Tôi đã tính sổ với hắn chỉ trong một tiếng đồng hồ. Tôi đi đến gặp hắn cùng với Người Anglais, và anh này đã chuẩn bị sẵn sàng tập hồ sơ về hắn. Chúng tôi đã dí những chứng cớ vào mũi hắn, và ngoài ra tôi còn khẳng định với hắn (tôi bịp nhưng hắn đã tin) là tôi sẽ đi mách lại cho bọn Caltani biết rằng tất cả những gì tôi biết được về vụ Baumer, chính là do Walcher kể lại cho tôi.
Người Anglais đã báo trước cho tôi: “Walcher là một thằng hạng bét. Nó không có một hệ thần kinh xứng dáng với sự bất lương của nó đâu. Nó sẽ vỡ vụn ra ngay”. Walcher đã vỡ vụn ra thật, ngay tối hôm đó, mùng 8 tháng Tám, hai người của người Anglais đã đưa hắn lên một chuyến máy bay đi Buenos Aires, yêu cầu hắn đừng trở về đây trước mười hay mười hai năm, với tất cả số tiền để sinh sống là hơn bốn mươi ngàn dolars trong trương mục chính thức của hắn. Trước đó, hắn đã phải ký một cái lệnh chuyển ngân số hai triệu dolars mà bọn Caltani đã trả công cho hắn để làm đồng lõa trong vụ bắt cóc Baumer, hắn đã dấu số tiền này ở Nassan. Tôi thu hồi lại số tiền này, rồi người ta sẽ hiểu tại sao.
***
Henry Chance. Tôi muốn đích thân báo cho ông biết những sự thay đổi đã xẩy ra, và vì thế ngay sau khi thanh toán xong với Walcher, tôi đi lần cuối cùng tới Atlantic City. Henry Chance, nghe tôi nói, ngồi im lặng dáng điệu xa vắng. Nhưng thấy những tia sáng ở đáy đôi mắt nhạt màu kia, tôi đoán là tôi đang thuyết pháp cho Phật nghe.
— Ông đã biết hết cả rồi, có phải không, ông Henry?
— Tôi biết là ông đang chuẩn bị một việc gì chống bọn Caltani. Cái đó đã xẩy ra, ván bài đã xong và ông đã thắng. Nhưng cuộc chơi vẫn tiếp tục với những người chơi khác.
— Ông sẽ không thấy lại chúng nữa, là tôi nói bọn Caltani ấy.
— Cả ông nữa.
— Cả tôi nữa.
Chúng tôi ngồi cạnh nhau trong căn phòng dài, thấp ở ngay trên phòng chơi. Rất nhiều màn hình cho chúng tôi thấy mọi ngõ ngách của Con Voi Trắng. Lúc đó là bẩy giờ tối. Đám đông vây quanh các bàn bạc, dầy đặc và vui vẻ.
— Ông Henry, tôi có nhiều lý do để nghĩ rằng những người đã mua Con Voi Trắng cũng là những người đã mua sòng bạc cũ của bọn Caltani.
— Và họ sẽ hợp nhất hai sòng lại làm một.
Có cái gì qua được mắt con người vừa lễ độ vừa bình tĩnh và đồng thời cũng rất xa cách này không? Tôi nói thêm:
— Trong bất cứ trường hợp nào, cũng chính ông sẽ là người được họ ủy thác cho việc quản lý sòng.
Dường như ông không nghe thấy tôi nói nữa, ông đang bận bật hết màn ảnh này đến màn ảnh khác để theo dõi một cô gái đang di động trong phòng chơi dưới chúng tôi: Đó là một trong những cô gái phụ trách việc cung cấp tiền đồng cho những người chơi các máy xu. Đột nhiên, ông bật ngón tay, gọi một người phụ tá đến, ra lệnh: “Tống cổ ngay tức khắc cô gái ra cửa, không phải giải thích gì cả". Một người quản lý sòng không phải giải thích, người đó ngự trị và ra lệnh thế thôi.
Ông nhìn tôi bằng một đôi mắt trong sáng:
— Franz, tôi có thể cho ông một lời khuyên được không?
Đây là lần đầu tiên ông gọi tôi bằng tên tục.
— Tại sao không?
— Ông đừng dính dáng vào chuyện sòng bạc nữa. Lần này ông đã thoát ra được đấy.
Nhưng viên đạn đã không đi xa lắm! Tôi công nhận thế. Tôi bắt tay ông.
— Khi nào ông đến, ông cũng vẫn sẽ được hoan nghênh ở Con Voi Trắng.
— Ông biết rõ là tôi sẽ không bao giờ đặt chân đến đây nữa.
Ông gật gật đầu, và dường như đã quên tôi rồi, hai mắt nhìn lên các màn hình. Một thứ tu sĩ - chiến sĩ đứng ở một lỗ châu mai, suốt cả cuộc đời lắng đọng trong sự canh gác đó. Đó là hình ảnh cuối cùng của ông mà tôi mang theo đi, vì không bao giờ tôi gặp lại ông nữa.
***
Olliphan.
Ban đêm tôi mới từ Atlantic City trở về, và khi tôi giao chiếc xe của tôi cho người gác cửa khách sạn Pierre thì đã hơn mười hai giờ. Vừa vào cửa, phòng đón tiếp đã đưa cho tôi một bức thư đang chờ tôi. Thư của Olliphan. Nội dung từng chữ một như sau: “Tôi còn một điều cuối cùng nữa muốn tiết lộ với ông, và rất quan trọng. Bất cứ ông về vào giờ nào, tôi xin ông hãy đến gặp tôi”.
Tôi lưỡng lự, và định vứt bức thư vào sọt rác. Nhưng tính tò mò đã thắng. Một sự tò mò đi đôi với cảnh giác. Tôi kéo Người Anglais và Marc ra khỏi giường của họ, rồi chúng tôi cùng đi.
Ở phố 65 Tây, rõ ràng là đám đông vừa tan đi. Hai người cảnh sát đang ngăn những người hiếu kỳ cuối cùng đứng xa một vết lớn trên hè phố, ngay dưới sáu mươi lăm tầng lầu của cao ốc. “Một tai nạn hả? Hai người chết, ngã từ trên cao kia xuống, trong một trạng thái kỳ lạ”.“Không phải chỉ vì ngã từ cao như thế xuống đâu?” Người cảnh sát vui lòng giải thích cho chúng tôi, theo anh ta, thì chính axít đã gây ra những vết thương khủng khiếp nhất. “Người ta chưa biết là ai, là nói về những cái xác ấy”.
Marc thì cho là nên rút lui ngay tức khắc, nhưng không có gì ở trên đời này có thể ngăn cản tôi không đi lên. Tôi lại gặp người bảo vệ có võ trang, mười một tháng trước đây đã chỉ cho tôi cầu thang máy riêng của Olliphan. Anh ta nói là chắc chắn những người cảnh sát vẫn còn ở trên đó sẽ không để cho chúng tôi vào đâu, trừ phi chúng tôi có những lý do chính đáng. Chúng tôi đi lên.
Quả nhiên có cả đến một đội cảnh sát ở tầng lầu thứ sáu mươi tư. Thay vì giấy thông hành, tôi đưa cái thư của Olliphan ra. Người ta hỏi tôi, nhưng tôi biết nói gì được? Tôi không biết một tý gì cả? Cuối cùng, người ta giải thích cho tôi là đến giai đoạn này của cuộc điều tra, thì phải kết luận như sau:
Không có một người làm chứng nào. Tất cả những người ở đều đã được cho thôi việc ngay hôm nay, nếu theo lời người đầu bếp Porto Rico mà chúng tôi đã tiếp xúc được và cũng sắp đến đây. Không có một người làm chứng nào, nhưng các dấu vết cũng đủ để kể lại câu chuyện: Ông ta đã dội axít vào người vợ, rồi cũng tự tưới axít vào mình, hoặc do cố tình hay vì bất cần. Rồi thì, cả hai đi lên cái sân gác thượng kỳ quái và điên khùng vừa dốc vừa không có bao lơn ấy. Ngã sáu mười lăm tầng lầu để làm nốt công việc của axít, thì ông bảo còn lại cái gì nữa? Ông có gì khai báo không?
Không. Chúng tôi đi xuống.
Ban đêm ở New York, trời nóng và ẩm. Mãi đến gần khách sạn Pierre, Người Anglais mới nói với tôi:
— Cái vụ axít này làm cho tôi suy nghĩ. Có một việc mà tôi có thể làm được để cho biết sự thật: Tại Rio, trên những hòn cù lao ở trước thành phố có một bác sĩ thay đổi được các bộ mặt. Nếu ông muốn, một trong những người của tôi hay đích thân tôi, ngay đêm nay sẽ đáp máy bay đi Brasil. Chỉ để xem là một người trước đấy tên là Olliphan, có hẹn họ gì với nhà phẫu thuật này không. Hay là, tôi cũng có thể đảo qua Nam Phi, vào chỗ của Korber đó...
Tôi tìm đôi mắt của Marc. Anh lắc đầu. Ý kiến của tôi cũng như thế. Tôi nói với người Anglais:
— Không. Câu chuyện của Con Voi Trắng đã kết thúc rồi. Và nhất là tôi không muốn biết có cái gì sẽ xẩy ra cho Olliphan. Nhưng dù sao cũng cảm ơn ông.
— Đó là điều tối thiểu - Người Anglais đáp lại.
***
Và Caliban, Patty và Lý và Lưu và Miranda. Họ hãy còn sống cả, có thể là dưới những cái tên khác. Caliban chia thời gian giữa California và Atlantic City, ở đây anh đã sáng lập ra một trường đua ngựa dành riêng cho những “người thấp”, cưỡi những con ngựa giống nhỏ, và mỗi lần đua lại có mở cá độ theo kiểu Pháp. Ngày nay, anh vẫn còn dùng nhiều thời gian vào công việc này.
***
Và Heidi.
Nhờ đi đi lại lại như con thoi giữa nước Áo và Hoa Kỳ, cuối cùng Jimmy Rosen cũng đã giật được một thứ thu xếp quyết định. Chính tôi cũng phải đi tới bốn lần sang Vienne và Salzbourg để thương lượng với một cơ quan xã ác liệt không thể tưởng tượng được, thậm chí phải đài thọ cả một chuyến đi cho một công chức Áo sang tận San Francisco để quan sát tận mắt xem Sarah và tôi có định đưa con bé Tyrol của chúng tôi làm nghề mãi dâm không. Cũng ông công chức này, đã “gặt hái” được để trả giá cho chuyến đi của ông, hai cú đá bằng guốc vào xương cẳng chân. Những thủ tục nhận con nuôi được bắt đầu tiến hành, và kết thúc vào tháng sáu năm sau, 1978.
Ít nhất trong thời gian đó, chúng tôi có thể cùng nhau vượt các biên giới. Vì lý do ấy, vào tháng chín 1977, tôi tiến hành một cuộc đại hội của toàn thể gia đình tôi trong căn nhà La Capilla của tôi ở Saint Tropez.
— Con có thể ở truồng được không ạ? Heidi hỏi.
— Thế rồi sao nữa?
— Tất cả mọi người đều ở truồng hết.
— Không phải tất cả mọi người. Bác có ở truồng đâu nào, cả bác Sarah cũng thế.
— Đối với bác - nó cười gằn - thì có lẽ thế lại hay hơn đấy! Người ngợm như bác thì mặc quần áo là có lợi cho bác đó. Nhưng bác Sarah cũng không đeo cả su chiêng nữa.
— Con cũng thế. Mà vì lẽ, con có gì để trưng ra đâu nào.
— Bác tinh nhỉ. - Nó suy nghĩ.
Trên bờ bể bơi, Lý và Lưu, và các bà vợ của các anh (tôi hy vọng rằng các bà phân biệt được ai là Lý ai là Lưu) đang ngủ trưa một cách uể oải trong nắng tháng chín của Saint Tropez. Caliban và Patty cũng thế. Sarah đang ở trong nhà, cô ta có trong đầu cái ý nghĩ, là chuẩn bị cho ngày sinh nhật của tôi, một trong hằng hà sa số loại bánh ngọt Pudding Ireland, mà chỉ mới nhìn thấy thôi, tôi cũng đã sởn cả da gà lên rồi. Bánh này và món trứng đúc dăm bông là toàn bộ tất cả kho tàng bếp núc của cô ta.
Marc Andréa đang ngồi cạnh tôi, bắt chước tôi, hay cố gắng bắt chước làm như tôi, nghĩa là vạch ra những nét mà nó cho là những con số.
— Bác Cimballi.
Tôi ngửng đầu lên và gặp đôi mắt màu hoa sim
— Ừ, cái gì Heidi?
— Con yêu ba.
Đây là lần đầu tiên nó gọi tôi như vậy.
Rồi nó sỏ chân vào đôi guốc, và bắt đầu cuộc đi săn lùng, vừa đi vừa cào chân vào cát của bãi bể. Tôi lại trở lại với những con tính của tôi, mà tôi đã làm gần xong. Và tôi chắc chắn về những kết quả đạt được: Tôi đã làm đi làm lại những con tính này có dễ đến hơn hai trăm năm mươi lần rồi cũng nên. Mà đơn giản lắm: Nếu đem bán cái số một trăm sáu mươi tư triệu dolars tôi đã nhận hay sắp nhận được của Hassan, trước với những số tiền vay của Lý và Lưu cộng thêm lãi, cộng với hai mươi lăm triệu mà tôi hoàn lại cho chị em Moser, cộng với những tiền hoa hồng cấp cho người Thổ Nhĩ Kỳ và Baltazar, cộng với tiền công của Marc, cộng với số lương huy hoàng của Người Anglais, cộng với tiền thuê Flint và chiếc máy bay của anh, cộng với tất cả những chi phí riêng của tôi, cộng với những gì tôi đã tiêu cho Con Voi Trắng về mọi mặt, từ ngày 14 tháng sáu năm ngoái...
Một tiếng la thét từ ngoài bãi bể vọng lại, theo sau ngay tức khắc bởi tiếng cười trong trẻo và đắc thắng của Heidi. “Đó là chuyên khoa của cháu mà” (Heidi la lên như vậy).
... Nếu tôi trừ tất cả những số tiền ấy đi, và xem còn lại những gì, thì tôi nhận thấy tôi là chủ của một món tiền là chín mươi mốt triệu, tám trăm hai mươi ba ngàn, sáu trăm bốn mươi mốt dolars. Nghĩa là rất chính xác những gì mà tôi có vào cái buổi sáng ngày 14 tháng sáu 1976 khi tôi trèo lên chiếc máy bay ở Montego Bay, Jamaique đi New York để báo cho Philip Vandenberg tôi muốn mua một cái sòng bạc.
Những gì tôi có sáng hôm ấy, có tăng thêm bởi số lãi tôi rút ra được của Con Voi Trắng: Số lãi này chính xác lên đến một trăm năm mươi bẩy dolars và hai mươi chín xu, trừ thuế má.
Một tiếng hét giận dữ thứ hai ngoài bãi bể. Và Heidi lại phá lên cười và tuyên bố sự vui sống của nó. Tôi cất chiếc bút máy của tôi đi, lấy chiếc bút máy của Marc Andréa ra khỏi tay nó. Tôi nói với nó:
— Ông đồng nghiệp thân mến ơi, ông có muốn vứt lại đó nền Tài Chính và chúng ta cùng chuồn đi trước khi chiếc bánh ngọt Pudding Ireland xuất hiện không?
Nó đồng ý một cách nhiệt tình, vì cũng hoảng sợ như tôi trước cái tai nạn Pudding sắp tới. Chúng tôi kết thúc buổi làm việc. Tôi dắt tay nó, đi xuyên qua vườn, xuống bãi biển.
Tôi dắt Heidi bằng tay kia, và cả ba chúng tôi, cùng đều bước đi ra biên giới giữa bãi cát và những con sóng lười biếng, nói chung trong bụng rất bằng lòng mình.
Rồi hai đứa thả tay tôi ra, Heidi đứng trên cát ướt quay những đọt tóc vàng óng dưới ánh sáng mặt trời chói lòa. Và con trai tôi, theo nó trong một cuộc nhẩy cuồng loạn đầy những tiếng cười.
Tôi đã chạy đôn chạy đáo khắp thế giới để đi tìm một cái gì đang ở ngay trước mặt tôi, mà không một lưỡi kiếm bạc, một chìa khóa nào có thể đem lại cho tôi được. Nhìn những tấm thân bé nhỏ rám nắng nhễ nhại bọt nước của chúng, tôi tự nghĩ cái tôi tìm là nó đấy, Gia Tài của tôi đó.
Gia Tài Thực Sự - Duy Nhất - Tiếng cười của Heidi và Marc Andréa nổ vang trong tôi như một chân lý không có vết rạn nứt.
HẾT
★★★