Thạch Thảo Trong Cơn Bão

Chương 2

Hội nghị của Hiệp hội Giải tích vào tối thứ Ba thành công ngoài tưởng tượng. Với gia đình nhà Timms, nó khởi sự từ đầu buổi chiều, khi một gã đầy tớ mặc chế phục, tóc rắc phấn xuất hiện trước cửa ngôi nhà khiêm nhường của họ ở Upper Cheyne Row, mang theo một phong thư được thảo bằng lối chữ án tượng mà Công tước Jervaulx ưa dùng. Gã sẽ cho xe đến đón ông Timms tới hội trường vào lúc tám rưỡi nếu ông đồng ý. Kết thúc hội nghị, gã sẽ rất vui lòng nếu ông Timms và con gái cùng dùng bữa tối muộn với gã và ngài Charles Milner ở quảng trường Belgrave, sau đó gã sẽ đưa họ về tận nhà bằng xe riêng.

“Cha!” Maddy kinh hãi nói, cố giữ giọng thầm thì để tên đầy tớ ngoài cửa phòng khách không nghe thấy. “Chúng ta không thể!”

“Không thể sao con?” cha nàng hỏi. “Trong trường hợp đó, ta hoàn toàn không nên tính đến việc tham dự hội nghị nữa bởi vì chúng ta sẽ đưa ra lý do gì để từ chối ăn tối với Jervaulx đây?”

Nàng hơi đỏ mặt. “Sẽ chẳng có gì ngoài những trò vô nghĩa và chuyện phiếm không đâu. Gã đó là người xấu. Con biết cha ngưỡng mộ tài năng của gã, nhưng nhân cách của gã thì... đúng là đồi bại!”

“Ta đoán vậy,” cha nàng miễn cưỡng nói. “Nhưng liệu chúng ta có nên là những người ném viên đá đầu tiên không?”

“Con thực sự nghi ngờ việc chúng ta là người đầu tiên.” Nàng khẽ búng lá thư của Công tước vào lò sưởi. Tờ giấy trang nhã, dày dặn rơi ngay xuống, vang lên khe khẽ khi đập vào tấm chắn bằng đồng. “Đây không phải ném đá mà chỉ là mong ước chẳng phải dây dưa gì đến gã đó thôi!”

Cha nàng quay về phía tiếng giấy rơi rồi tập trung vào giọng nói của nàng. “Chỉ là một buổi tối thôi mà.”

“Cha đi cũng được ạ. Nhưng con sẽ về nhà ngay sau khi hết hội nghị.”

“Maddy?” Khuôn mặt cha nàng hơi cau lại. “Con sợ anh ta sao?”

“Chắc chắn là không ạ! Sao con phải sợ?”

“Cha nghĩ có lẽ... anh ta không làm gì không phải với con đấy chứ?”

Maddy hừm rất khẽ. “Có, có đấy ạ! Bắt con đợi hàng tiếng đồng hồ trong cái sảnh ăn sáng ngu ngốc của gã. Con có thể miêu tả với cha từng chi tiết bé nhất trên giấy dán tường. Họa tiết mắt cáo xanh lục trên nền trắng, những chỗ giao nhau có hình hoa râm bụt, mười sáu cánh, ba lá, nhị vàng.”

Lông mày cha nàng dãn ra. “Vậy mà ta đã sợ là anh ta nói gì khiếm nhã với con.”

“Gã không nói gì, vì một lý do đơn giản là gã chưa bao giờ gặp con cả. Nhưng cha có thể tin lời con rằng tên đó chính là tập hợp những gì tồi tệ nhất của bọn quý tộc. Phóng đáng, bừa bãi, vô thần. Chúng ta là những người bình thường, không việc gì phải ăn tối với gã.”

Cha nàng ngồi lặng một lúc lâu. Rồi ông nhướng mày buồn bã nói, “Nhưng ta muốn hai cha con dùng bữa tối với anh ta, Maddy à.”

Tay ông đang nghịch khối chữ Y, xoay xoay nó trên tấm trải bàn màu đỏ. Trong ánh mờ tối của buổi chiều mây mù, cây đèn dầu nằm cạnh khuỳu tay ông vẫn chưa được thắp, sự thiếu hụt đó với cha nàng cũng chẳng tạo nên khác biệt gì.

Nàng tì hai nắm tay vào nhau và tựa cằm lên. “Ôi, cha ơi!”

“Con có nên để ý quá vậy không, Maddy con yêu?”

Nàng thở dài. Không nói thêm gì nữa, nàng mở cửa báo với gã đầy tớ rằng họ nhận lời mời dự bữa tối của Công tước.

Để che giấu sự bất mãn của mình, nàng để cha ở đó mà đi lên gác, trải áo khoác dự họp cùng sơ mi của ông ra, sắp xếp những vật dụng cần để lát cạo mặt cho ông. Rồi nàng đến chỗ tủ áo của chính mình. Trước khi nhận được lời mời của Jervaulx, nàng đã định mặc chiếc váy lụa xám cho thích hợp với một dịp đặc biệt. Giờ đây nàng bị giằng xé giữa một đằng là ước muốn sai trái là phục sức sao cho chứng tỏ rằng nàng và cha vẫn thường ra ngoài ăn cùng các vị công tước với một đằng là nỗi khao khát mặc thật đơn giản cứ như thể đối với nàng ăn tối ở Belgrave chẳng hấp dẫn gì hơn lục lọi quanh thùng rác.

Về phần ước muốn sai trái liên quan đến phục sức như vẫn thường giao thiệp với bọn quý tộc hư hỏng, những hạn chế về điều kiện vật chất lập tức tự phơi bày khi nàng săm soi tủ quần áo tối màu của mình. Gia đình nàng không thuộc số những tín đồ phái Giáo hữu phá cách: họ luôn nghiêm cẩn với Trang phục Mộc mạc và Ngôn từ Mộc mạc. Chiếc váy lụa màu xám thép, cổ áo trắng rộng, cứng đờ là nữ hoàng trong tủ áo của nàng. Được may dựa trên những chuẩn mực cực kỳ ngoan đạo với đường chiết eo lỗi thời, nó ít có hy vọng chứng tỏ được gì hơn chính bản thân mình - bộ lễ phục khá nhất suốt bốn năm nay của một nữ tín đồ phái Giáo hữu giản dị.

Mắt nàng dừng lại trên chiếc váy đen vẫn dùng cho những việc như chăm bệnh nhân và đi chợ. Nó gọn gàng chỉn chu nhưng khuỳu tay sờn rách thấy rõ. Không hợp để dự hội nghị cùng cha nếu tính tới tầm quan trọng của sự kiện này.

Cuối cùng, nàng quyết định mặc chiếc váy lụa. Và để nhấn mạnh ý kiến cá nhân của mình với hành động bừa bãi của Công tước, nàng bỏ cái cổ trắng đi, chỉ để lại đường cổ chữ V. Mặc dù trong nhà không có gương, nàng hài lòng khi giơ chiếc váy đã sửa sang một chút lên ngắm, trông nó đã đủ thô mộc khi không hề có chút trang trí nào.

Làm gì với bộ tóc lại là một bài toán khó nữa. Cái mũ trùm cứng mà nàng thường đội dường như quá bình thường cho dịp này. Mẹ nàng dù, đã trải qua giáo dục về đức tín của phái Giáo hữu và không còn liên lạc với gia đình kể từ sau đám cưới, vẫn truyền lại cho cô con gái vài ba phương cách giao tế. Maddy cho rằng thừa nhận chút đỉnh về bản chất đặc biệt của hội nghị toán học này là yêu cầu cần thiết.

Nàng quyết định bện lại tóc. Chỉ riêng việc chải tóc ra đã không dễ dàng gì, nàng chưa bao giờ cắt tóc - mái tóc của mẹ, và giờ đến lượt tóc nàng, thứ phù phiếm trần tục duy nhất - chảy dài tới tận khoeo chân. Sau khi tết lại tóc và cuộn trên đỉnh đầu, nàng chợt nảy ra ý tìm chiếc hộp nhỏ ở đáy rương, lấy chuỗi ngọc trai của mẹ ra.

Nàng không thể cả gan đến mức ngang nhiên đeo nữ trang trên cổ, nhưng sau một chút nghĩ ngợi và vài thử nghiệm, nàng thấy rằng nó ôm một vòng vừa khít phần chân búi tóc trên đỉnh đầu nàng. Nàng thật lòng cho rằng trang sức ấy không hề lộ liễu và dường như đó là một thỏa hiệp dễ chịu giữa ước muốn sai trái kia với đức tín của nàng.

Nhưng sau khi giúp cha ăn bận chỉnh tề và xuống gác vào lúc tám giờ mười lăm, nàng đột nhiên mất hết can đảm. Nàng sợ rằng chuỗi ngọc trông quá lố bịch và nàng chẳng có ai để hỏi ngoài cha với Geraldine, mà chắc chắn chẳng trông mong được lời khuyên tin cậy nào ở cả hai. Maddy đang nâng ấm trà bằng bạc, cố gắng vô vọng nhìn vào hình phản chiếu méo mó của mình trên đó thì tiếng bước chân chậm rãi của cha nàng vang trên cầu thang.

Cùng lúc ấy, có tiếng gõ hối hả ngoài cửa và nàng phải chạy lên đầu cầu thang bếp để gọi Geraldine vì chuông vẫn hỏng mặc cho chủ đất hứa hẹn chiều nay sẽ cử người đến sửa. Thế rồi giữa lúc trông chừng xem cha có xuống gác an toàn không và để mắt đến gã hầu đỡ cha lên chiếc xe ngựa đen bóng loáng - cửa xe chỉ trang trí bằng gia huy có hình một con phượng hoàng trắng bao bọc xung quanh là sáu bông diên vĩ vàng rực trên nền màu lơ - nàng thấy mình đột ngột đối diện với dáng người cúi rạp và bàn tay chìa ra của gã hầu. Nàng chẳng thể làm gì hơn ngoài việc leo nốt lên xe.

Hội trường của Viện Hoàng gia ở phố Albemarle, một gian phòng hình bán nguyệt lớn với những ghế băng lót đệm chứa được chín trăm người, thường khá đìu hiu trong các hội thảo của Hiệp hội Giải tích. Những người có hứng thú và khả năng hiểu được triết lý của ngành toán học cơ bản mà Hội theo đuổi là rất nhiệt thành nhưng ít ỏi, có xu hướng co cụm lại ở bốn hàng trên thuộc dãy giữa, quanh bục diễn giả, bỏ phần còn lại của hội trường trong bóng tối vang vọng.

Thế mà, khi xe ngựa đến phố Albemarle, hè phố chật cứng những quý ông muốn vào Viện. Thoạt tiên, trong Maddy dấy lên nỗi sợ khủng khiếp rằng họ đến nhầm ngày, nhưng không, kia chính là ngài Chủ tịch Milner, bệ vệ và hoan hỉ, ông đang tới bên cửa xe ngựa giúp cha nàng bước xuống. Maddy theo sau, đám đông trên vỉa hè và cầu thang cúi đầu rồi hạ mũ, bước sang bên để nhường đường.

“Xin vui lòng phục vụ cô, cô Timms! Chúng ta sẽ vào phòng đọc trước,”

Ái hữu Milner vừa dẫn cha nàng vào sảnh vừa ngoảnh lại thông báo.

“Công tước ở đó. Ngài ấy rất nóng lòng muốn gặp cả hai người.”

Maddy cố nén một cái khịt mũi, rất đỗi nghi ngờ không rõ Công tước có chút cảm xúc nào với loại sự kiện này hay không. Nàng bị rớt lại sau trong gian sảnh chật cứng người, ngập ngừng giữa đám hỗn loạn bên ngoài phòng để đồ cho tới khi một quý ông lịch sự, một trong những thành viên thường xuyên của Hội, đến giúp nàng cởi áo choàng.

“Tất cả những người này là ai ạ?” nàng thì thầm với ông ta.

“Ta tin rằng họ tới để xem vị công tước mê toán.”

Maddy thoáng nhăn mặt. “Cũng giống như đi xem Lợn hiểu-tiếng-người ấy ạ?”

Ông ta bật cười và nắm tay nàng. “Chuyển những lời chúc tốt đẹp nhất của ta đến ông Timms nhé. Ta rất mong đợi bài thuyết trình này.”

Maddy gật đầu quay bước. Đúng là Jervaulx biến mọi thứ thành rạp xiếc, nàng nhủ thầm. Đáng lẽ nàng nên lường trước chuyện này. Cha già đáng thương của nàng rồi sẽ thành trò cười mất thôi.

Nàng khựng lại trước cánh cửa đóng chặt của phòng đọc, thoáng nghĩ về chuỗi ngọc trên tóc. Có vẻ không ai để ý đến nó. Nàng đặt tay lên búi tóc để đảm bảo rằng chưa có sợi nào tuột ra.

Họ đang ở đó. Nàng cảm thấy họ sẽ nhìn nàng như nhìn một mụ hầu già ngu ngốc và kỳ cục, mà nàng đoán mình nom y như vậy thật - một tín đồ phái Giáo hữu, một người dị thường, càng tệ hơn với chuỗi ngọc trai quấn lấy mái tóc bện chặt. Ý nghĩ đó bỗng dưng khiến nàng thấy khoái trá: một hình ảnh không tồi để đập vào mặt tên công tước phóng đãng!

Ồ, vậy cứ để thế đi. Nàng sẽ khiến gã bị sốc. Gã có lẽ chưa bao giờ ăn tối với loại người như Archimedea Timms. Khẽ nhếch môi cười, nàng đẩy cửa ra.

Ở tít cuối căn phòng được chiếu sáng lờ mờ, cha nàng đội chiếc mũ thấp vành rộng đang ngồi bên chiếc bàn mà báo chí đã được dẹp sang một bên để nhường chỗ. Chủ tịch Milner không có mặt. Người đàn ông còn lại ngồi trong vũng sáng ngọn nến tỏa ra, đang cúi xuống một xếp giấy với sự tập trung mà lần gần đây nhất Maddy thấy ở những học sinh tại lớp nhập môn Giáo hữu mà nàng trợ giảng. Khuỳu tay gã dang ra làm căng chiếc áo khoác xanh thẫm như trời đêm che phủ đôi vai rộng, và khi nàng đến gần hơn, gã sốt ruột cào mớ tóc đen bóng khiến người ta nghĩ đến một nhà thơ xuất thần đang say mê vùi đầu vào sáng tác trên gian gác xép.

Đột ngột, trước khi nàng tới chỗ họ, gã mau lẹ ném cây bút xuống và đứng dậy đối diện với nàng như thể muốn giấu việc đang làm.

Gã nhìn nàng một khắc rồi mỉm cười.

Cậu học sinh nhiệt thành, tay nhà thơ mê mải, cả hai đều biến mất sau vẻ ga lăng dày dạn kia. “Cô Timms,” gã nói, theo đúng cách mà một công tước sẽ nói, bình thản, đầu hơi cúi. Mắt gã xanh sẫm, sống mũi thẳng tắp mạnh mẽ, y phục được cắt may hoàn hảo, cung cách của gã chuẩn mực, và không hiểu sao mặc cho mẽ ngoài bóng bẩy, gã vẫn gợi liên tưởng đến một tên cướp biển trăm phần trăm.

Chính xác như người ta có thể tưởng tượng, ít hủ bại hơn trong hình thức lẫn cung cách ứng xử. Gã đem lại ấn tượng về một nguồn năng lượng bị kiềm giữ nghiêm ngặt, ở gã không có nét trễ nải hay suy đồi, hoàn toàn không có vẻ yếu mềm nào trong cái vóc dáng vững chắc và đầy uy lực kia. Bên cạnh gã, nom cha nàng thật nhợt nhạt, cơ hồ ông sắp tan thành khói và biến mất bất cứ lúc nào.

“Archimedea, con gái tôi,” cha nàng giới thiệu. “Maddy, đây là Công tước Jervaulx.”

Ông phát âm tên gã hoàn toàn khác với cách họ thường nói - như thể nó bắt đầu với âm “s”, không có “oóc xờ” ở cuối, thay vào đó giống âm “âu” hơn. Nàng cảm thấy quê quá chừng, nhận ra rằng cách đọc “Giơ- voóc-xờ” quen thuộc của họ còn cách xa âm chuẩn hàng ki lô mét và hổ thẹn nhớ lại số lần mình chắc chắn đã phát âm sai với viên quản gia của gã. Nàng hy vọng tận đáy lòng rằng Ái hữu Milner là người họ 19194 phải cảm ơn về thông tin này chứ không phải chính bản thân Jervaulx.

Nàng chìa tay ra, không một lời chào hay nhún gối, thậm chí không một cái gật đầu, đúng như một người giản dị, một tín đồ phái Giáo hữu. Nàng đã được nuôi dạy để xa lánh những tục lệ như nói “Buổi tối tốt lành” bởi chúc ai đó một ngày tốt lành trong khi anh ta đang có một ngày quái quỷ là đi ngược lại ỷ Chúa và Sự thật. Mà nàng cũng không thể nói rằng nàng thấy vui vẻ khi làm quen với Công tước bởi đó lại là một sự dối trá nữa, vậy nên nàng quyết định chọn cách chung chung nhất: “Ái hữu.”

Câu chào của gã không tiết kiệm đến vậy. “Quả là niềm hân hạnh lớn lao của tôi khi được phục vụ cô, thưa quý cô.” Gã nắm lấy bàn tay nàng và hơi lắc nhẹ, hạ mi, rồi thả ra. “Tôi phải xin lỗi cô Archimedea vì đã làm cô tốn bao thời gian chờ đợi trong nhà tôi. Hai ngày qua tôi bị nguyền rủa bởi một cơn đau đầu khủng khiếp.”

Maddy tự hỏi không biết gã sẽ viện cớ gì cho tất cả những ngày trước hai ngày đó nhưng cha chỉ nói, “Tôi hy vọng ngài đã đỡ hơn,” với vẻ toàn tâm lo lắng thật lòng. Cha nàng luôn nói thật, vậy nên đương nhiên ông sẽ tin gã đàn ông kia, khổ thân cha già ngây thơ.

“Đã đỡ hoàn toàn.” Công tước nhe răng cười và nháy mắt với Maddy như thể hai người thuộc kiểu cùng hội cùng thuyền. “Nhưng tôi biết cô Archimedea đây vẫn còn nghi ngờ.”

Cha nàng mỉm cười. “Phải, con bé lo cuống cuồng về việc ngài sẽ làm tôi xấu hổ đến độ không bao giờ dám ngẩng mặt lên vào tối thứ Ba nữa.”

“Cha!”

Đúng lúc đó, Chủ tịch Milner gõ cửa bước vào, dang hai cánh tay vẫy lấy vẫy để như xua gà. “Cô Timms, ông Timms, đến giờ rồi. Lại ngồi vào ghế nào, sau đó tôi và Công tước sẽ lên trước diễn đài.”

“Tôi sẽ cần đến tiểu thư Timms,” Công tước nói, tóm lấy cánh tay nàng khi nàng bắt đầu đi về phía cha mình. “Nếu cô vui lòng...” Gã nhìn thẳng vào mắt nàng.

Maddy biết ngay tắp lự đó là kiểu nhìn mà gã dùng với đám phụ nữ tự nguyện sà vào lòng gã. Ngay cả Maddy, người đã hai mươi tám tuổi mà mới chỉ một lần được tán tỉnh, bởi một bác sĩ cực kỳ truyền thống, người đã đón nhận sự từ chối của nàng với nỗi hối hận đau đớn và sau đó đính hôn với Jane Hutton nào đó rồi thì rời bỏ các buổi Suy niệm của Giáo hữu Hội suốt nửa năm, thậm chí nàng vẫn có thể nhận ra cái liếc hỏi nồng nhiệt mà hững hờ ấy, cảm nhận loại sức mạnh mà nó chủ ý sử dụng.

Bởi vậy, khi gã chỉ mới giơ tập giấy về phía nàng và hỏi liệu nàng có thể chép lại các phương trình lên bảng cho gã trong lúc gã trình bày không, có gì như rớt phịch từ chín tầng mây xuống đất. Nàng nhìn xuống tập giấy. “Ngài không muốn tự làm sao? Tấm bảng nằm ngay sau bục. Hầu hết các diễn giả đều...”

“Tôi không muốn,” gã dứt khoát.

“Lại đây, lại đây.” Ngài Milner để cửa mở khiến tiếng ồn ào khẽ vọng lại từ phòng hội thảo. “Vậy chúng ta cùng đi luôn thôi, phải không ông Timms?”

Jervaulx nắm lấy cánh tay cha nàng, đích thân dẫn ông vào đại sảnh, xuống các bậc thang tới hàng ghế đầu tiên. Vị chủ tịch vẫy Maddy lên dãy ghế trên diễn đài, Công tước đi sau nàng, bước chân họ ầm vang trên mặt sàn gỗ. Gã dịu dàng chỉnh ghế cho nàng rồi vẩy nhẹ đuôi áo với phong thái sang trọng, thư thái khi ngồi xuống cạnh.

Hội trường lặng như tờ khi ngài Chủ tịch Milner bước lên bục, chỉnh lại chụp của cây đèn dầu nhỏ và hắng giọng. Maddy nhìn chằm chằm vào biển mặt bên dưới, mỗi khuôn mặt được viền một cổ cồn trắng dường như nổi bồng bềnh trên lễ phục đen. Nàng đã tham dự nhiều buổi gặp mặt của cả Hiệp hội Giải tích lẫn Ái hữu Hội, chiếm một chỗ ở hàng ghế bên dưới cùng cha, nhưng chưa bao giờ nàng ngồi trước cử tọa, còn nói gì đến cử tọa đông chừng này. Nàng cố tự nhủ rằng mọi người đang tập trung vào ngài Chủ tịch, người vừa ổn định trật tự và giờ bắt đầu giới thiệu bài tham luận mà cha nàng là đồng tác giả, nhưng rất dễ nhận ra tâm trí và ánh mắt khán giả thường di chuyển ra sao. Một số quý ông ở mấy hàng đầu tiên rõ ràng đang nhìn qua Chủ tịch Milner: nhắm thẳng vào nàng hay Công tước thì nàng không chắc, nhưng nàng cảm thấy đang bị bóc mẽ một cách khổ sở trong chiếc váy lụa tầm thường và chuỗi ngọc trai.

Nàng cũng nhận thức sâu sắc rằng, bên cạnh nàng, Jervaulx mới thực kỳ vĩ, vững chãi và áp đảo làm sao trong bộ dạ phục sẫm như trời đêm, đôi tay đeo găng trắng đặt trên đùi, không chút run rẩy hay bất an trong khi Maddy phải ép mình ngừng vặn vẹo mười ngón tay. Gã dường như rất chắc chắn về bản thân, thật thoải mái và thờ ơ trước sức nặng của những con mắt đang dán chặt lấy gã khi Chủ tịch Milner bày tỏ niềm vinh dự mà quan khách ai ai cũng đều cảm thấy khi một nhân vật chói sáng như Christian Richard Nicholas Francis Langland, Công tước Jervaulx, kiêm Bá tước Langland và Tử tước Glade, đã hạ cố tới góp mặt cùng Hiệp hội Giải tích London tối nay.

Công tước đứng lên vỗ tay. Giấy tờ đã đưa cả cho Maddy, gã chỉ có tay không. Đáng lẽ nàng phải biết rằng gã là một tài năng diễn thuyết với chất giọng êm tai, thư thái như thế, giọng nói ấy đầy truyền cảm khi gã nghiêm trang tuyên bố rằng bài thuyết trình này xin dành tặng cho vị gia sư quá cố của mình, ông Peeples, một con người đáng kính và uyên thâm, một tấm gương sáng trong nghề nghiệp, xứng đáng với sự yêu mến và kính trọng vĩnh cửu của học trò, và Công tước thành thật lấy làm tiếc về con cá chết trương trong sách giáo khoa của thầy.

Hội trường cười rộ lên, thậm chí cả cha nàng cũng cười.

Nó khiến Jervaulx thấy đau buốt, cái ký ức về mùi cá chết ấy, và bằng cách nào đó thứ mùi ấy dẫn đường tới trang sách mà nó “tô điểm”, và trang đó dẫn tới Tiên đề Euclid về đường thẳng song song cùng hình học vi phân, và rồi giữa tiếng rúc rích nhạo báng còn chưa dứt rằng gã đam mê nghiên cứu sức quyến rũ của những đường cong khôn cưỡng, gã quay người gật đầu ra hiệu với nàng.

Maddy bật dậy, tóm lấy phấn bắt đầu viết đầy tấm bảng lớn. Nàng đã quen với chữ viết tay của Công tước nhưng chữ gã vẫn luôn khó đọc. Lúc này nàng không dám phạm bất kỳ một lỗi nào, tập trung toàn bộ tâm trí vào việc chép lại chính xác các phương trình, vẽ những đường tròn và đường thẳng cắt qua chúng. Những giờ làm việc bất tận cùng cha đã tập cho nàng thói quen bắt nhịp được với người nói, nàng lắng tai đợi những dãy số nhất định trong khi Jervaulx thuyết giảng, quyết định xem lúc nào thì chép ra phương trình kế tiếp và xóa phần đã xong để lấy thêm diện tích. Nàng chỉ bị chệch choạc có một lần khi mải mê quá lâu với một trang cho tới khi Jervaulx ngừng lại và quay sang ra hiệu, nàng vội vã xóa đi năm phương trình và chép nhanh nửa đầu trang tiếp theo của Công tước.

Đến trang viết cuối thì nàng đã vượt gã, gã vẫn còn đang ở vài bước chứng minh trước đó. Nhưng khi Maddy chép xong phương trình cuối cùng, thêm một điểm trang trí nhỏ vào dấu tích phân có cận từ 0 đến r cho vui mắt hơn một chút rồi lập tức ngồi xuống thì tiếng rì rầm bắt đầu lan đi giữa cử tọa. Jervaulx vẫn tiếp tục trình bày. Từ từ, các quý ông bên dưới bắt đầu đứng lên, một người, rồi người nữa, rồi nhóm hai, ba, bốn, năm người, thảy đều trân trối dán mắt vào bảng.

Ai đó vỗ tay. Vài người khác bắt nhịp theo. Âm thanh bốp bốp mỗi lúc một dày hơn khi càng lúc càng nhiều người đứng dậy. Tiếng vỗ tay trở thành tràng pháo tay và tràng pháo tay biến thành hợp âm vang dội khắp phòng, nhấn chìm mọi từ ngữ.

Công tước ngừng nói. Giữa tiếng hoan hô ầm ĩ, gã ngoảnh nhìn Maddy, môi nở nụ cười, rồi chực rời bục diễn thuyết để đi về phía cha nàng nhưng ông Milner đã đưa cha lên đó.

Sức mãnh liệt và âm vang của tiếng tung hô nhân lên gấp đôi, các quý ông bắt đầu giậm chân, khiến cả căn phòng rung chuyển. Maddy đứng lên, nắm lấy bàn tay cha, hạnh phúc siết chặt nó. Ông vỗ lên mu bàn tay nàng và một nụ cười run rẩy hiện lên khóe môi ông, niềm phấn khởi đang bung nở trên khuôn mặt ông là điều mà Maddy chưa từng thấy lại kể từ ngày mẹ nàng qua đời sáu năm về trước.

Một nguồn năng lượng thuần khiết đang vỡ òa quanh họ, một sự kính trọng náo nức nhiệt thành có thể sờ mó được. Jervaulx đưa tay ra bắt tay cha nàng, cứ nắm mãi như thế khi cha nàng không chịu buông tay.

Công tước hơi cúi đầu, nở một nụ cười thoáng xấu hổ: một cái nhìn, nếu Maddy có thể khiến mình tin nổi, gần như là ngượng ngùng. Trong một khoảnh khắc, người ta cơ hồ có thể tưởng tượng ra gã là một cậu trai hăng hái và kỳ dị, tràn đầy đam mê trong trẻo, và rồi gã quay lại phía nàng, nâng bàn tay nàng lên, cúi xuống trao cho nàng ánh mắt của một người đàn ông hoàn toàn từng trải sành đời: vẻ thân mật khêu gợi khiến người ta nhận ra gã là tên đểu cáng từ cách xa năm mươi bước.

Gã kề sát bên tai nàng, nắm tay nàng mà giữ nàng gần đến nỗi nàng có thể cảm nhận hơi ấm tỏa ra từ cơ thể gã và hít mùi đàn hương thoang thoảng. “Cô thấy sao, cô Archimedea?” gã hỏi, chỉ vừa đủ to để nàng nghe được giữa hội trường ầm ĩ.

Maddy lùi lại một bước, giằng người ra. “Chúng ta vừa làm gì thế ạ?”

“Mấy người vừa làm gì ư?” Chủ tịch Milner kêu to. “Chứng minh một bài hình học phi Euclid, cô gái của tôi ơi! Phá tan tiên đề về đường thẳng song song! Một vũ trụ hoàn toàn mới! Lạy Chúa, nếu quả thực công trình này thực sự không hề có sai sót nào như ta đang thấy...” ông vỗ lên cả lưng cha lẫn Công tước, hét lên giữa âm thanh inh tai. “Hai người đúng là một cặp phù thủy, các ông bạn của tôi! Phù thủy!”

“Quyền tác giả là của mình cậu, Ái hữu ạ,” cha nhắc lại. Maddy đã đếm được sáu lần, đây là lần thứ bảy ông nói vậy. “Chính xác là thế.”

Jervaulx lắc đầu nhấp một ngụm rượu. “Vớ vẩn nào, ngài Timms.” Gã nở nụ cười nham hiểm. “Ngài sẽ phải làm phần việc khó khăn đấy. Viết tất cả lên giấy.”

Bốn người đang ngồi quanh một cái bàn tròn bên trong cửa sổ nhô ra của một căn phòng đáng yêu ấm cúng trông ra quảng trường bóng tối phủ đầy. Maddy chưa từng vào sâu trong dinh thự của Công tước đến thế, những chiếc ghế êm ái bọc vải hoa màu lơ khiến nàng ngạc nhiên. Nàng không ngờ rằng một kẻ độc thân có thể tạo ra một ngôi nhà ấm áp dường này.

Lúc này nom gã tuyền vẻ độc thân, ghế dịch xa khỏi bàn ăn đã được dọn sạch, chân duỗi thoải mái, những ngón tay lơ đễnh đung đưa ly rượu. Maddy ngồi nghiêm trang trên ghế, chỉ len lén liếc nhìn quanh phòng để thấy nó tông xuyệt tông đến chừng nào.

Cha nàng xúc động và mãn nguyện, hơi lơ đãng, như thể ông vẫn còn chưa tin nổi giây phút đỉnh cao tối nay là thực: khi Công tước Jervaulx, sau món cá với măng tây tuyệt ngon và đẹp mắt, bỗng dưng hỏi liệu ông có vui lòng nhận một vị trí giảng dạy toán học tại trường đại học mới mà gã và các đồng minh chính trị đang lập ra không, nơi mà phần xét tuyển không có khảo nghiệm về tôn giáo mà chỉ nhằm mục đích giáo dục những học viên trưởng thành trong mọi lĩnh vực của tri thức hiện đại.

Khi vỡ lẽ rằng hóa ra Công tước là nhà bảo trợ cho một công cuộc đáng kính, những người còn lại rõ ràng bị choáng như bị giáng một cú đánh. Nhưng trên thực tế, gã quá thông minh, quá thuyết phục trong chủ đề này, lại quá nhiệt thành, đến nỗi thậm chí cả Ái hữu Milner - một người thuộc phái trọng Giáo hội, người ban đầu rất tức giận khi nhà Timms gọi ông là “Ái hữu” thay vì “Ngài Charles”, dù theo thời gian ông cũng quen với việc này - thậm chí cả Ái hữu Milner cũng bị cải biến những nghi ngờ ban đầu thành lòng nhiệt tình và khuyên cha nên nghiêm túc cân nhắc lời đề nghị này.

Cha Maddy, như nàng thấy, đã đi xa hơn cả cân nhắc và đang đắm mình trong giấc mơ hoan hỉ. Và thực ra, khi Công tước nhắc đến khoản trợ cấp mà gã sẵn lòng dành cho vị trí giảng dạy toán học, Maddy cảm thấy chính mình cũng được khuyến khích vô kể. Chẳng hay hớm gì khi có một kẻ phóng đãng suốt ngày phơi mặt trên báo chí làm nhà bảo trợ cho mình, nhưng chỉ cần hạn chế giao thiệp là được thôi mà. Nàng mơ màng nghĩ đến hình ảnh một ngôi nhà đủ rộng để có một mảnh vườn, và một chiếc chuông gọi người hầu luôn hoạt động tốt.

Giữa những cơn mộng tưởng êm ái đó, Ái hữu Milner xin phép ra ngoài hút thuốc. Ông để cửa khép hờ và lập tức tiếng chân chó hối hả gõ trên sàn nhà bóng loáng báo trước sự xuất hiện của một chú chó săn lông xù, bộ lông trắng mượt mà lốm đốm đen tung bay như thể một thùng sơn đen vừa hắt lên mình chú. Chỉ đưa mắt nhìn Công tước có một cái, con vật lao thẳng vào Maddy và yên vị trên đùi nàng, hai chân trước duỗi sóng soài trên váy nàng và cái mũi hồng đốm hếch lên trong lúc chú liếm cằm nàng.

“Devil!” Tiếng mắng nghiêm khắc khiến chú chó quay sang nhìn Jervaulx dò hỏi, ngoe nguẩy đuôi nhưng không rút chân khỏi đùi Maddy.

Nàng mỉm cười và vuốt ve tai chú. “Chó hư,” nàng khe khẽ thầm thì, như thể đó là một bí mật giữa họ. “Mày quả là một con chó hư.” Devil ngước đôi mắt nâu trìu mến nhìn nàng, nhe răng trước lời kết tội kia. Một tiếng hừ vang lên từ phía Công tước khiến cái đầu lốm đốm cúi xuống. Trán nhăn lại vẻ hối lỗi, Devil tuồn xuống sàn. Jervaulx trừng mắt với chú chó. Một khắc sau, đuôi Devil rũ xuống và chú rời căn phòng với dáng vẻ buồn bã, lủi thủi nhất đời. Chủ nhân của chú, thật không có trái tim, đứng dậy đóng cửa nhốt chú bên ngoài.

Devil bị đuổi ra rồi, căn phòng trở nên tĩnh lặng. Maddy nhìn đăm đăm tấm khăn trải bàn trắng như tuyết trước mặt trong khi Công tước ngồi vào chỗ với một lời xin lỗi ngắn gọn. Nàng có cảm tưởng rằng Jervaulx sẽ nghĩ người nhà Timms rất thiếu tao nhã, có quá nhiều khoảng lặng mà anh ta và Ái hữu Milner bị buộc phải vá lấp. Maddy không quen với những cuộc trò chuyện nhàn tản thế này, khi còn nhỏ nàng đã tự rèn luyện bản thân quá mức theo lời dạy “Chớ vội mở miệng ra” trong Kinh Thánh để giờ thấy khó mà chuyện phiếm dễ dàng. Nàng yêu chó nhưng chưa từng nuôi chúng hay biết đến loại chó nào ngoài chó lai nên nàng cũng chẳng có gì để đàm luận về chủ đề này cùng một người như Jervaulx, người có lẽ là một tay nuôi chó nổi tiếng hoặc đại loại như vậy và sẽ cho là nàng thiếu hiểu biết đến đáng thương.

Nàng cũng rất muốn hỏi về giá cả của loại vải bọc ghế đẹp đẽ ở đây nhưng cố nén. Ngôi nhà mộc mạc của tín đồ phái Giáo hữu không có những thứ trang trí trần tục như nệm ghế bọc vải hoa hay tranh treo khắp tường. Tranh ảnh duy nhất trong nhà Timms là một bức họa kỳ cục vẽ một con thuyền nô lệ được các bậc trưởng bối chấp nhận, coi đó là lời nhắc nhở về những đồng bào còn đang chịu khổ ải. Và khi nàng đang mải ngắm một bức tĩnh vật có khung cầu kỳ treo phía trên giá nhạc với chủ đề giản dị đến lạ về những cành tử đinh hương tơi tả rơi bên một ổ trứng chim cổ đỏ, Jervaulx lên tiếng.

“Mắt ngài không thấy đường từ bao lâu rồi, ngài Timms?”

Người Maddy hơi cứng lại trên ghế, ngạc nhiên trước câu hỏi riêng tư như vậy. Nhưng cha nàng chỉ ôn tồn đáp, “Nhiều năm rồi. Gần... mười lăm năm, phải không Maddy?”

“Mười tám năm, thưa cha,” nàng khẽ sửa lại.

“À.” Ông gật đầu. “Và con là phước lành giời ban cho ta trong suốt những năm tháng đó, bé Maddy ạ.”

Jervaulx ngồi thoải mái, khuỷu tay tựa vào thành ghế, cằm tì vào nắm tay. “Vậy là ngài không nhìn thấy con gái kể từ khi cô ấy còn nhỏ,” gã lẩm bẩm. “Tôi có thể tả cô ấy cho ngài nghe không?”

Maddy không chuẩn bị tinh thần để đón nhận một đề nghị như vậy hay cả ánh sáng hân hoan đang rạng ngời trên mặt cha nàng. Nhưng câu phản đối của nàng chưa kịp thốt ra thì đã bị bóp nghẹt khi cha nàng đáp, “Thật không? Ngài sẽ tả con bé thật chứ?”

Jervaulx chăm chú nhìn Maddy. Trong khi mặt nàng nóng dần lên thì nụ cười của gã chuyển thành điệu cười bất lương kia, và gã nói, “Đó là vinh hạnh của tôi.” Gã nghiêng đầu săm soi nàng. “Chúng ta vừa khiến khuôn mặt cô ấy ửng hồng, tôi e là vậy - một màu hồng rất tinh tế, màu của... những đám mây. Tựa như sương mai nhuốm hồng vào buổi bình minh, ngài còn nhớ điều tôi tả không?”

“Có,” cha nàng nghiêm trang trả lời.

“Khuôn mặt cô ấy... trang nghiêm, nhưng không khắc nghiệt. Mềm mại hơn thế, nhưng cô ấy rất biết cách hếch cằm lên khiến nam giới phải khựng lại. Cô ấy cao hơn ngài, nhưng không cao quá. Là bởi cái cằm đó, tôi nghĩ vậy, và dáng điệu thẳng tắp, lặng lẽ mà cô ấy cố giữ cho mình. Nó khiến cô ấy trông cao hơn. Nhưng cô ấy chỉ đứng đến mũi tôi, nên... chắc chắn cô ấy phải thấp hơn một mét tám ba độ mười ba phân,” gã khôn ngoan nói tiếp. “Tôi trông cô ấy có vẻ khỏe mạnh, không gầy quá hay béo quá. Với dáng vóc rất chuẩn.”

“Giống một con bò sữa tốt nhỉ!” Maddy kêu lên.

“Và kìa, cái cằm đã hếch lên,” Jervaulx tiếp lời. “Bị tôi chọc tức, sắc da cô ấy có lẽ hơi chuyển sang màu rượu vang. Suốt từ cổ lên má, thậm chí cả dưới cổ một tí, nhưng trễ hơn thế thì hoàn toàn mềm mịn và xanh xao, đến hết chừng mắt tôi có thể quan sát được.”

Maddy hấp tấp đưa tay lên che phần cổ áo chữ V, bỗng dưng cảm thấy nó được cắt quá trễ. “Cha...” Nàng nhìn cha mình nhưng mặt ông đang hơi cúi xuống và trên môi ông rõ ràng nở một nụ cười kỳ dị.

“Tóc cô ấy,” Jervaulx vẫn tiếp tục, “có màu vàng lạt ở phần ánh nến chiếu vào, còn những phần khác... sậm hơn - giống màu ánh sáng chiếu qua khi ông rót bia đen. Cô ấy bện tóc và cuốn gọn trên đỉnh đầu. Tôi tin rằng cô ấy cho đây là kiểu tóc đơn giản mà không nhận ra hiệu quả của nó. Nó phô bày đường cong của cổ và gáy, đốt lên trong lòng đàn ông cái khát khao được gỡ mớ tóc kia xuống, để nó chảy qua những ngón tay mình.”

“Anh không đứng đắn rồi,” cha nàng khiển trách bằng giọng điềm đạm.

“Xin lỗi, thưa ngài Timms. Tôi không ghìm nổi bản thân. Giờ chúng ta tả đến mũi của cô ấy nhỉ? về nó, chúng ta nên gọi đó là một cái mũi rất... cá tính. Tôi không nghĩ chúng ta có thể coi nó là hoàn hảo, nó hơi khoằm. Một cái mũi cứng cỏi. Cái mũi của một bà cô. Nó hợp với độ nghiêng của cái cằm. Nhưng đôi mắt... Tôi e rằng chính đôi mắt lần nữa lại làm hỏng cái hiệu ứng bà cô, rõ ràng là vậy. Và cái miệng. Cô ấy có một cái miệng thâm trầm, rất đẹp, hiếm khi mỉm cười.” Gã nhấp một ngụm rượu. “Dầu sao, chúng ta nên công bằng. Tôi rõ ràng đã nhìn thấy nụ cười cô ấy dành cho ngài, nhưng cô ấy chưa từng ban tặng nó cho tôi. Cái miệng nghiêm nghị kia hẳn đã có thể nom hơi tẻ, nhưng rồi nó lại rất hợp với đôi hàng mi dài tuyệt đẹp chưa qua mấy trò uốn tỉa lố bịch. Chúng thẳng nhưng thật dài, hơi xiên xuống, che rợp đôi mắt và biến màu nâu đỏ thành sắc vàng, và vẻ như cô ấy đang nhìn thẳng vào tôi qua bóng mi dày ấy. Không...” Gã rầu rĩ lắc đầu. “Cô Timms, tôi rất tiếc phải báo với cô rằng cái nhìn ấy chẳng đem lại tí hiệu ứng bà cô nào. Tôi chưa từng thấy bà cô nào nhìn tôi qua hàng mi rợp theo cách đó.”

Trong ngôi nhà của gã, bên bàn ăn của gã, nàng cảm thấy không thể nói lên chính xác điều mình nghĩ về gã và đám bà cô của gã. Vả lại, cha nàng có vẻ thích thú. “Maddy,” ông thầm thì. “Con giống mẹ của con.”

“Tất nhiên rồi cha,” nàng bất lực đáp. “Chưa ai bảo cha vậy sao?”

“Chưa. Chưa một ai.”

Ông nói lời đó không kèm theo cảm xúc gì đặc biệt. Nhưng bên ánh nến bập bùng, nàng có thể thấy những giọt lệ long lanh trong mắt ông.

“Cha,” nàng nói và tìm tay cha. Ông gạt lệ rồi đưa những ngón tay lên chạm vào mặt nàng. Ông dò dẫm một cách chậm rãi, chăm chú, từ má nàng qua cặp mi của nàng. Nàng đan chặt tay, xấu hổ và bỗng thấy những giọt nước mắt ngu ngốc chực trào ra.

Nàng chưa từng nghĩ tới điều này: nàng có thể ngồi để cha mường tượng ra mình bằng những ngón tay như thế bất kỳ lúc nào. Trông ông mới hạnh phúc làm sao. Chỉ là cuộc sống cứ tiếp diễn, ngày này qua ngày khác, và chưa ai từng nghĩ đến chuyện cha đã không thấy mặt nàng trong suốt mười tám năm nay hay liệu ông có ước ao được thấy hay không.

“Cảm ơn anh, Ái hữu,” cha nàng nói, quay mặt về phía Công tước.

“Tôi cảm ơn anh. Đây là một trong những ngày tốt đẹp nhất của đời tôi.”

Jervaulx không trả lời. Trông gã thậm chí còn như không nghe thấy, gã chỉ ngồi đó trừng trừng nhìn nếp gấp của khăn trải bàn, đôi mắt xanh sẫm trầm tư và cái miệng cướp biển của gã bặm lại.