Một buổi tối, Tam Lại Tử mò tới cuối ngõ Thanh Hoa, gõ cửa nhà mụ góa Dư Hoa Khố. Ngõ Thanh Hoa tối om. Tam Lại Tử gõ cửa một hồi, nghe thấy tiếng bước chân nhè nhẹ, tiếng mụ góa Dư Hoa Khố vọng ra: “Ai đang gõ cửa đấy?”
Tam Lại Tử nghĩ, nếu mình là thổ phỉ Trần Lan Đầu, sẽ ồm ồm lên tiếng: “Mẹ mày chứ, lằng nhằng vừa thôi, mau mở cửa cho ông”.
Nhưng hắn không phải thổ phỉ Trần Lan Đầu nên đành nhẹ nhàng: “Hoa Khố à, tôi là Tam Lại Tử, mở cửa đi!”
Mụ góa Dư Hoa Khố đáp: “Tại sao tao phải mở cửa cho mày chứ?”
Tam Lại Tử đáp: “Tôi nhớ cô quá, không chịu nổi nữa rồi”.
Dư Hoa Khố cười khẩy đáp lại: “Không chịu nổi nữa thì có thể đi tìm bọn chó cái mà ngủ, tìm tao làm gì chứ? Tao có phải vợ mày đâu”.
“Nhưng tôi chỉ muốn ngủ với cô thôi, chó cái làm sao mà hay bằng cô chứ?”
“Tam Lại Tử, mày nghe bà nói đây, mày mau cút đi thật xa nếu không bà sẽ không khách sáo nữa đâu đấy”.
Tam Lại Tử cũng không nhũn nhặn nữa: “Hoa Khố à, cô mau mở cửa đi. Một đồng đại dương mà chỉ làm có một lần thì thiệt thòi cho tôi quá!”
Im lặng một hồi, cửa bỗng mở bật ra, Tam Lại Tử bị một cú đá như trời giáng. Hắn bỗng nghe thấy giọng đàn ông khàn khàn: ‘Tam Lại Tử, ông cảnh cáo mày, nếu mày còn không mau cút đi, ông sẽ đâm cho mày một dao đấy. Nếu mày còn dám mò tới đây gõ cửa lần nữa, ông mày sẽ giết mày làm thịt lợn bán”.
Tam Lại Tử đã nhận ra, đó là giọng của tay đồ tể Trịnh Mã Thủy.
Cửa nhà mụ góa Dư Hoa Khố đóng sầm một tiếng.
Từ trong cửa vọng ra tiếng cười vui vẻ của Dư Hoa Khố.
Tam Lại Tử cảm thấy đau tim, cú đá của Trịnh Mã Thủy trúng vào tim hắn. Tam Lại Tử ngã vật ra đất, một cơn đau tim, hắn thở cũng khó khăn hẳn. Hắn nghĩ, nếu Trịnh Mã Thủy đá chết hắn thì cũng coi là một sự giải thoát, bởi hắn cảm thấy đã sống quá đủ những ngày tháng cơ cực rồi. Nhưng hắn không chết, hắn nằm trên đất bịt mồm lại, mãi nửa canh giờ sau mới gượng dậy được. Hắn thầm nghĩ: “Cái mạng hạ tiện này sao lại cứng đầu không biết nữa?”
Trong bóng tối, Tam Lại Tử dò dẫm ra khỏi ngõ Thanh Hoa.
Hắn nhắm mắt cũng có thể đi lại dễ dàng trong mọi con ngõ trong thị trấn Đường. Không biết đã bao nhiêu đêm, hắn đi lại như một hồn ma trên mọi con đường trong thị trấn. Tam Lại Tử ở cửa nhà mụ góa Dư Hoa Khố không những bị bôi nhọ mà còn bị lãnh trọn một cú đá như trời giáng. Bỗng dưng, hắn nghe thấy tiếng hát vừa thê lương vừa bay bổng của một phụ nữ.
Chàng ơi, tấm lòng em còn cao hơn trời xanh,
số mệnh em bạc bẽo hỡi chàng.
Chàng ơi, khói tan rồi nước chảy đi,
trái tim em tan vỡ rồi hỡi chàng.
Chàng ơi, trời xa quá đường dài quá,
không biết phải tìm chàng chốn nào đây hỡi chàng.
Chàng ơi, gió lớn mưa rơi gấp,
nước mắt và máu em hòa vào nhau hỡi chàng.
Ai lại có thể cất tiếng hát thê lương vào lúc đêm khuya tĩnh mịch này chứ.
Tam Lại Tử đi về phía vọng ra tiếng hát.
Hắn phát hiện giọng hát bay ra từ cửa hiệu quan tài. Ngoài Du Vũ Cường là người đầu tiên, thì từ trước tới giờ chưa ai dám sống ở đó. Tam Lại Tử lấy hết can đảm đi tới trước cửa hiệu quan tài hòng nhìn xem người đang hát qua khe cửa là ai.
Trước mắt Tam Lại Tử chỉ là màu đen ngòm.
Đột nhiên tiếng hát dừng lại, Tam Lại Tử vẫn chưa định thần lại thì nghe thấy một giọng nói lành lạnh của một phụ nữ văng vẳng bên tai: “Tại sao mày lại muốn nghe trộm ta hát ở đây hả?”
Tam Lại Tử hồn bay phách lạc, quay người chạy bán sống bán chết về phía Đông Đầu Trấn, một bóng trắng bay sát theo hắn.
14
Tam Lại Tử ốm rồi, hắn nằm run bần bật sau tượng ông, bà Thổ Địa. Toàn thân hắn toát mồ hôi lạnh, miệng nói lảm nhảm. Tống Kha vẽ bức tranh sơn dầu tên là “Phiêu bạt giang hồ” xong, anh liền nhớ tới Tam Lại Tử, muốn hắn chia sẻ niềm vui sáng tác với mình, mặc dù Tam Lại Tử là người chẳng biết chút gì về tranh sơn dầu cả.
Tống Kha ra khỏi cửa hiệu, ánh nắng chiếu rọi trên gương mặt anh.
Quán ăn chênh chếch với cửa hiệu truyền thần vắng vẻ lạ thường, mụ Hồ Nhị Tẩu chẳng có việc gì đang dùng vỉ đập ruồi. Mụ ta nhìn thấy Tống Kha xanh xao, định chào hỏi một câu, nhưng câu chào vừa tới cửa miệng liền bị thu lại. Mụ ta nghĩ thầm:
“Con chó bốn mắt này, đã lâu lắm rồi không mò tới quán của mình ăn uống, lẽ nào thằng cha giận mình? Lẽ nào hắn biết mình là người loan tin trên người hắn có mùi tanh ư? Thôi, mặc kệ thằng cha này, không tới ăn thì thôi, mình cũng ghét cái mùi thối đó mà! Nhưng nói đi cũng phải nói lại, nếu như hắn tới ăn thì mình vẫn sẽ cho hắn ăn, lẽ nào mình lại định dứt tình với tiền chứ? Ngửi một chút mùi thối cũng không chết được, thằng đàn ông nào mà không hôi cơ chứ”.
Tống Kha đẩy cặp kính lên rồi liếc nhìn về phía quán ăn, anh chẳng nói chẳng rằng đi về hướng Đông Đầu Trấn.
Tống Kha tới trước cửa miếu Thổ Địa. Hôm nay không phải là ngày chợ phiên cũng không phải là ngày đặc biệt gì nên không có ai tới miếu Thổ Địa. Trong miếu lạnh lẽo và kỳ bí lạ thường Tống Kha đi tới bất cứ nơi nào cũng đều rất kính phục những vị thần linh mà dân địa phương thờ. Tống Kha nhìn thấy cửa miếu đóng chặt, liền gọi to: “Tam Lại Tử, anh đang ở bên trong à?”
Tống Kha không nghe thấy tiếng đáp lại của Tam Lại Tử, liền đẩy cửa bước vào. Anh phát hiện cửa miếu chỉ đóng hờ, trên cửa miếu cũng không có then cài. Trong miếu tối tăm, Tống Kha cảm thấy có gì không ổn. Anh nghe thấy tiếng rên của Tam Lại Tử.
Vừa nghe thấy tiếng rên đó, Tống Kha đã biết hắn bị ốm rồi, liền vội vã chạy lại.
Anh đứng dưới điện thờ hỏi vọng lên: “Tam Lại Tử à, anh sao vậy?”
Tống Kha không dám trèo lên điện thờ, không giống Tam Lại Tử, anh chấp hành nghiêm ngặt những điều cấm kỵ của làng xóm. Lúc này, Tam Lại Tử ở trong trại thái hôn mê, hắn không nghe thấy tiếng anh. Nhìn thấy toàn thân Tam Lại Tử run bần bật, miệng sủi bọt trắng, anh đoán hắn đang sốt. Nhưng bây giờ phải làm sao đây? Tống Kha không phải loại người nhìn thấy chết mà không cứu. Anh phải tìm ông lang trong thị trấn tới thì mới có thể cứu hắn được.
Tống Kha vội vàng trở về thị trấn rồi tới nhà thầy lang Trịnh Triều Trung. Anh gọi to từ bên ngoài cửa: “Xin hỏi ông lang Trịnh có ở nhà không ạ?”
Tống Kha gọi to hai lần, ông lang Trịnh Triều Trung mới bước ra. Ông lang Trịnh Triều Trung tóc đã điểm sương nhưng khuôn mặt vẫn rất trẻ. Ông mặc chiếc áo dài, diện mạo khiến người khác phải tôn trọng. Giọng nói của ông rất nhẹ nhàng: “Cậu Tống có chuyện gì vậy?”
Tống Kha vội vàng đáp lại: “Tam Lại Tử ốm rồi, tôi muốn mời ông tới khám cho anh ấy”.
Trịnh Triều Trung không trả lời ngay, trái lại ông còn dò xét Tống Kha bằng cặp mắt vui vẻ rất có thần của mình. Dường như ông đang nghĩ gì đó.
Tống Kha vội vàng giục: “Thầy Trịnh cứ yên tâm đi, tôi sẽ trả tiền khám cho Tam Lại Tử”.
Ông lang Trịnh Triều Trung vuốt vuốt chòm râu bạc của mình, cười nói: “Cậu Tống à, không phải vấn đề tiền tiền nong đâu, bởi cứu người là phận sự của tôi mà. Được thôi, tôi thấy anh cũng là nhân hậu, tôi sẽ đi với anh”.
Trên đường đi, ông lang Trịnh Triều Trung thắc mắc: “Có một chuyện tôi đang băn khoăn không biết nên hay không nên hỏi đây”.
Tống Kha cười đáp lại: “Nếu ông có thắc mắc gì thì cứ hỏi đi, tôi sẽ trả lời đúng với sự thật”.
Trịnh Triều Trung ôn hòa hỏi tiếp: “Người trong thị trấn đồn rằng trên người cậu có mùi. Tôi chỉ muốn hỏi có phải cậu đã từng mắc phải chứng bệnh gì kỳ quặc phải không?”
Tống Kha bình tĩnh đáp lại: “Ông nói không sai, quả thật trên người tôi có mùi thối. Từ trước tới giờ tôi vẫn luôn khỏe mạnh, cũng chưa từng mắc phải bệnh gì kỳ lạ cả. Hồi nhỏ, tôi cũng đã hỏi mẹ, bà bảo đây là mùi thối bẩm sinh của tôi, từ khi nằm trong bụng mẹ, tôi đã có mùi thối này rồi. Nhưng tôi thấy việc này cũng không có gì to tát cả, đúng không?”
Ông lang Trịnh Triều Trung “Ừ” một tiếng.
Tống Kha thực sự vẫn không yên tâm khi để Tam Lại Tử bệnh tật một mình ở miếu Thổ Địa, anh liền đón hắn về cửa hiệu truyền thần. Anh để hắn ngủ ở chiếc giường trên gác xép của mình. Tống Kha bốc một vài thang thuốc bắc của ông. Sau đó, anh đem về nhà sắc cho Tam Lại Tử uống. Sau khi sắc xong thuốc, anh lại tới chỗ Trịnh Mã Thủy mua một ít thịt, anh nghĩ Tam Lại Tử đang ốm, cơ thể anh ấy rất yếu, cần phải bổ sung dinh dưỡng.
Chờ Tam Lại Tử uống thuốc xong, Tống Kha lấy chăn đắp cho hắn. Sau khi mồ hôi toát ra hết, hắn cảm thấy đã có một chút sức lực. Hắn thều thào nói với Tống Kha:
“Họa sĩ Tống à, sao cậu lại cứu tôi chứ? Sao cậu không để tôi chết đi, huyệt mộ của tôi đã đào xong rồi mà”.
Tống Kha cười đáp lại: “Ngốc à, sao anh lại có thể chết được chứ? Mệnh của anh lớn lắm”.
Tam Lại Tử thở dài một tiếng, khóe mắt chảy ra hai hàng lệ: “Từ trước tới giờ chưa từng có ai đối với tôi tốt như anh, họa sĩ Tống à”.
“Được rồi, anh nghỉ ngơi cho khỏe. Anh sẽ nhanh chóng hồi phục thôi”.
Tam Lại Tử muốn kể chuyện về người đàn bà áo trắng cho Tống Kha nghe, nhưng hắn chưa kịp mở miệng đã vội im bặt. Hắn nhắm nghiền mắt lại, trong lòng như bị một con dao sắc cắt vậy, hắn đau vật vã. Tam Lại Tử không có đủ can đảm nói ra chuyện về người đàn bà áo trắng. Hắn thầm rằng mình không phải là người,hắn là đồ vong ân bội nghĩa.
Lúc Tam Lại Tử mở mắt ra thì nhìn thấy bức tranh sơn dầu ở trên giá vẽ.
Hắn chưa từng nhìn thấy bức tranh nào như vậy, một bức tranh có màu sắc. Trong trí nhớ của Tam Lại Tử, hắn chỉ toàn nhìn thấy những bức truyền thần đen trắng. Trong mắt hắn bỗng lóe lên ánh sáng thần bí. Trong tranh là người đàn ông trung niên phiêu bạt giang hồ mà hắn sùng bái, trông ông ta vừa mờ ảo lại vừa rõ ràng, giống như người được nhìn thấy trong giấc mơ vậy. Trong giấc mơ của hắn, người đàn ông trung niên đó đúng là có hình ảnh như trong tranh. Tam Lại Tử cảm thấy Tống Kha kỳ lạ vô cùng. Tam Lại Tử phân vân không hiểu Tống Kha có bước vào giấc mơ của hắn không nữa?
Tống Kha cười rồi hỏi Tam Lại Tử: “Anh đang nghĩ gì đó?”
“Họa sĩ Tống à, cậu có thể vẽ cho tôi một bức truyền thần màu được không? Ngộ nhỡ tôi có chết thì còn có thể mang theo bức truyền thần của mình”.
“Đương nhiên có thể, nhưng anh không được nhắc tới từ chết nữa”.
Tống Kha còn nửa câu vẫn chưa nói ra, đó là: “Chết là thần thánh”.
Tống Kha nhận lời với Tam Lại Tử, ngay lập tức bắt tay vào việc vẽ truyền thần cho hắn. Anh nghĩ, vẽ xong bức truyền thần cho Tam Lại Tử thì mọi vật liệu để vẽ của anh cũng vừa hết. Tống Kha không hề biết, bức tranh sơn dầu vẽ Tam Lại Tử lại là bức tranh cuối cùng trong đời anh. Trước khi vẽ Tam Lại Tử, trong đầu anh hiện lên một cảnh tượng. Tam Lại Tử quần áo rách rưới ngồi trên bãi đất đỏ cạnh huyệt mộ đã đào sẵn, hắn vẫn đi chân đất, đôi chân bẩn thỉu như thể cả đời chưa từng được đi dép vậy. Khuôn mặt xấu xí của hắn ngập trong ráng chiều đỏ lừ, ánh mắt vô tội nhưng tràn đầy khát vọng đang dõi về dãy núi xa xăm…