Si Mê Và Liều Lĩnh

Chương 14

Thứ Tư ngày 19 tháng Mười

Mặt trời đang lặn xuống phía sau những ngọn đồi. Roy và Jock đứng trong bóng u minh của nhà thờ đổ nát, quan sát những người đàn ông lũ lượt kéo xuống con đường ra khỏi tòa lâu đài trở lại làng sau ngày làm việc đầu tiên. Một số người vác dụng cụ trên vai, một số đẩy xe ủi, một số đánh xe ngựa.

“Chỉ một tuần thôi họ sẽ bịt lâu đài ấy kín bưng như cái trống,” Jock nói.

“Không thể, nếu chúng ta lại bới nó ra,” Roy nói.

“Mày nói ngớ ngẩn gì thế? Chừng ấy người đàn ông, làm việc quần quật từ sáng tới tối. Chừng ấy công việc họ làm? Trong khi hai chúng ta chỉ có mấy tiếng đồng hồ trong đêm?”

“Không phải là đào bới tất cả những gì họ xây,” Roy nói. “Chỉ đào bới quanh tầng hầm thôi, để chúng ta có thể vào trong. Mày nghĩ đám người London ấy chịu đựng được bao lâu chứ, khi chúng ta đánh thức chúng hết đêm này qua đêm khác?”

“Đến tao còn chẳng biết mình chịu được bao lâu đây,” Jock nói. “Chạy lên chạy xuống bấy nhiêu cầu thang, kéo lê những cái kèn túi kinh tởm ấy. Trong khi chừng ấy thời gian chúng ta có thể dành để đào bới.”

“Ích lợi gì không? Đào bới trong đêm ấy? Dạo này chúng ta toàn quan sát giữa ban ngày ban mặt. Mày nghĩ chúng ta may mắn cỡ nào mà có thể chuyển đá trong đêm?”

Nhưng tìm kiếm những đồng tiền vào ban ngày cũng đâu có dễ dàng. Đó không phải thứ chiếu ánh sáng lấp lánh lên mắt chúng rồi bảo, “Nhìn này. Tiền đây.” Những đồng tiền này có màu rất giống đất, khó mà phân biệt được với đá sỏi.

Roy và Jock đã sống thoải mái với những đồng tiền chúng tìm thấy. Một đồng ở tầng hầm. Một số ở sân. Nhưng chính cái bông tai cổ chúng tìm thấy trong sân, gần chòi canh, đã thuyết phục Roy rằng ông cụ Dalmay không phải một kẻ nói nhảm, như mọi người vẫn kháo nhau. Cái bông tai ấy báo cho hắn rằng kho báu là có thật, và nó ở đó.

Dưới bức tường, ông cụ Dalmay nói thế.

Mọi người kháo nhau rằng, nếu những người nhà Dalmay còn không thể tìm ra kho báu của chính họ khi nó vẫn còn hằn sâu trong tâm trí họ thì có nghĩa nó đã mất rồi. Cromwell và tùy tùng của ông ta đã lấy nó đi, đúng theo cách họ chiếm lấy mọi thứ khác. Nhưng nếu người ta từng nhìn thấy những đồng xu và cái bông tai cũ kia và biết bọn hắn đã bán cái gì ở Edinburgh, giọng điệu của họ hẳn sẽ thay đổi hoàn toàn. Hẳn ai nấy sẽ vác cuốc vác xẻng tới lâu đài - và sẽ không giúp khôi phục lại nó nữa.

“Con trai ông chủ thái ấp cũng đã bảo mọi người đào đất,” Roy nói. “Nếu kho báu ấy ở trong sân hoặc trong tầng hầm thì bọn họ sẽ tìm ra. Chúng ta phải ngăn họ lại.”

Lisle đang cố không gục đầu vào đĩa thức ăn, chàng buồn ngủ rũ rượi. Hôm nay là một ngày dài, dù là một ngày rất tốt đẹp, và bộ não chàng thậm chí còn mệt mỏi hơn thể xác rất nhiều. Chàng vẫn không hiểu gia đình mình muốn gì với đống đá xấu xí này. Hết thế hệ này đến thế hệ khác bỏ rơi nó, rồi lại phí phạm vô khối tiền của để duy trì nó. Dù người ta có làm gì, nó vẫn luôn lạnh lẽo, ảm đạm và ẩm ướt.

Tuy nhiên, khi quan sát đám nhân công đi trên con đường của làng, chàng thấy lòng dấy lên niềm tự hào pha lẫn sự nhẹ nhõm. Bất chấp những rắc rối mà ông chủ thái ấp, cha chàng đã gây ra, họ vẫn sẵn lòng tin tưởng con trai ông ta. Giờ chàng có thể điều khiển mọi việc hoàn thành đâu ra đó. Vì khối lượng công việc vô cùng lớn nên chàng sẽ phải bỏ ra nhiều công sức.

Chàng lén nhìn qua bàn ăn, vào một vấn đề phức tạp nữa mà chàng cũng cần dành nhiều tâm lực đối phó. Olivia mặc một chiếc váy may từ lụa nặng màu xanh, với hàng dặm vải ở những chỗ kỳ cục nhất, trong khi bờ vai và gần như cả bộ ngực tròn trịa lại phơi ra - chỉ có chiếc vòng cổ sapphire ngự trên lãnh địa của quỷ ấy nháy mắt với chàng.

Nàng đang đứng lên khỏi bàn, chuẩn bị đưa hai quý bà lại gần lò sưởi để uống trà - hay trong trường hợp của hai quý bà thì là một chầu Whiskey nữa - và nói chuyện hoặc đọc sách, thì tiếng gào rú của kèn túi lại vang lên từ lòng đất.

Lisle đứng lên khỏi ghế. “Herrick, Nichols, đi với ta. Các cậu...” Chàng ra dấu về phía những người hầu đang đứng dựa vào tường. “Xuống cầu thang phía Nam.”

Tất cả mọi người vội vã cầm giá nến rồi xuống tầng hầm.

Họ vấp phải những đống đất đá, tìm kiếm trong các căn phòng mái vòm rộng thênh thang. Rồi một cậu đầy tớ kêu lên. “Thưa ngài, đây ạ!”

Lisle vội vã đi về phía tiếng gọi. Chàng thấy cậu ta đang chỉ vào bức tường của một căn phòng.

Ai đó đã viết nguệch ngoạc bằng than chì dòng chữ, COI TRỪNG.

Đó là tất cả những gì họ tìm thấy.

Bọn quỷ sứ đã bỏ đi. Lisle cho người hầu trở lên cầu thang để trấn an các quý bà quý cô rằng tạm thời lúc này sẽ không có ai tới sát hại họ. Rồi chàng quay trở lại để săm soi thông điệp viết như gà bới kia. Khi chàng vừa đặt tay lên những con chữ ấy...

Một tiếng sột soạt quen thuộc đến gần chàng. Chàng rời mắt khỏi câu cảnh báo viết sai chính tả đó. Olivia bước tới, tay cầm nến. Nàng dừng lại ngay cạnh chàng và nhìn vào bức tường.

“Phải nói là, chuyện này thực sự khiến em lo lắng, chúng lẻn vào đây trong khi tất cả mọi người trong nhà đều đang thức,” nàng nói. “Chúng quá to gan.”

“Hoặc ngu đến khó hiểu,” chàng nói.

“Cha dượng em luôn nói tội phạm thường là những gã ít thông minh nhưng nhiều xảo trá,” nàng nói.

“Ta biết. Ta muốn đối phó với những kẻ ranh mãnh hơn nhiều. Ít nhất người ta cũng sẽ hiểu được suy nghĩ của chúng.”

“Kèn túi hầu như chẳng khó chịu gì với chúng,” nàng nói.

“Chỉ là vấn đề quan điểm thôi,” chàng nói.

“Sự quấy rối làm em thấy lo lắng,” nàng nói. “Chuyện này khiến người hầu mệt mỏi.”

Nó cũng khiến chàng bực bội. Chàng cần người hầu làm việc tốt, mà họ lo lắng sợ hãi thì sẽ không thể làm việc tốt được.

“Thật không may, người ta không thể đặt đơn vị đồn trú ở đây để bảo vệ chúng ta khỏi những kẻ xâm lược, như người xưa vẫn làm,” chàng nói.

“Em nghĩ không hẳn là chúng muốn làm hại chúng ta đâu,” nàng nói. “Điều chúng thực sự muốn là mọi người bỏ đi, như thế chúng có thể tiếp tục cuộc săn kho báu của chúng.”

“Ta sẽ không đi đâu cả,” chàng nói. “Ta vừa bắt đầu, và ta sẽ không từ bỏ. Ta sẽ khôi phục xong món đồ cổ vô dụng này, rồi sẽ trở lại Ai Cập. Còn giờ, ta sẽ trám kín tầng hầm lại. Những kẻ đột nhập ấy sẽ phải tìm một con đường khác.”

“Nếu chúng ta tìm thấy kho báu trước, chúng sẽ buộc phải ngừng tìm kiếm thôi,” nàng nói.

Chàng rất mệt và thật khó nhìn nàng mà vẫn giữ vững được tinh thần trong khi cảm thấy trái tim mình bị đâm đau nhói. Chàng thấy giận bản thân vì không thể làm chủ những cảm xúc chỉ có thể dẫn đến bất hạnh. Chàng chỉ muốn nói, “Chẳng có kho báu nào cả,” và bảo nàng thôi ngay những ý tưởng lãng mạn ngớ ngẩn đi - và mặc thêm áo vào, và đừng đứng quá gần, vì như thế chàng cứ ngửi thấy mùi hương của nàng.

Ngay lúc ấy tiếng nói cảnh báo vang lên.

Nghĩ đi.

Kho báu. Không có kho báu nào cả nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ tin điều đó. Nàng muốn tìm kiếm. Sao không để cho nàng làm thế? Như vậy sẽ khiến nàng bận rộn, và nếu chàng để mắt cẩn thận, nàng sẽ không gặp rắc rối nào cả.

“Hay lắm,” chàng nói. “Hãy xem xét chuyện này một cách logic. Ngay cả những kẻ ngu ngốc nhất trên đời cũng sẽ không làm cái việc cực nhọc này mà chẳng có lý do chính đáng.”

“Đúng thế, chính xác,” nàng nói. “Chúng đã qua lại đây nhiều năm, nếu chúng ta tính từ lúc chúng bắt đầu tìm kiếm. Phải có gì đó đằng sau chuyện này.”

“Nếu chúng ta biết cái gì đó là cái gì, chúng ta sẽ biết phải làm gì,” chàng nói. “Có thể ông chú Frederick có ghi chép gì chăng. Hoặc nói gì đó. Rắc rối bắt đầu sau khi ông rời khỏi lâu đài để chuyển tới Edinburgh.”

Đầu óc chàng rối tung rối mù mất rồi. Khá dễ để lôi cuốn trí tò mò của nàng mà không cần viện đến một lời nói dối.

“Ta phải thừa nhận là điều đó nghe rất hấp dẫn,” chàng nói. “Nhưng ta không có thời gian nghĩ về nó. Ta không có thời gian để nghiên cứu sách vở và ghi chép của ông, cũng như để nói chuyện với những người từng thân cận với ông. Ta đã có cái đống đá này để ‘khôi phục vẻ huy hoàng vốn có’ hòng làm khuây khỏa bậc phụ mẫu đang nổi giận.”

Chàng nhìn khuôn mặt nghiêng của nàng và cảm thấy xấu hổ. Tệ hơn, phần điên rồ trong con người chàng - cái phần mà nàng dễ dàng triệu tập - lại muốn vứt bỏ mọi thứ để theo đuổi bí ẩn này. Phần ấy trong chàng muốn được cùng nàng săn tìm kho báu, chuyện mà hai người đã từng làm cùng nhau trước đây. Ôi, thật là cám dỗ. Chàng nhớ lại cảm giác phấn khích của việc phá bỏ mọi quy tắc và sống sót chỉ bằng trí khôn.

Chàng thấy mình đang bị cuốn vào và biết mình phải chống trả, nhưng phần điên rồ ấy trong con người chàng lại chẳng muốn đấu tranh.

Rồi nàng lên tiếng, gương mặt sáng bừng lên, “Ngài nói đúng. Dù có kho báu hay không, lâu đài vẫn phải được khôi phục. Em đã hứa ngài sẽ được trở lại Ai Cập vào mùa xuân tới. Điều đó có nghĩa chúng ta không thể phí phạm phút giây nào. Em sẽ tìm hiểu bí ẩn này. Giờ Herrick đã nhận việc, em sẽ có nhiều thời gian rảnh - và em dám chắc là hai quý bà sẽ rất vui được thu thập chuyện gẫu từ những người bạn cũ của ông chú ngài.”

Nàng bước lại gần hơn và vỗ lên ngực chàng. “Đừng lo lắng điều gì cả,” nàng nói. “Hiệp sĩ Olivia - hiệp sĩ trung thành của ngài sẽ làm tất cả những gì cần làm.”

Khi lớn lên, em sẽ là một hiệp sĩ, nàng đã nói với chàng như thế ngày đầu hai người gặp nhau. Hiệp sĩ Olivia cực kỳ ga lăng, giữa đường thấy chuyện bất bình chẳng tha, làm những việc cao quý, sửa chữa những sai lầm, em sẽ trở thành người như thế cho mà xem.

Rồi nàng vội bước đi, để lại chàng đứng đó nhìn theo, cho tới khi nàng đã khuất tầm mắt và tiếng sột soạt đã xa.

Chàng quay lại nhìn chằm chằm bức tường.

COI TRỪNG.

Nhưng tất nhiên chàng không tin vào những lời điềm báo hay dấu hiệu. Hoặc lời cảnh báo từ những kẻ ngớ ngẩn thậm chí còn không biết đánh vần cho ra hồn.

Chàng quay người bước trở lại cầu thang.

Như đã báo trước, Herrick phi ngựa tới Edinburgh vào thứ Tư. Thứ Năm, họ sẽ có bà quản gia tên là Gow. Thứ Sáu, Herrick và bà Gow đã thuê đủ nhân công người Scotland. Ngay hôm đó, Olivia cho phép tất cả người giúp việc của nàng trở về London, ngoại trừ những người hầu cận.

Chỉ có Aillier khăng khăng ở lại. Những người khác đóng gói thật nhanh. Họ lên đường vào giữa buổi chiều.

Trong khoảng thời gian đó, nàng dành nhiều giờ mỗi ngày để nghiên cứu sách vở, báo chí và ghi chép của Frederick Dalmay. Bất cứ ở đâu nhắc đến lâu đài - ví như một đoạn trong tác phẩm của Walter Scott - Frederick đều dán giấy nhớ và viết một đoạn lưu ý bằng bút chì vào bên lề. Những ghi chép ấy giờ hầu như đều không đọc được nữa, nhưng thế cũng không sao.

Những tài liệu đó cho nàng biết mọi truyền thuyết về ma: những con ma khác nhau nổi tiếng ở những kỷ nguyên khác nhau. Nàng cũng được biết về hoạt động kỳ lạ tại các đại yến và sự kiện trọng đại. Frederick đã lưu trữ mọi ghi chép về những cuộc tranh chấp tài sản. Ông cũng giữ nhiều tập nhật ký. Theo những gì nàng biết thì chủ yếu chúng đều viết về lâu đài Gorewood và lịch sử của nó. Có vẻ như chúng hay đề cập đến những sự việc rắc rối liên quan đến lâu đài. Nhưng nàng không dám chắc lắm, bởi vì bản viết tay cực kỳ rối rắm với chữ lít nhít cực kỳ khó đọc.

Nàng nghĩ Lisle sẽ không gặp khó khăn gì khi làm sáng tỏ nó, bởi vì chàng đã quá quen với việc giải mã những dòng chữ kỳ lạ, nhiều dòng đã biến mất phần nào do thời gian bào mòn hoặc bị phá hoại. Nếu chàng rảnh rỗi lấy vài ba phút thì nàng cũng hỏi rồi.

Thế rồi vào sáng thứ Hai, nàng đang vừa giở một trang sách vừa suy nghĩ xem liệu có nên nhờ Lisle giải thích giùm không thì một mảnh giấy vàng ố cháy dở rơi ra ngoài.

“Nhưng đây là một manh mối,” Olivia nói. Nàng vẫy tờ giấy nâu sẫm nhăn nhó trước mặt Lisle.

Miễn cưỡng, chàng cầm lấy nó từ tay nàng.

Kế hoạch của chàng là làm việc thật chăm chỉ. Chàng và nàng ai nấy làm việc của mình. Họ gặp nhau vào giờ ăn, khi đó các quý bà cũng ở đấy, và luôn giúp chàng sao nhãng.

Nhưng hôm nay, Olivia nhất quyết gặp bằng được chàng tại phòng giếng ở tầng hầm trong khi đám người làm đã ra ngoài ăn trưa. Nàng nhảy cẫng lên vui sướng vì nàng tìm thấy một MANH MỐI.

Chàng đâu có mong nàng tìm ra manh mối cơ chứ. Chàng chỉ mong nàng cứ tìm kiếm và tìm kiếm mãi cho đến khi chàng hoàn thành công việc và có thời gian suy nghĩ về nàng, hoặc cho đến khi chàng nghĩ ra mình phải làm gì với nàng, nếu điều này khả thi.

“Nó nói gì vậy?” nàng nói.

Chàng nhìn xuống tờ giấy có vẽ biểu đồ nguệch ngoạc với nhiều chỗ đánh dấu. “Nó chẳng nói lên điều gì cả,” chàng nói. “Nó giống như một bản vẽ lăng nhăng của trẻ con. Một trong những bản vẽ đầu tiên của ông Frederick. Mẹ ta đã giữ mọi bản vẽ của ta. Giữ lại những thứ như thế này không phải là hành động mang tính chất lý trí mà chỉ mang tính chất tình cảm thôi, rõ là thế.”

“Ngài chắc không?” nàng hỏi.

Chàng đưa tờ giấy lại cho nàng. “Đây không phải bản đồ kho báu đâu,” chàng nói.

“Có lẽ đây là một thông điệp được mã hóa.”

“Chẳng có mật mã nào cả,” chàng đáp.

“Những biểu tượng nhỏ này,” nàng nói. “Trong những cái hộp nhỏ xíu.”

Chàng hết nhìn tờ giấy rồi lại nhìn nàng.

Váy và tóc nàng chi chít mạng nhện mà nàng vừa mắc phải trên lối vào phòng giếng. Chắc hẳn nàng đã vò đầu bứt tóc khi cố giải mã Thông điệp Bí ẩn, bởi vì nhiều ghim tóc rủ xuống trên những lọn tóc dày. Đôi mắt xanh của nàng lấp lánh reo vui và màu nắng tắm đẫm trên đôi má xinh tươi.

Chàng đã quá mệt mỏi với tòa lâu đài bí ẩn kỳ quái và thời tiết khắc nghiệt ở đây, quá mệt mỏi với việc đào những cái hố để chôn vùi cảm xúc chỉ để thấy nó cứ trườn ra, như loài rắn, và cắm phập răng nanh vào chàng.

Sao chàng lại quay trở về Anh cơ chứ?

Chàng biết ở bên nàng không phải là một điều hay đối với mình.

Nhưng chàng đã quay lại là bởi nhà Carsington - và mọi chuyện thật không công bằng. Tại sao chàng phải giữ khoảng cách với một gia đình có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với mình chỉ vì một thành viên của gia đình ấy cứ khiến tâm trí chàng rối như tơ vò?

“Vớ vẩn,” chàng nói. “Người già hay giữ những mảnh giấy linh tinh như thế mà chẳng có lý do gì.”

Màu đỏ trên đôi má nàng đậm hơn và lan xuống cả cổ. Đó là một dấu hiệu cảnh báo.

“Ông không phải người như thế,” nàng nói. “Nếu ngài xem nhật ký của ông, ngài sẽ thấy, ông rất cẩn thận. Ông đã cất mẩu giấy này tức là phải có lý do.”

“Chẳng có lý do nào cả,” chàng nói. “Tình trạng tuổi già sức yếu đã ảnh hưởng đến trí tuệ ông, thế thôi.”

Đôi mắt xanh của nàng nhíu lại, nhìn thẳng vào mắt chàng. “Ngài bảo em tìm kiếm những manh mối,” nàng nói. “Ngài bảo em tìm hiểu ngọn ngành vấn đề. Em đã không làm phiền ngài suốt mấy ngày liền. Giờ em đề nghị ngài giúp thì ngài xua đuổi em đi. Ngài biết quá rõ rằng tờ giấy này có một ý nghĩa gì đó.”

“Ta chẳng định bảo em làm gì cả!” chàng gắt lên. “Chẳng có kho báu nào hết. Chắc hẳn trước kia từng có, nhưng một người có lý trí phải biết rằng nó đã biến mất từ lâu rồi. Ngay cả ma mãnh cũng đã mất hứng với chuyện này. Em không thấy sao? Giờ không còn tiếng kèn túi gào réo trong đêm nữa đấy thôi? Không còn dấu hiệu của chúng, kể từ khi chúng viết mấy chữ xiêu vẹo trên tường tầng hầm.”

“Mấy hôm nay mưa gió,” nàng nói. “Chúng không muốn lê bước trong mưa với kèn túi và những đồ nghề giả ma khác.”

“Tầng hầm là một cái bẫy,” chàng nói. “Ta chẳng làm gì bí mật ở đó, và chúng đã nghe thấy chuyện ấy, theo cái cách mà mọi người nghe thấy mọi chuyện.”

“Và ngài nghĩ họ từ bỏ rồi, đơn giản thế thôi? Ngài nghĩ cái bẫy của ngài dọa được người ta bỏ đi chắc?”

“Ồ, trước đây chưa từng có ai đặt bẫy, phải không?”

Khuôn mặt đỏ bừng của nàng tối sầm lại. “Lisle, ngài không...”

“Thật ngớ ngẩn,” chàng nói. “Ta sẽ không tranh luận với em về chuyện ma quỷ đâu.”

Nàng vẫy tờ giấy trước mặt chàng. “ít nhất ngài cũng có thể...”

“Không,” chàng nói. “Ta sẽ không phí thời gian vào những tờ giấy nhàu nhĩ vô giá trị đâu.”

“Ngài sẽ không nói thế đâu nếu ngài đọc nhật ký của ông.”

“Ta sẽ không đọc nhật ký,” chàng nói. Chàng sẽ không đọc, khi mà nàng cứ đứng nhìn chằm chằm qua vai chàng. Mùi hương của nàng. Tiếng sột soạt gây rối trí. Thật không hề dễ chịu. Nàng biết họ cần giữ khoảng cách.

“Ngài đã bảo em tìm kiếm!” nàng gào lên. “Em bỏ ra không biết bao nhiêu thời gian, nghiên cứu hàng đống sách vở, nhật ký, thư từ. Hết giờ này qua giờ khác, cố gắng đọc những mẩu viết tay chi chít của cụ. Ngài là một kẻ...”

“Để làm cho em bận rộn thôi!” chàng bùng nổ. “Để giữ cho em tránh xa ta. Ta có cái nhiệm vụ ngu ngốc vô mục đích này - một sự hoang phí thời gian và tiền bạc - ở một nơi khốn khổ, nơi ta không bao giờ muốn đến - và ta sẽ không bao giờ ở đây nếu không phải tại em.”

“Em đang giúp ngài!”

“Ồ, phải, em đã giúp đỡ nhiều lắm. Nếu không vì em, ta đã bảo cha mẹ ta quên ngay chuyện hoang đường này đi. Thà chết đói ở Ai Cập ta còn thấy vui hơn sống ở đây. Sao ta phải quan tâm đến tiền bạc của họ chứ? Hãy để họ dành gia sản cho các em ta. Ta có thể tự mình kiếm sống. Nhưng mà không, ta phải ở đây, nỗ lực chí ít cũng để làm cho xong công việc đáng nguyền rủa này, thế mà em còn đay nghiến và ép uổng ta bước vào một cuộc tìm kiếm vu vơ khác.”

“Đay nghiến và ép uổng? Ngài là một kẻ...”

“Đó chỉ là kế nghi binh! Lẽ ra hơn ai hết em phải hiểu điều đó chứ. Em bày kế đó suốt cơ mà. Ồ, ta đã sử dụng nó với em. Sao em lại thích nó? Sao em lại làm theo ý người ta làm gì?”

“Ngài... ngài...” Nàng chộp lấy mũ của chàng, giật ra, đập mạnh vào ngực chàng. Nàng quẳng nó xuống đất và giẫm lên.

“Hay lắm,” chàng nói. “Thật người lớn.”

“Nếu ngài là đàn ông, em đã thách ngài đấu súng rồi,” nàng nói.

“Nếu em là đàn ông thì ta lấy làm vui được bắn em.”

“Em ghét ngài!” nàng gào lên. “Ngài thật hèn hạ!” Nàng đá vào cẳng chân chàng.

Nàng đá rất mạnh, nhưng chàng quá giận dữ nên chẳng cảm thấy gì. “Tuyệt,” chàng cũng thét lên. “Đúng là đồ đàn bà.”

Nàng phùng má trợn mắt rồi tức giận bỏ đi.

Một giờ sáng

Thứ Ba ngày 25 tháng Mười

Đêm hôm đó trời trong, và dù đã qua trăng tròn, ánh trăng vẫn đủ sáng với những kẻ gây rối, bọn trộm cắp, và bất kỳ ai muốn do thám chúng.

Lúc này thì “bất kỳ ai” duy nhất ở đây là Olivia, nàng rón rén ra ngoài lâu đài khi mọi người đã lên giường. Nàng mặt quần ống bó của đàn ông, với chiếc quần chẽn vải lanh bên trong. Một cái áo gi lê, áo khoác, và một chiếc áo choàng len dày cộm có mũ trùm đầu để che chắn cái lạnh của đêm thu Scotland. Nàng còn mang theo chăn len để đối phó với giá rét căm căm.

Nhưng có lẽ nàng sẽ chẳng cần đến nó. Đã có dòng máu sôi sục sưởi ấm cho nàng rồi.

Những con ma biến mất rồi, phải không?

“Chúng ta sẽ chống mắt xem sao,” nàng thì thầm với chính mình.

Lẽ ra nàng nên đánh cược với chàng, đó là điều nàng nên làm, sau bữa tối lịch sự lạnh lùng của họ.

Chúng chưa đi, và em có thể chứng minh điều đó. Lẽ ra nàng nên nói thế.

Khi ấy chàng sẽ bảo, Em chẳng chứng minh được gì đâu.

Không ư? Ngài đặt cược gì nào?

Lâu đài Rùng Rợn được không? Em có thể lấy nó.

Đâu phải của ngài mà đòi đặt cược. Để em nói cho ngài biết: Nếu em chứng minh được ma chưa đi, ngài sẽ phải thôi không được hành động như một kẻ ngu ngốc nữa - ôi, xin lỗi, em quên mất. Ngài đâu thể thôi cái kiểu ấy được cơ chứ.

“Và ngài ấy sẽ nói...” Nàng nhìn lên tháp Bắc. Những ô cửa sổ tối om nói với nàng là chàng đã ngủ rồi - và nàng hy vọng chàng đang gặp những cơn ác mộng khủng khiếp. “Và ngài ấy sẽ nói... Mà ngài ấy sẽ nói gì nhỉ?”

Thôi bỏ qua. Nàng sẽ chứng minh mấy con ma vẫn chưa từ bỏ. Chỉ là chúng đang cân nhắc lại mưu mô thôi. Nàng sẽ cho chàng thấy điều đó.

Dù sao, nếu nàng đề nghị đánh cược thì chàng sẽ nghi ngờ ngay. Tốt hơn hãy để cho chàng nghĩ nàng đã chịu thua. Nếu biết nàng đang lên kế hoạch gì đó, chính chàng sẽ gây phiền phức cho nàng.

Nàng tuyệt nhiên không muốn một gã cáu kỉnh, bất hợp tác can thiệp vào việc của mình.

Nàng thậm chí không nói gì với Bailey về ý định tối nay vì Bailey sẽ thức chờ nàng, mà Olivia thì không biết mình sẽ ra ngoài bao lâu. Trong trường hợp bắt buộc, nàng sẽ ngồi rình tới tận bình minh. Nàng có một chỗ nấp khá ấm cúng.

Sự lựa chọn vị trí là rất dễ hiểu. Cái chòi canh đổ nát ở góc Tây Nam trên sân được xây dựng hoàn hảo cho mục đích quan sát. Tuy hiện nay nó không hữu dụng cho việc nhìn ngắm toàn cảnh vùng nông thôn xung quanh lâu đài, nhưng cửa của nó tạo ra một góc nhìn toàn cảnh ra sân và lại cho nàng một chỗ nấp rất kín đáo.

Phần duy nhất cần nỗ lực là chờ đợi. Ngồi yên tại chỗ, không có bài, không có sách, chẳng có gì để giải trí. Và ngồi trên đá, dù đó là một phiến đá rộng bằng phẳng, cũng chỉ dễ chịu một lúc đầu. Nàng cảm thấy cái lạnh xuyên qua cả lớp vải len dày, qua cả quần ống bó và quần chẽn vải lanh. Gió thổi vi vu qua những khe hở. Thời gian trôi qua, trăng sao bắt đầu mờ dần. Từ chỗ trú ẩn, nàng nhìn ra ngoài.

Trên cao, mây đang trôi vù vù theo cơn gió mạnh, phủ kín bầu trời và che khuất cả trăng sao. Nàng nấp sâu vào trong chỗ trú, kéo chăn thật chặt quanh mình. Thời gian trôi qua, không khí mỗi lúc một lạnh hơn. Hai chân nàng rét cóng. Nàng chuyển chỗ ngồi.

Có phải thứ nàng cảm thấy trên đôi má là không khí ẩm? Hay đó chỉ là cơn gió lạnh thấu xương? Ngón tay nàng ngày càng tê buốt. Đêm mỗi lúc một tối thẫm. Nàng chỉ còn nhìn thấy mép sân.

Gió gào rú qua khe đá hở và nàng nghe thấy gió hất tung từng đống lá khô, cuốn chúng xoay tròn khắp sân. Nàng lại di chuyển, nhưng không có đủ chỗ trống. Nàng không dám giậm chân cho đỡ ê ẩm nên ngón chân đau điếng vì lạnh. Mông nàng cũng bắt đầu tê rần.

Nàng nghĩ tới Lisle và những lời nói xấu xa của chàng, và những câu lẽ ra nàng có thể đáp trả, nhưng làm thế không còn giúp nàng nóng người lên được nữa. Nàng phải đứng dậy và đi lại nếu không tứ chi sẽ tê liệt mất. Nàng dợm đứng lên.

Một ánh sáng lóe lên bên khóe mắt nàng? Mà có thật thế không nhỉ? Quá ngắn ngủi? Một cái đèn lồng mờ tối chăng? Rồi mọi thứ tối sầm hơn nữa, không khí nặng trịch, cái chăn thì ẩm và lạnh ngắt.

Rồi nàng nghe thấy tiếng bước chân.

“Để ý cái đèn,” một giọng thì thào vang lên.

Thịch. Bụp. Thịch.

“Tao đếch thấy cái khỉ gì cả. Lại mưa rồi. Tao đã bảo mày...”

“Chỉ là sương mù thôi.”

“Mưa. Tao đã bảo mày... Chết tiệt thật!”

Ánh sáng lướt qua mặt Olivia, làm nàng lóa mắt.

Mẩu giấy cháy dở nhàu nhĩ xuất hiện trong tâm trí Lisle lần thứ một trăm khi chàng bắt đầu chìm vào giấc ngủ.

Những dòng xiêu vẹo lũ lượt diễu hành trong não chàng, và những biểu tượng lại xuất hiện trong những cái hộp nhỏ xíu.

Đó không phải là bản đồ, vì không có mũi tên và hình la bàn chỉ hướng.

Nhưng nó có thể là một loại mật mã, hoặc viết tắt.

Tâm trí chàng bắt đầu sắp xếp và sắp xếp lại các dòng chữ cùng với biểu tượng, giờ mà cố ngủ nữa thì thật chẳng ích gì, vì chàng còn phải suy nghĩ.

Chàng mở bừng mắt, ngồi dậy, thắp nến bên giường, miệng lầm bầm nguyền rủa.

Nàng đã khua khua tờ giấy trước mặt chàng và chàng không thể coi như không biết gì về nó được.

Chàng ra khỏi giường, mặc áo choàng vào, và khơi lại lửa trong lò sưởi. Chàng cầm cây nến lên, đi tới hộc cửa sổ rộng thênh thang. Cửa sổ này có một bệ ngắm cảnh, chắc hẳn đã có từ khi xây dựng lâu đài. Chàng đặt một chiếc ghế dài phía dưới, thế là có một bộ bàn ghế làm việc.

Vào ban ngày, ánh sáng rất chan hòa. Còn vào buổi đêm thì đây là một chỗ làm việc rất thú vị. Khi trời không mưa hoặc quá mù - cũng hiếm khi được thế - chàng có thể nhìn ra bầu trời đầy sao. Đó không phải trời đêm Ai Cập, nhưng rõ ràng trông khác xa thành thị với những lề thói và chuyện bực mình.

Chàng nhìn ra ngoài trời và nguyền rủa. Trời lại mưa.

“Cái xứ sở khốn khổ này,” chàng thốt lên.

Phải mất một lúc mắt Olivia mới lại nhìn rõ. Cái đèn lồng lại lóe lên, nhưng không trúng hướng nàng.

Nàng nghe thấy tiếng bước chân và giọng nói. Cái gì đó nện thịch xuống đất. Rồi tiếng bước chân chạy đi.

Nàng không kịp dừng lại để nghĩ.

Nàng ném phăng cái chăn ra, chạy theo chúng, chạy theo ánh đèn lồng, ánh sáng ấy lắc lư trong sân rồi lọt qua một lỗ tường hổng, lao ra lối đi rồi băng xuống đường.

Nàng nhận ra cơn mưa lạnh ngắt đang giội xuống, mỗi lúc một nhanh và mạnh hơn, nhưng cái đèn lồng vẫn lóe lên trước mắt nàng như con đom đóm, và ánh sáng ấy kéo nàng chạy theo, lao xuống đường. Rồi đột ngột nó biến mất. Không còn ánh sáng đâu nữa. Nàng nhìn khắp xung quanh. Trái, phải, phía trước, đằng sau.

Không có gì. Đen đặc. Mưa, mưa lạnh buốt, giội ầm ầm xuống đầu và vai nàng, chảy ròng ròng trên cổ nàng.

Nàng nhìn lại phía sau. Nàng thậm chí không nhìn rõ tòa lâu đài, một khối đen khổng lồ mờ ảo xa xa, phía sau màn mưa dày đặc đang tắm đẫm áo choàng và thấm cả vào áo khoác của nàng.

Cửa sổ không ánh đèn. Không gì cả.

Chẳng có gì giúp đỡ.

Không có chỗ nào để trú ẩn ở đây - và giờ đây nếu có tìm được chỗ trú ẩn thì cũng có ích gì? Găng tay của nàng đã thấm nước và bàn tay nàng đau buốt vì lạnh.

Nàng ra sức chạy, nhưng đôi chân giống như hai phiến đá lạnh, quần áo sũng nước mưa nặng trịch, và nếu nàng vấp ngã thì...

Đừng quá lo lắng.

Đi đi nào. Từng bước một.

Nàng run lập cập vì lạnh, đầu cúi xuống và lầm lũi trở lại lâu đài.

Cánh cửa vào phòng Lisle ở tháp Bắc rất dày. Nếu không có khe hở lớn ở bản lề - thêm một thứ cần sửa chữa - thì chàng đã không nghe thấy tiếng động ấy. Tuy nhiên, chàng không chắc có phải mình vừa nghe thấy gì đó hay không. Chàng đi tới cửa, mở he hé và lắng nghe.

Chàng nghe thấy tiếng lạo xạo và thì thầm.

Rồi một tiếng nguyền rủa. Dù rất nhỏ nhưng chàng vẫn biết đó là tiếng của ai.

Chàng cầm nến, ra khỏi phòng, rồi bước vào nơi từng là phòng sinh hoạt của lâu đài, căn phòng ngay phía trên đại sảnh, rộng gần bằng tuy thấp hơn. Nó cũng có một lò sưởi khổng lồ.

Olivia quỳ trước lò sưởi. Nàng run cầm cập, đang cố đánh lửa với hộp bùi nhùi.

Nàng nhìn lên và lóa mắt trước ánh nến của chàng. “Lisle?” nàng khẽ kêu lên.

Chàng nhìn kỹ nàng: tóc và quần áo ướt nhẹp, nước chảy xuống thành vũng nhỏ quanh nàng.

“Em vừa làm gì thế?” chàng hỏi. “Olivia, em vừa làm gì?”

“Ôi, L...isle,” nàng nói, người run bần bật.

Chàng đặt cây nến xuống rồi xốc nàng lên. Nàng ướt sũng, run lẩy bẩy. Chàng muốn quát lên giận dữ với nàng, và có lẽ nên làm thế. Khi ấy một ai đó sẽ nghe thấy - hầu gái của nàng hoặc đầy tớ của chàng, chí ít là thế - và vội chạy tới giúp đỡ.

Nhưng chàng không nổi giận với nàng. Chàng không nói gì. Chàng bế nàng vào phòng mình.