chí Bang coi thường. Nàng nóng ran mặt, cười gượng nói: “Tôi chỉ lấy làm lạ võ công của huynh cao cường, sao trên mặt lại có vết đao?” trong lúc lúng túng, nàng đã nói ra lời chẳng hợp với câu trước, Hàn Chí Bang lạnh lùng hừ một tiếng.
Lăng Vị Phong nói: “Khi tôi ở Hồi Cương, gặp phải một kẻ thù của đại hiệp Dương Vân Thông, y thấy tôi dắt theo một bé gái, thế là tiện tay chém một đao, nếu không có người cứu thì tôi đã mất mạng!” Lưu Úc Phương nghe thế thì lấy làm lạ, hỏi: “Kẻ thù của Dương đại hiệp có liên quan gì đến huynh? Tại sao huynh dắt theo một bé gái chạy đến Hồi Cương?” Lăng Vị Phong vừa nói xong câu ấy thì biết mình lỡ lời, vội vàng lấp liếm rằng: “Sau này tôi sẽ nói cho cô nương biết. Bé gái ấy chỉ có hai tuổi. Hàn Chí Bang tiếp lời: “Chỉ có hai tuổi, Lưu đà chủ, cô... chắc cô không còn nói gì nữa!”.
Chàng vốn muốn nói: “Cô có thể yên tâm”. Nhưng lời vừa đến miệng thì chợt nhớ không thể xúc phạm Lưu Úc Phương, bởi vậy mới đổi đi. Dù như thế, Lưu Úc Phương vẫn trừng mắt nhìn chàng, nàng rất không vui, cũng lấy làm lạ tại sao Hàn Chí Bang lại hơi thất thường như thế.
Hôm sau thương thế của Lăng Vị Phong quả nhiên đã đỡ hơn nhiều, đã có thể đi lại. Lưu Úc Phương vẫn ân cần chăm sóc chàng. Hàn Chí Bang suốt ngày chẳng nói chẳng rằng. Sáng sớm ngày thứ ba, Lưu Úc Phương vừa thức dậy đã không thấy Hàn Chí Bang, chỉ thấy dưới đất có người dùng tay viết mấy dòng chữ lớn xiên xiên xẹo xẹo.
Mấy dòng chữ lớn ấy chính là: “Tôi là kẻ thô lỗ, không hiểu quy củ. Tuy là bằng hữu cũ nhưng chẳng bằng người mới. Chuyện trong Thiên Địa hội có Lưu cô nương chủ trì và Lăng anh hùng giúp đỡ, chắc chắn sẽ có ngày thành công. Xin cáo biệt từ đây, mong hãy tự bảo trọng”. Phía dưới còn đề mấy chữ “Kẻ thô lỗ Hàn Chí Bang”. Lưu Úc Phương thấy thế thì im lặng không nói, Lăng Vị Phong nói: “Y đúng là một hán tử hào sảng. Có điều đã hiểu lầm tôi quá nhiều!” lại nói Hàn Chí Bang thấy Lưu Úc Phương chỉ quan tâm đến Lăng Vị Phong thì lấy làm buồn. Đêm ấy chàng lăn qua trở lại, chẳng thể nào chợp mắt, chàng nghĩ mình là một kẻ thô lỗ, võ nghệ lại kém xa Lăng Vị Phong, làm sao có thể xứng với nàng, chàng thầm nhủ: “Sao mình cứ làm tảng đá cản đường giữa hai người họ”. Bởi vậy trời chưa sáng thì đã ngồi dậy, thấy hai người kia vẫn còn đang ngủ say thì thầm thở dài, xách theo hành trang, cầm binh khí, một mình rời khỏi động.
Hàn Chí Bang thẫn thờ chẳng biết đi về đâu, chàng cứ bước về phía trước, lúc này sương đêm vẫn chưa khô, gió sớm phả vào mặt, chàng đang đi thì chợt nghe tiếng nai kêu, từ xa nhìn thì thấy một con nai đốm uống nước bên dòng suối. Hàn Chí Bang thầm nhủ: “Con nai này uống nước ở đây chắc chắn đã lạc mẹ, thật đáng thương”. Rồi chàng chậm rãi bước tới, lẩm bẩm: “Nai nhỏ ơi nai nhỏ, ta cũng là người không có bạn bè, nếu ngươi không chê, chúng ta hãy kết thành bằng hữu”.
Chợt nghe một tiếng thú gầm, ở vạt rừng đó có một con báo kim tiền gầm rú phóng ra, nhảy bổ về phía con nai nhỏ, Hàn Chí Bang cả giận mắng: “Con nai đã đáng thương như thế, ngươi còn bức hiếp!” chàng cũng vọt đến mấy trượng, phóng ra mấy cây tụ tiễn, có điều khoảng cách quá xa, da của con báo lại dày, tuy đau nhưng cũng chẳng hề hấn gì. Con nai đã bị nó ngoạm trúng chân sau, con báo kim tiền đã trúng tên nhưng cũng không buông con nai ra mà vẫn đuổi sát theo. Hàn Chí Bang đột nhiên muốn trút cơn giận vào con báo nên thi triển khinh công đuổi theo sau.
Đuổi một hồi con nai tựa như chẳng còn đường, chui tọt vào một hang đá nhỏ. Con báo cũng đuổi theo, Hàn Chí Bang chạy ở phía sau, khoảng cách đã gần hơn, chàng lại phóng một cây tụ tiễn cắm vào mông con báo. Con báo kêu rống lên bổ nhào xuống đất, chưa kịp chụp người trở lại thì đã bị Hàn Chí Bang tóm lấy vặn gãy cổ. Chàng ném xác con báo vào trong động rồi chậm rãi bước vào, chỉ thấy con nai kêu rất thê thảm, đột nhiên bên trong có người quát: “Ai?” chàng nheo mắt nhìn lại, chỉ thấy có một người đang ôm con nai, dùng dao chặt sừng của nó, người ấy thấy Hàn Chí Bang bước vào thì giật mình phóng ra một ngọn phi đao, Hàn Chí Bang lách qua, khi nhìn lại thì thấy người ấy chính là Trương Thiên Mông! Té ra Trương Thiên Mông đã bị Lăng Vị Phong chém trúng một kiếm, mất máu quá nhiều nên nấp trong động này dưỡng thương.
Hàn Chí Bang thấy Trương Thiên Mông thì cả giận, rút đao đâm tới. Trương Thiên Mông nhảy về phía trước, rút cây roi ra, Hàn Chí Bang vung đao chém tới, Trương Thiên Mông phất cây roi, cuộn vào cây đao của Hàn Chí Bang dùng lực kéo một cái, Hàn Chí Bang cả giận tấn công tới tấp. Trương Thiên Mông tựa như xoay chuyển rất khó khăn, y chỉ có thể chống đỡ. Hàn Chí Bang thấy sắp đắc thủ thì Trương Thiên Mông quát một tiếng, người hạ xuống phía sau, cây kim đao của Hàn Chí Bang lại bị y dùng roi cuộn lấy giật ra sau, cây kim đao vuột khỏi tay.
Trương Thiên Mông không hề lơi lỏng, lại đánh tới thêm một roi, trúng vào ngực của Hàn Chí Bang. Hàn Chí Bang ngã xuống đất, lăn mấy vòng rồi nằm im lìm.
Trương Thiên Mông cả mừng, bước tới toan bồi thêm một roi, khi bước tới gần thì đột nhiên Hàn Chí Bang quát lớn một tiếng, phóng Thiết Liên tử ra, Trương Thiên Mông không kịp đề phòng, đầu và hai vai đã bị trúng mấy viên, Trương Thiên Mông giật mình, đột nhiên chân tựa như đạp phải bông, mềm mại vô lực. Vết thương cũ chảy máu ròng ròng!
Hàn Chí Bang ngồi bật dậy, thấy Trương Thiên Mông ngồi xuống đất, cây roi dài đặt sang một bên thì rất ngạc nhiên, chàng lại ném tới thêm mấy viên Thiết Liên tử, Trương Thiên Mông tức giận nói: “Nhà ngươi thật xảo trá!”.
Lần này y đã phòng bị, hai tay hất một cái đã tiếp được Thiết Liên tử đánh ngược ra trở lại. Hàn Chí Bang nhảy nhót né tránh, thế nhưng vẫn bị Trương Thiên Mông ném trúng vào tay phải.
Hàn Chí Bang trúng ám khí nhưng cười ha hả. Té ra lúc nãy chàng chịu một roi, tuy rất đau, giờ đây bị Thiết Liên tử đánh trúng nhưng chẳng hề đau đớn. Chàng biết Trương Thiên Mông khí lực đã tận, thế là nhảy bổ tới trước người y, dùng lực đấm thêm mấy quyền vào ngực y. Hai chưởng của Trương Thiên Mông cũng vỗ trúng be sườn của Hàn Chí Bang, hai người ôm nhau lăn tròn dưới đất.
Nếu luận về võ công, Trương Thiên Mông chỉ thua Sở Chiêu Nam một bậc, đương nhiên là cao cường hơn Hàn Chí Bang nhiều, thế nhưng y đã trúng một kiếm của Lăng Vị Phong, vết thương lại vỡ ra, đương nhiên chẳng thể chống nỗi Hàn Chí Bang, lăn lộn một hồi thì đã bị Hàn Chí Bang đè xuống đất. Y điên cuồng há mồm táp một cái thật mạnh vào vai của Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang kêu lên đau đớn. Trương Thiên Mông thừa cơ chụp vào cổ tay của Hàn Chí Bang vặn mạnh một cái, Hàn Chí Bang đau đớn đành buông tay trái ra. Trương Thiên Mông tay trái cũng bóp vào mạch môn của Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang không thể dùng lực, đổ ập lên người Trương Thiên Mông, cắn vào cổ họng của y; Trương Thiên Mông lại cắn vào vai của chàng. Hàn Chí Bang cắn vào cổ họng y thì thấy mùi máu tanh xông vào cổ họng mình đến tởm lợm.
Chàng vội vàng nôn máu ra, khi mở mắt nhìn lại thì cổ họng của Trương Thiên Mông đã bị khoét một lỗ lớn, máu tươi tuôn ra òng ọc như suối, có điều hai tay của y vẫn cứ nắm chắc mình. Hàn Chí Bang dù trải qua hàng trăm trận đánh nhưng cũng không khỏi hoảng sợ, chàng dùng lực kéo một cái, tách được đôi tay của Trương Thiên Mông rồi đứng dậy. Lúc này chàng chỉ thấy tứ chi bủn rủn, chàng đi được mấy bước thì không cầm cự nổi đành nằm xuống đất nhắm mắt dưỡng thần.
Lúc này con nai nhỏ từ từ nhích đến gần chàng. Trong cơn mơ màng Hàn Chí Bang chỉ thấy con nai nhỏ hình như dụi đầu vào ngực của mình, chàng dần dần tỉnh dậy, cũng vuốt nhẹ con nai, lẩm bẩm: “Con báo đã chết, người ác cũng đã chết, nai nhỏ, nai nhỏ đừng sợ nữa!” chàng đang nói thì chợt thấy chất nước ngòn ngọt chảy vào miệng mình, trôi xuống cổ họng, trong khoảnh khắc Đan Điền tựa như có dòng khí ấm dâng lên, người cũng sảng khoái hơn nhiều, dòng nước đó chính là máu nai, nó bi con báo kim tiền cắn bị thương, lại bị Trương Thiên Mông đâm đao vào, máu vẫn còn chảy không ngừng, máu nai chính là loại thuốc bổ khí bổ huyết. Hàn Chí Bang dùng lực quá độ đã bị trọng thương, may mà máu nai đã giúp chàng lấy lại thể lực.
Hàn Chí Bang vừa tỉnh dậy thì thấy máu tươi chảy lênh láng dưới đất, trong vũng máu có một cái hộp nhỏ, chàng chợt hiểu ra, vội vàng cầm cái hộp nhỏ lấy áo chùi sạch, mở ra nhìn thì thấy có những viên trông giống như hạt trân châu nhưng không phát sáng mà có màu xám, trên hộp có khắc những dòng chữ trông rất kỳ quặc, đó chính là chữ Phạn, Hàn Chí Bang tuy không hiểu nhưng chàng đoán được rằng đó chính là Xá lợi tử, trong lòng cả mừng thế là vội vàng cất hộp vào hành trang.
Nhưng chàng chỉ hơi nhúc nhích thì thấy mắt hoa lên, lúc này chàng mới biết mình dùng lực quá độ, không thể đi được nữa. Chàng sờ con nai nhỏ bên cạnh, con nai nhỏ cũng đã chết. Chàng chợt cảm thấy rất cô quạnh, tựa như bản thân chưa hề có một người thân hay bằng hữu, trong lòng trống trải, chàng nằm xuống ngủ thiếp đi.
Không biết ngủ được bao lâu, vừa tỉnh dậy thì thấy ánh mặt trời xuyên vào trong động, lúc này đã là trưa ngày thứ hai, chàng đứng dậy nhưng vẫn có thể yếu ớt, bụng đói đến phát run, có điều tinh thần đỡ hơn hôm qua. chàng nghĩ, nếu đi ra ngoài mà không đủ sức, lỡ gặp phải kẻ địch thì không thể nào chống cự, xem ra chỉ đành nghỉ ngơi trong thạch động này vài ngày, nhưng không biết tìm thức ăn ở đâu ra? Trong hành trang lại chỉ còn một ít lương khô, mình không nỡ lòng ăn thịt con nai nhỏ”. Chàng đang lo lắng thì chợt liếc mắt, bỗng nhiên cười rằng: “Sao mình lại quên con báo kim tiền?” hôm qua chính chàng đã vặn gãy cổ con báo ném vào trong động, Hàn Chí Bang lôi con báo vào sâu hơn, nhặt củi khô trong động chất động lại rồi đành lửa lên, chàng lấy cây đao xẻ thịt báo nướng trên lửa.
Lửa cháy phừng phừng chiếu sáng cả thạch động, Hàn Chí Bang ngẩng đầu nhìn xung quanh, chợt thấy trên vách động có vẽ rất nhiều hình người, tư thế của những hình người này trông rất kỳ lạ.
Hàn Chí Bang nhìn kỹ lại, chỉ thấy có người nhắm mắt chắp tay, có người bóp quyền xoa chưởng, có người tựa như muốn lao bổ tới, có người thực hiện tư thế cầm nả, lại có người cầm đao kiếm tựa như muốn đâm ra... nhưng vì lâu năm nên cũng có những bức tranh chỉ để lại dấu vết lờ mờ. Hàn Chí Bang rảnh rỗi chẳng có chuyện gì làm nên ngồi xem chăm chú từng bước tranh, chàng đếm kỹ lại thì thấy có ba mươi sáu bức tranh vẫn còn rõ ràng, hai mươi bảy bức tranh thì chỉ còn hiện lờ mờ. Trong ba mươi sáu bức tranh con rõ thì có sáu bức tranh vẽ hình người đang ngồi đả tọa, trong đó có ba tư thế đều là xếp bằng buông tay, ba bức còn lại thì hơi khác, có một bức ngồi nghiêng mặt đả tọa, có một bức ngồi chắp tay trước ngực, có một bức như cúi người toan đứng lên.
Sau khi Hàn Chí Bang ăn thịt báo xong thì khí lực hơi tăng lên, dầu sao cũng chẳng có chuyện gì nên chàng thử ngồi theo tư thế của bức tranh trên vách. Sáu bức tranh đầu thì chàng chẳng hiểu gì cả, chàng chỉ chọn những bức tương đối dễ học, trước tiên luyện vài đòn chưởng pháp, nói ra cũng thật kỳ lạ, sau khi luyện xong thì thấy khí huyết lưu thông, toàn thân thoải mái, tinh thần khỏe khoắn hơn nhiều. Chàng càng luyện càng có hứng, chàng thầm nhủ dù sao vẫn chưa khỏe, cứ ở lại đây vài ngày luyện theo những bức tranh trên vách đá. Không đầy ba ngày thì chàng đã luyện thành thục.
Sáng sớm ngày thứ tư, chàng đã ăn hết thịt báo, củi mục trong động đã cháy hết, chàng thử luyện khí lực, chàng thấy đã hoàn toàn hồi phục, trong lòng cả mừng, thế là thu xếp hành trang ra khỏi động, chàng chợt nghe bên ngoài có tiếng người và tiếng bước chân tựa như đang đi về phía mình. Thế là chàng vội vàng nấp sau một pho tượng Phật.
Đám người ấy vào trong động, Hàn Chí Bang nghe một người nói: “Ồ, hình như có mùi xác chết!” Hàn Chí Bang mới nhớ rằng mình vẫn chưa chôn cái xác của Trương Thiên Mông, chàng đã ở trong động mấy ngày, lỗ mũi đã quen, trong động lại lạnh nên không hề nhận ra. Những người này từ bên ngoài bước vào, vừa ngửi đã thấy khó chịu.
Một hồi sau có hai người bước sâu vào bên trong, trong tay cầm ngọn đuốc, rọi vào cái xác của Trương Thiên Mông, cả hai kêu hoảng lên. Một người nói: “Có lẽ người này chính là thủ hạ của Ngô Tam Quế, nghe nói y võ công cao cường, có lẽ đã bị Lăng Vị Phong hại chết!” Hàn Chí Bang thầm hừ một tiếng, nhủ rằng: “Các ngươi chỉ biết có một mình Lăng Vị Phong!”.
Lúc này hai người trái lại cũng hơi sợ hãi, đùn đẩy nhau chứ không dám tìm kiếm. Một người nói: “Người khác thì còn tốt, chỉ e Lăng Vị Phong vẫn nấp ở trong này”. Hàn Chí Bang rất tức giận, gầm lớn một tiếng nhảy ra nói: “Dù ta không phải là Lăng Vị Phong cũng có thể thu thập các ngươi!” hai người ấy giật mình, ném ngọn đuốc về phía Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang lách người né tránh, vung hai chưởng lao bổ tới.
Hai người này là giáo đầu Cấm vệ quân, ngày đó sau khi Sở Chiêu Nam bị đánh đại bại, vội vàng chạy về tìm Trương Thừa Bân, bảo y sai thủ hạ đắc lực chia nhau đi tìm. Bởi vậy hai giáo đầu này mới đụng độ Hàn Chí Bang.
Hàn Chí Bang lao bổ lên, cả hai giáo đầu đã thấy trên mặt chàng không có vết đao thì biết không phải là Lăng Vị Phong nên bạo dạn nghênh đón.
Hàn Chí Bang một mình địch hai, chàng quát lớn một tiếng, hai chưởng đẩy ra. Kẻ địch tách ra hai bên, một người đánh ra ba mươi sáu lộ trường quyền, quyền phong vù vù dồn tới trước mặt, một người triển khai Thiên Long chưởng pháp của Tây Tạng. Cả hai người này một người dùng quyền một người dùng chưởng phụ trợ lẫn nhau, đánh rất hiểm hóc, một hồi sau Hàn Chí Bang đã bị đẩy lùi vào góc động.
Hàn Chí Bang là Tổng đà chủ của Thiên Địa hội, võ công đương nhiên chẳng phải hạng thường, kẻ địch cũng là cao thủ, lại phối hợp nhau rất kín kẽ. Hàn Chí Bang không tấn công nổi, dần dần đành lui vào phòng thủ.
Đang đánh thì kẻ bên trái đánh một quyền vào mặt Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang giơ chưởng ra định gạt ngang qua, kẻ bên phải đã lao bổ tới tay trái vỗ chưởng vào tay phải của Hàn Chí Bang, tay phải cũng quét ngang tới tay trái của Hàn Chí Bang, cả hai người đều tấn công rất hung mãnh. Hàn Chí Bang đang lúc gấp gáp, đột nhiên sử dụng ra bộ chưởng pháp đã học trên vách đá, chàng không lùi mà tiến, lách người sang một bên, gót chân xoay một vòng nắm quyền của kẻ bên mặt kéo vào lòng, quát lớn: “Lên!” rồi nhấc bổng kẻ địch lên, xoay tít trên không trung ném ra ngoài, kẻ ấy va trúng tên còn lại, cả hai cùng kêu hự lên một tiếng rồi ngã ra sau. Kẻ lúc nãy bị va phải, đầu đập vào tượng Phật lập tức bể óc, máu chảy lênh láng, tượng Phật cũng lung lay như sắp rơi xuống đến nơi!
Hàn Chí Bang đánh một chiêu đắc thủ, chàng không lơi lỏng, chàng phóng người nhảy bổ tới kẻ vừa mới ngã xuống đất, bồi thêm cho y một chưởng.
Hàn Chí Bang chỉ sử dụng vài chiêu thức mới học được mà đã đánh bại được kẻ cường địch thì trong lòng mừng rỡ. Chàng thấy tượng Phật lung lay sắp đổ xuống thì vội vàng chạy đến đỡ, chàng chợt thấy dưới bức tượng Phật có một quyển sách, chàng nhặt lên, thổi bụi trong quyển sách, mở ra nhìn thì thấy chữ viết trong quyển sách rất kỳ dị, trông chẳng khắc gì những chữ khắc trên hộp đựng Xá lợi. Lật đến cuối cùng thì mới thấy hai hàng chữ Hán viết rằng: “Đạt Ma Dịch cân kinh, tặng cho người có duyên”. Bên dưới có mấy hàng chữ nhỏ chú thích: “Một trăm lẻ tám thức, thức nào cũng thần kỳ, chín hình sáu tượng rất căn cơ”. Hàng chữ nhỏ cuối cùng có ghi rằng: “Kẻ hậu học vô trụ kính đề, tháng chín năm Trinh Quán thứ năm thời Đường”. Hàn Chí Bang thấy thế thì lấy làm ngạc nhiên nhưng cũng cảm thấy quyển sách này trông hay hay nên tiện tay đút vào hành trang. Cho đến nhiều năm sau chàng mới biết rằng Đạt Ma thiền sư là một bậc cao tăng từ Ấn Độ đến Trung Hoa vào thời Lương Vũ Đế, cũng là người sáng lập ra thiền tông, hai kinh Dịch cân và Tẩy tủy là tinh hoa võ công của Đạt Ma thiền sư, một trăm lẻ tám bức tranh trên vách đá chính là bản gốc của một trăm lẻ tám thức Đạt Ma nổi tiếng. Đáng tiếng Hàn Chí Bang chỉ học được ba mươi thức, sáu thức đả tọa căn cơ quan trọng nhất thì chàng lại không học, bởi vậy tuy gặp được kỳ ngộ nhưng sau đó vẫn thua to, chuyện này sẽ được kể ở phần sau (chú thích của tác giả: Theo các nhà sử học cận đại khảo chứng, hai kinh Dịch Cân và Tẩy Tủy là do văn nhân thời Minh lấy danh nghĩa của Đạt Ma để viết ra. Nhưng tiểu thuyết không cần phải chính xác một cách nghiêm ngặt. Bạn đọc cứ coi đây là lời của nhà tiểu thuyết)
Hàn Chí Bang chậm bước ra khỏi thạch động, chỉ thấy ánh mặt trời rải khắp muôn nơi, trong sơn cốc trăm hoa đua sắc, Hàn Chí Bang nấp trong thạch động mấy ngày chẳng thấy mặt trời, lúc này giữa bầu trời xanh mây trắng, hoa núi thắm tươi, lòng rất thoải mái, nỗi buồn bực mấy ngày hôm nay tan biến như làn khói nhạt. Chàng đưa mắt nhìn xung quanh, chợt thấy cách đó mấy trượng, trên vách đá có người dùng đao khắc một mũi tên, ngoài ra còn có những ám hiệu kỳ lạ.
Hàn Chí Bang đang ngạc nhiên thì chợt nghe trên núi có truyền lại tiếng quát tháo, lại còn có cát đá rơi xuống. Hàn Chí Bang biết bên trên có người đánh nhau, lòng tò mò trỗi dậy, chàng đu dây leo lên xem, lên đến nơi chỉ thấy có bốn vệ sĩ áo đen vây quanh ba Lạt ma, đôi bên đang đánh nhau rất hăng. Hàn Chí Bang vừa nhìn thấy thì ngạc nhiên, trong số ba Lạt ma có một người là kẻ đi cùng Trương Thiên Mông hộ tống Xá lợi tử.
Hàn Chí Bang nhìn một hồi thì thấy bốn vệ sĩ càng đánh càng dữ, ba Lạt ma kia chỉ có thể chống đỡ chứ chẳng thể trả đòn, chàng không nén được quát lớn một tiếng như hổ gầm rồi rút đao xông tới. Lạt ma nọ cả mừng, kêu lên mấy tiếng, Hàn Chí Bang định trả lời, nhưng thấy hai võ sĩ đã rút khỏi vòng chiến đến chặn mình, y cười gằng nói? Té ra là Hàn tổng đà chủ!” hai kẻ ấy một người sử dụng Phán Quan bút, một người sử dụng đao răng cưa, vừa xông tới đã dùng những chiêu hiểm độc, bút điểm vào huyệt đạo, đao chém vào hai vai.
Hàn Chí Bang muốn dùng những chiêu số mới học để đối phó với bọn chúng. Nhưng nghĩ lại chàng vẫn sử dụng Bát quái tử kim đao pháp của bổn môn. Chàng muốn thử xem đao pháp của bổn môn và võ công mới học hơn thua nhau thế nào.
Bát quái tử kim đao có sáu mươi bốn thức, đây là một trong những loại đao pháp mà võ sư thời Minh Đơn Tư Nam đã sử dụng (một loại khác là Câu liêm đao), đao pháp của chàng múa như điện xẹt, cũng rất lợi hại. Chỉ có điều binh khí của hai người này đều là binh đao ngoại môn hiếm thấy. Nhất là sẽ sử dụng Phán Quan bút dùng công phu rất khéo léo, y chuyên môn tìm chỗ sơ hở để điểm vào huyệt đạo của đối phương. Nếu một địch một thì Hàn Chí Bang có thể ứng phó nổi, nhưng nay thì một mình chàng phải đối phó với hai tên, dù Hàn Chí Bang dốc hết sức mình cũng chỉ có thể đánh ngang bằng.
Đánh được nửa canh giờ, Hàn Chí Bang đã thấy đuối sức, chàng nhìn lén qua Lạt ma, tuy đã được giảm áp lực nhưng cũng chưa chiếm được thượng phong. Chàng rất lo lắng, nhân lúc tên sử dụng đao răng cưa chém tới một đao, chàng lách người qua vung cây kim đao lên không trung, đánh hờ trước mặt tên sử dụng Phán Quan bút, y tưởng rằng chàng sẽ sử dụng chiêu số chém ngang, thế là hai vai lách tới, định rút bút tiến chiêu, không ngờ đao pháp của Hàn Chí Bang rất đặc biệt, khi đao quang lóe lên, mũi đao hất cây bút, đâm thấu vài vai của người ấy.
Hàn Chí Bang nghe tiếng gió sau lưng, chàng không xoay người mà bước vòng qua, trở tay đánh lại một đao, tên sử dụng đao răng cưa chém hụt, bị Hàn Chí Bang trở tay lại chém thẳng vào đao đánh choang một tiếng, cây đao rơi xuống đất. Lúc này Hàn Chí Bang mới xoay người lại, từ trên bổ xuống, chặt người ấy thành hai đoạn. Tên sử dụng Phán Quan bút vội vàng co giò chạy thẳng, Hàn Chí Bang không thèm đuổi theo y mà giơ đao xông vào vòng chiến, giúp cho ba Lạt ma kia.
Hai tên võ quan còn lại đang đấu rất hăng. Hàn Chí Bang xông vào, vung đao đâm thẳng tới, thân pháp của chàng nhanh cực kỳ, trong chớp mắt đã có một tên ngã xuống đất. Tên còn lại thấy thế cả kinh, tay cầm ngân thương gạt ra ngoài, Hàn Chí Bang quay lại, cả người lẫn đao xoay một vòng, đao quang chém xéo ra, lưỡi đao chặt vào cán thương. Người ấy vội vàng buông tay, cây ngân thương rơi xuống đất, Hàn Chí Bang lướt nhanh tới, tay trái vung lên chụp vào cổ tay của người ấy giật mạnh, người ấy đau đến nỗi kêu hoảng lên.
Hôm nay Hàn Chí Bang liên tục đánh bại sáu võ quan, đao pháp và chưởng pháp mà chàng đã dùng toàn là loại đã học trong hình vẽ trên vách đá, mỗi chiêu đánh ra đều thấy hiệu quả, chàng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Lúc này chàng rất đắc ý, nói với tên võ quan: “Bình thường các ngươi hay bức hiếp dân lành, hôm nay ta sẽ cho ngươi nếm khổ”. Rồi chàng vặn mạnh một cái, người ấy kêu hoảng: “Hảo hán tha mạng!” Hàn Chí Bang nói: “Muốn được tha không khó, ngươi phải nói cho bọn ta biết, các ngươi đến đây làm gì?” tên võ quan nói: “Chúng tôi vâng lệnh chia nhau đi tìm Lăng Vị Phong”. Hàn Chí Bang cả cười: “Cả ta các ngươi cũng đánh không lại mà còn dám truy đuổi Lăng Vị Phong”. Tên võ quan ấy nói: “Võ công của ngài còn giỏi hơn cả Lăng Vị Phong!” Hàn Chí Bang nói: “Ta không cần ngươi khen bừa!” chàng tuy mắng nhưng cũng cảm thấy sung sướng, thầm nhủ: “Thế là có kẻ biết đến mình rồi!” rồi chàng dùng đao đẩy một cái, quát: “Nếu ngươi đã nói thực, ta tha cho ngươi!” tên võ quan ôm đầu lủi mất, chẳng dám quay nhìn lại.
Ba Lạt ma bước tới đáp tạ, Lạt ma lúc nãy còn ôm chàng, hôn lên trán của chàng. Hàn Chí Bang không quen lễ tiết này, ái ngại cười rằng: “Thôi đi, có phải các người tìm Xá lợi tử không?” Lạt ma quen biết chàng tên gọi là Tông Đạt Hoàng Chân, nói rằng: “Hôm ấy sau khi họ mất Xá lợi tử vẫn chưa quay về Tây Tạng, cũng đã liên tục gặp vài người đến đón thánh vật, ngày nào họ cũng đi tìm Trương Thiên Mông. Tuy đoán rằng Trương Thiên Mông có thể đã cao chạy xa bay nhưng vẫn cứ cố tìm. Nhất là những Lạt ma chưa từng thấy Xá lợi tử thì cứ đòi y phải đi cùng, bởi vậy cứ quanh quẩn ở đây, không ngờ gặp phải bọn võ quan này.
Hàn Chí Bang nghe xong thì cả cười: “Các người cũng có lòng thành tìm thánh vật, hãy xem đây!” nói xong thì lấy cái hộp gõ đàn hương ra, mở cho họ xem.
Tông Đạt Hoàng Chân mừng rỡ kêu lên: “Chính là Xá lợi tử!” rồi quỳ sụp xuống dập đầu, hai Lạt ma kia cũng chưng hửng rồi hiểu ra, cũng vội vàng quỳ xuống.
Hàn Chí Bang đang lúng túng chẳng biết làm thế nào, đột nhiên cả ba người đứng dậy, lấy ra một tấm khăn vàng đưa đến trước mặt Hàn Chí Bang, Hàn Chí Bang biết đó là lễ tiết thiêng liêng nhất của những Lạt ma, đó là Hiến cáp đạt. Chàng vội vàng nói: “Làm sao dám nhận!”
Tông Đạt Hoàng Chân nói: “Từ nay người là đại ân nhân của Lạt ma chúng tôi, chúng tôi mong người có thể theo chúng tôi về Tây Tạng”.
Hàn Chí Bang lúc đầu còn từ chối khi nghĩ kỹ lại thì mỉm cười gật đầu chấp nhận. Chàng ra đi chuyến ấy đến mấy năm sau mới gặp lại Lăng Vị Phong, Lưu Úc Phương.